← Quay lại trang sách

Chương 18 Quá nóng, quá lạnh, vừa innnn

“Có một trận lở đất”, Borlen giải thích, vẫn còn thở hồng hộc. “Đường hầm số hai trăm linh ba.”

Ông thần lùn râu bạc chắt lưỡi. “Lần thứ ba trong thế kỷ này rồi đó. Ta đồ rằng chúng ta sẽ phải đào lại nó một lần nữa. Và xem chúng ta có gì đây? Một con sói, ta thấy rồi. Và con người! Borlen thân mến, con đang nghĩ gì vậy?” Con ghét con người mà.”

“Không còn quá nhiều như trước nữa,” Borlen bẽn lẽn đáp.

“Dĩ nhiên là thế rồi,” ông thần lùn tròn quay nói. “Họ nắm râu con, đúng không?”

“Hai lần ạ,” tôi đáp.

“Ha!” Ông thần lùn tỏ vẻ thú vị. “Ta là Rubald. Rất hân hạnh được gặp các cháu, với điều kiện các cháu không nắm râu của ta.” Ông khúc khích cười chân tình. “Mời vào! Mời vào trước khi phần còn lại của đường hầm sụp nốt.”

Borlen bước qua cánh cửa, theo sau là Sói, Goldie, rồi đến tôi. Trần của hành lang quá thấp đến mức tôi phải khom người để bước qua. Cuối cùng nó dẫn đến một căn phòng rộng hơn, chỉ đủ cao để tôi đứng thẳng, nếu tôi không thấy phiền những mẩu rễ cây đang treo lơ lửng từ trần nhà, cứ quẹt hoài vào đỉnh đầu tôi. Các bức tường cũng in vằn vện những khúc rễ cây lớn hơn, nên chúng tôi hẳn không còn ở quá sâu dưới lòng đất. Cảnh vật khiến tôi thấy nhớ da diết bầu trời xanh và không gian thoáng đãng.

Một thần lùn khác đang đứng trong hang, đảo đều thứ gì đó trong một cái nồi bắc trên bếp lửa. Súp xa-phia chăng? Hay món hầm ngọc hồng lựu?

“Rumelda! Nhìn xem ai này!” Ông Rubald nói.

Bà thần lùn đang đứng bên bếp lửa quay lại. Bà ta có mái tóc dài và một gương mặt tròn xoe, đầy đặn, với đôi mắt sẫm màu như của Borlen, có điều mắt bà ấm áp và dịu dàng hơn.

Bà Rumelda lập tức nhào vào Borlen và ôm chặt y trong vòng tay. “Bé cưng! Chúng ta đã lo lắng biết mấy!”

Borlen cố gắng chịu đựng cái ôm với sự kiên nhẫn không lớn hơn một đứa bé hiếu động đang tập đi. “Con ổn, mẹ à. Buông con ra!”

“Mẹ của anh ư!” Goldie thốt lên.

Mẹ Borlen ngước mắt lên nhìn Goldie và ánh mắt bà đanh lại. “Borlen, bé cưng, vì nhẽ gì mà con lại mang con người tới nhà chúng ta? Con ghét con người cơ mà.”

“Họ nắm vào râu nó đấy!” Ông Rubald vui vẻ nói.

“Ồ, không phải thế nữa chứ,” bà Rumelda quở quang. “Con không học được điều gì sau sự việc lần trước sao? Mẹ đã dặn con hàng ngày trong suốt hơn hai trăm năm qua, rằng con không được bén mảng lên mặt đất! Anh Rubald, nhẽ nào anh không thể chỉ bảo cho con trai anh điều đúng đắn?”

“Chúng ta không thể ấp nó suốt đời trong nôi được, Rumelda, em yêu à,” ông Rubald nói. “Lúc nào đó nó buộc phải tự đi trên chính đôi chân của mình, dù là trên mặt đất đi chăng nữa.”

“Nhưng nó còn quá non dại cho những việc mạo hiểm như vậy,” bà Rumelda nói. “Trẻ con hễ cứ đạt đến tuổi trăm là lại nghĩ mình đã đủ khôn lớn để vẫy vùng thế giới!”

“Anh bao nhiêu tuổi rồi?” Goldie hỏi, và mặc dù tôi ngờ rằng hỏi như thế là rất bất lịch sự, nhưng bản thân tôi cũng rất tò mò.

“Tôi mới hai trăm bảy mươi sáu tuổi,” Borlen giận dữ đáp.

“Quyết không thể!” Goldie phản đối. “Không ai có thể sống lâu như vậy.”

“Hử,” ông Rubald đáp. “Ta đã chín trăm linh ba tuổi, còn bà Rumelda đây thì tròm trèm một ngàn rồi đó.”

“Trời đất quỷ thần ơi!” Goldie nói. “Các vị còn lớn tuổi hơn cả những cái cây! Red, cậu có biết rằng thần lùn có thể sống lâu như vậy không?”

“Không, tớ chịu,” tôi đáp.

“Ông Rubald, thật là thiếu lịch sự khi nhắc đến tuổi tác của thần lùn trước mặt con người,” bà Rumelda trách móc. “Nó khiến họ cảm thấy yếm thế!”

“Ôi, các cháu thứ lỗi,” Rubald nói, nhưng tôi không hề cảm thấy phiền lòng. Đầu óc tôi quay cuồng với cuộc sống kéo dài nhiều thế kỷ của họ. Thần lùn liệu có thể bất tử hay không? Họ có bí quyết gì để trường thọ? Họ ái độ thô thiển của Goldie.

“Ôi, vâng, chân cháu sắp rời cả ra rồi đây.” Goldie ngồi phịch xuống một trong mấy cái ghế và ngọ nguậy, rồi nhảy sang ghế khác. Nó ngồi thử tất cả số ghế cho đến khi yên vị trên một chiếc ghế đu nhỏ màu vàng và thư giãn. “Ô, phải. Phải rồi, chiếc này thật là hoàn hảo.” Nó đu đưa cái ghế ra trước rồi ra sau.

“Nhưng... nhưng...,” Borlen lắp bắp.

“Nào, nào, con yêu,” bà Rumelda nói. “Tối nay mẹ nấu món mà con ưa thích đây. Xa-phia xào.”

“Đó không phải món ưa thích của con,” Borlen làu bàu, và tôi biết y đang thèm hồng ngọc. Chiếc nhẫn của bà dường như đang châm nhoi nhói nơi ngực tôi.

Trong lúc đó, bà Rumelda đang đặt trước mặt Borlen và ông Rubald món xa-phia nom như một mớ rau xào, tiếp đó dọn ra ba bát chất lỏng sền sệt mà Goldie vừa húp sạch trước đó. Họ gọi nó là strolg. “Dạ dày yếu ớt của các cháu không tiêu hóa nổi món đá quý của chúng ta, ta biết,” bà Rumelda nói. “Nhưng strolg thì bất cứ sinh vật nào cũng ăn được, kể cả chó sói.”

Strolg là một loại cháo rất mặn để lại dư vị sàn sạn sau ăn, nhưng ít nhất nó còn dễ nuốt. Goldie xử lý bát tiếp theo trong vòng năm giây và lại xin thêm bát nữa, sau đó nó tuôn ra hàng tràng thắc mắc quen thuộc.

“Liệu thần lùn chỉ ăn đá quý, hay các vị còn ăn những thứ khác nữa, ví dụ như vụn gỗ? Than đá? Và nó gây ảnh hưởng lên... hệ thống tiêu hóa của quý vị như thế nào?”

Mặt các thần lùn đỏ bừng.

Tôi phát sặc món strolg. “Goldie, cậu không nên hỏi điều đó.”

“Sao lại không? Mẹ tớ bảo rằng muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, nếu không thì làm thế nào chúng ta tìm hiểu mọi thứ?”

“Tớ không nghĩ rằng lời khuyên đó bao gồm cả câu hỏi về hệ thống tiêu hóa của bất kỳ ai đâu.”

“Tất nhiên là có chứ. Cậu biết có bao nhiêu vật thể sống có thể chén được đá? Tớ thấy điều đó rất thuuuuuuú vị,” Goldie ngáp dài. “Xin lỗi mọi người, bỗng nhiên tôi thấy buồn ngủ quá.”

“Cháu được hoan nghênh nghỉ lại trên giường của chúng ta,” ông Rubald nói, “mặc dầu có thể cháu sẽ cảm thấy không thoải mái.”

Giường của các thần lùn thực ra là những cái hốc nhỏ tạc thẳng vào các bức tường. Goldie bò vào một trong số đó và lập tức chui ra. “Làm sao lại có người ngủ trong đó được? Tôi bị đá chọc vào khắp mình mẩy.”

“Chữa trị chứng vẹo lưng của ta,” ông Rubald giải thích.

Goldie lại bò vào cái giường tiếp theo và chóng vánh trườn ra vì cái giường quá trơn. “Có vẻ không an toàn.”

“Ta là người dễ thức giấc,” bà Rumelda đáp.

Borlen xen vào, “Liệu mà tránh xa...”

Nhưng Goldie đã trèo vào cái giường thứ ba, cái giường nhỏ nhất, tuy nhiên nó ngay tức khắc cuộn lại thành một quả bóng và quấn cái khăn choàng quanh mình như một tấm chăn. “Ôi, đúng rồi, cái giường này ấm quá.” Vài giây sau nó đã ngủ thiếp đi.

Borlen chết lặng cả người. “Có một con người đang ngủ trên giường của tôi.”

Ông Rubald cười sung sướng.

“Nào, nào, Borly, con yêu,” bà Rumelda thủ thỉ. “Mẹ sẽ trải cho con một chiếc giường ấm cúng trên sàn nhà cạnh mẹ.”

Vì Goldie đã lăn ra ngủ, bầu không khí trở nên rất tĩnh lặng, và tôi nhận thấy ba vị thần lùn đều hướng sự chú ý cả vào tôi.

“Vậy,” ông Rubald mở lời. “Cái gì đã mang cháu đến hang động của chúng ta? Chỉ có một con người với kiến thức rất uyên thâm mới biết mẹo nắm vào râu thần lùn, và chỉ có một yêu cầu rất kỳ lạ mới có thể đưa cháu đi qua những cái động này.”

“Cháu đã nhờ anh Borlen đưa cháu đến tòa lâu đài bị phù phép,” tôi nói, “để tìm những bông Hoa Hồng Đỏ.”

Ông Rubald gật đầu. “Thần lùn chúng ta xưa nay luôn rất ngưỡng mộ tòa lâu đài ấy. Những cái miệng máng xối hình đầu thú có mắt nạm những viên hồng ngọc, và người ta nói chúng có chứa phép thuật diệu kỳ, giống như những bông Hoa Hồng Đỏ cháu đang tìm kiếm!”

“Vậy là các vị đã sử dụng chúng!” Tôi phấn khích reo lên. “Đó là lý do thần lùn sống lâu đến thế, phải không ạ?” Ôi, thật là tuyệt vời khi biết rằng một người có thể sử dụng những bông hoa hồng ấy mà không phải chịu quá nhiều phản ứng phụ nặng nề. Có thể chính bùa phép đã khiến cho thần lùn ăn đá. Điều này có thể chấp nhận được, đúng không? Ăn đá để sống lâu hơn có vẻ là một sự đánh đổi công bằng. Hoặc có thể những bông hồng đã khiến cho thần lùn bị lùn?

Liệu Ngoại có phiền không nếu phải trở thành một thần lùn và ăn đá? Còn tôi thì sao?

Nhưng ông Rubald lắc đầu. “Thần lùn sống lâu tự nhiên. Chúng ta chưa bao giờ khao khát cuộc sống vĩnh hằng, nên chúng ta không tìm kiếm nó. Đá quý giúp chúng ta khoẻ mạnh trong một thời gian đủ dài. Khi chúng ta đi đến cuối chặng đường, chúng ta vui vẻ nằm xuống yên nghỉ và biến thành bụi và đá, có thể cả đá quý nữa.”

Tôi nhăn mặt. “Vậy là... thần lùn ăn lẫn nhau ư?”

Ông Rubald bật cười. “Khi con người chết đi, họ biến thành đất, và tất cả những loài cây lương thực đều mọc lên từ đất ấy. Do đó ta đồ rằng cháu có thể nói rằng tất cả chúng ta đều đang ăn lẫn nhau. Cuộc sống tiếp diễn theo những vòng tuần hoàn khép kín.”

“Có vẻ không giống như vậy,” tôi nói. “Nhất là khi ai đó chết đi.”

“Để ta cho cháu xem thứ này,” ông Rubald bước tới đằng sau tôi và đứng đối diện với một bức tường. Tôi không nhận ra điều nàylúc nãy, nhưng trên khắp các bức tường hang động đều được phủ kín mít tranh vẽ và chữ viết: ấy là những tấm bản đồ, được vẽ chi tiết một cách đáng ngạc nhiên. Có những lối mòn uốn lượn quanh những hàng cây, trèo lên núi, dẫn tới những địa danh khác nhau, phần lớn trong số đó tôi chưa từng nghe qua, ví dụ như Đầm Lầy Sôi Sục, Biển Rắn hay Quần Đảo Ẩn. Một vài lối mòn còn có lời ghi chú, tỉ dụ như Bước bảy bước về bên trái sau khi đặt chân lên vách đá, hay Chớ ăn những trái dâu dại vàng, có độc. Nó gợi nhắc tôi về chiếc bàn ăn của Ngoại, với tất cả những công thức được bà khắc chi chít trên mặt gỗ.

Tôi lần theo con đường của mình dẫn đến dòng suối nơi tôi gặp Borlen, xuôi theo con sông và ngọn núi tới chiếc Giếng Rượu, nơi cũng được đánh dấu, rồi ngược lên thượng nguồn nơi chúng tôi đang đứng, trong Hang Động Thần Lùn, và chi tiết hơn, NHÀ, đánh dấu bằng một vòng tròn và một dấu X màu đỏ.

Xa hơn trên bức tường, tôi tìm thấy nhà mình. Có một ngôi làng, khu mỏ, thậm chí cả ngôi nhà của Ngoại - một túp tranh nhỏ đề Phù Thủy Rừng Xanh.

Tôi đặt bàn tay lên nhà của Ngoại và cảm thấy nhớ bà da diết. Nếu bà ra đi mãi mãi, tôi sẽ còn thương nhớ đến đâu?

“Con người các cháu có vẻ sợ hồi kết của cuộc sống,” ông Rubald nói, như đọc thấu suy nghĩ của tôi. “Nó là một lời nguyền đối với cháu, hay là không?”

“Nó... không phải là một thứ dễ chịu,” tôi đáp. “Cháu nghĩ sẽ tốt hơn nếu có cách nào đó để kéo dài cuộc sống.”

“Và thế là cháu đi tìm những bông Hoa Hồng Đỏ,” ông Rubald nói.

“Cháu đang tìm cách cứu Ngoại,” tôi nói. “Chúng cháu đã thử cái Giếng Rượu, nhưng việc đó hỏng bét. Goldie uống phải chút rượu và bị mất một phần trí nhớ, ông thấy đó ạ.”

“Borlen!” bà Rumelda quát to. “Con cố tình chỉ mấy cô bé đến Giếng Rượu phải không?” Borlen không dám nhìn vào mặt mẹ mình, mặt đỏ bừng. “Thằng bé lùn tịt tai quái này! Con biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ uống phải mà!”

“Thì sao ạ?” y lúng búng. “Ai bảo họ nắm râu con!”

“Và đó là lỗi của con vì đã mò lên trên mặt đất. Không, con phải xin lỗi ngay tắp lự!” Lần này chính bà lão chộp vào hàm râu đứa con và xách y ra trước mặt tôi.

Borlen nhìn chằm chằm xuống chân mình vẻ thách thức. “Xin lỗi,” y khạc ra.

“Nếu có ai phải xin lỗi, đó chính là tôi,” tôi đáp. “Tôi thật thô lỗ khi nắm râu anh. Giờ tôi đã nhận ra điều đó. Nhưng tôi vẫn cần anh giúp đỡ. Anh còn nhắc đến một cách khác, bên cạnh Bông Hồng Đỏ. Anh gọi nó là Những Trái tim Màu nhiệm? Nhưng tôi không tìm thấy nó ở đâu trên bản đồ.”

Ông Rubald sững người. Bà Rumelda thở hổn hển. “Borlen, con không thể làm như thế!”

Borlen khoanh tay trước ngực. “Con không hề nói cho cô bé điều gì khác ngoài cái tên, và bên cạnh đó, cũng chẳng còn gì để nói. Chúng ta cũng có biết gì hơn đâu, thật sự là thế.”

“Cháu không hiểu,” tôi ngơ ngác. “Những trái tim có thật không ạ?”

“Ồ, có chứ,” Ông Rubald đáp. “Nhưng...” Ông thần lùn liếc về phía tấm bản đồ. “Ta không chắc rằng Phù Thủy Rừng Xanh sẽ thích phép thuật đặc thù này. Con nghĩ sao, Borlen? Con từng gặp bà ấy rồi mà.”

Borlen nheo mắt lườm bố mình.

“Ý ông là sao ạ? Ông không định nói rằng Ngoại cháu...”

“Chẳng lẽ bà ấy chưa bao giờ kể cho cháu nghe về tay thần lùn bà ấy từng gặp và nắm râu?”

Tôi gật đầu. “Ông muốn nói đó chính là...”

“Đó là Borlen!” Bà Rumelda xác nhận. “Phải đến bảy mươi năm trước, lúc Borlen mới rời khỏi vành nôi - một thằng nhóc siêu quậy lẻn trốn khỏi ta ngay trong cơ hội đầu tiên nó chớp được, và rồi bị tóm râu bởi một phù thủy!”

“Cô ta ăn cắp ngọc của con!” Borlen cãi.

“Không đúng,” tôi nói. “Ngoại nói rằng tay thần lùn đã đánh cắp ngọc từ tay một hoàng tử! Bà chỉ lấy chúng lại thôi.”

“Gã hoàng tử đã trộm ngọc của ta,” Borlen giận dữ nói. “Nên ta chỉ đòi nó lại từ tay hắn, và rồi bà ngoại yêu quý của cô đã nắm vào râu ta để buộc ta trao chúng cho cô ta!”

“Tại sao một hoàng tử lại đi trộm ngọc? Anh ta đường đường là hoàng tử cơ mà?”

Borlen nhướng một bên lông mày. “Cô chưa bao giờ nghe đến lòng tham của những bậc đế vương sao?”

Tôi nuốt lại những lời định nói. Tôi biết lắm chứ. Vua Bartholomew Archibald Reginald Fife là người vô cùng tham lam. Lòng tham vô đáy của ông ta suýt làm diệt vong cả Vương Quốc. Bản thân ông ta cũng bị diệt vong hoàn toàn, nhưng đó lại là một câu chuyện khác.

“Bà cô không chịu lắng nghe câu chuyện từ góc độ của tôi,” Borlen nói.

Đầu óc tôi quay cuồng. Ngoại chưa từng kể tôi nghe về những điều này. Tôi bắt đầu tự hỏi còn điều gì khác tôi chưa được biết về Ngoại.

“Xin lỗi nếu như bà tôi đã gây ra những rắc rối đó cho anh. Xin lỗi vì tôi cũng đã gây ra bao nhiêu là rắc rối.”

Borlen phát ra một tiếng gầm gừ, nghe như một sự chấp thuận cho lời xin lỗi của tôi.

“Giờ thì, Những Trái tim Màu nhiệm là gì? Mọi người có thể cho cháu biết điều gì đó được không?”

Ông Rubald và bà Rumelda nhìn nhau. “Chúng ta cũng chỉ được nghe đồn, nên không lấy gì làm chắc chắn. Chỉ những người từng thực sự sử dụng phép thuật đó mới biết rõ.”

“Đến giờ Borlen đi ngủ rồi,” bà Rumelda nói, rõ ràng là đang sẵn sàng chấm dứt cuộc chuyện trò. “Tụi bây đã nếm trải quá đủ kích động trong ngày hôm nay rồi.” Borlen vừa càu nhàu vừa ngáp.

Sói nằm cuộn tròn bên bếp lửa, và Goldie đang ngáy khò khò trên giường của Borlen. Bà Rumelda đặt một phiến đá ở cạnh giường mình cho Borlen nằm, rồi đặt y vào giữa những tảng đá mỏng như thể chúng là những chiếc gối êm ái. Bà ru y ngủ bằng một bài hát về một cô gái đào xuyên mười dặm đá chỉ để kiếm một viên hồng ngọc và rồi sống đến mười ngàn năm. Borlen thiếp ngủ với một nụ cười bình yên đọng trên gương mặt.

Ông Rubald và tôi ngồi yên lặng một lát, khi bà Rumelda cũng sửa soạn chăn màn đi ngủ. Cuối cùng ông nói bằng một giọng trầm tư.

“Cái chết là một điều khó khăn, ngay cả đối với thần lùn,” Ông Rubald nói. “Khi một thần lùn chết trẻ, dù đã đạt độ tuổi hàng trăm, chúng ta vô cùng tiếc thương.” Vừa nói ông vừa ngắm nhìn Borlen và thở dài. “Ta cho rằng ta có thể đồng cảm với cuộc tìm kiếm của cháu, mặc dù thần lùn có câu ngạn ngữ: ‘Hãy để hòn đá rơi đúng chỗ.’ Nó có nghĩa là đôi lúc chúng ta buộc phải để cho mọi thứ diễn ra theo cách nó phải thế.”

“Và đôi lúc chúng ta cũng buộc phải can thiệp vào mọi thứ,” tôi nói. “Đôi lúc chúng ta phải ngăn chặn việc xấu xảy ra.”

“Cả hai chúng ta đều nói đúng,” ông Rubald nói. “Sự thông thái thật sự nằm ở chỗ chúng ta phải phân biệt được khi nào cần can thiệp, và khi nào cần buông tay.”

Tôi không còn hơi sức để đáp lời. Tất cả những gì tôi biết là tôi sẽ không bỏ cuộc. Ngoại không phải là một tảng đá mà tôi có thể vứt bỏ sang bên. Bà là ngọc quý với tôi, cũng giống như một viên hồng ngọc đối với thần lùn, một thứ mà tôi cần có đến khủng khiếp trong đời.

Tôi nằm xuống cạnh Sói và rúc đầu mình vào trong đường lượn nơi bụng nó. Nó đặt một bàn chân lên vai tôi.

“Chúc ngủ ngon, Sói,” tôi thì thầm.

Đôi tai của Sói hơi rung rung, và tôi cảm nhận được sự bằng lòng trong nó. Nó lan tỏa trong tôi, gỡ lỏng những khúc mắc trong đầu tôi, đưa tôi chìm vào một giấc ngủ dịu dàng và êm ái.