Chương 20 Bữa tiệc của gã quái thú
Gã quái thú giam chúng tôi trong một căn phòng và rời đi mà không nói một lời. Goldie lăn lê bò toài đến cánh cửa và nện thình thình. “Xin ông!” Nó gào lên. “Tôi sẽ không bao giờ được gặp mẹ lần nữa! Tôi sẽ không bao giờ còn được yêu thương!” Nó rung lắc như điên tay cầm của cánh cửa, thế rồi trượt xuống sàn nhà và nằm thành một vũng đầm đìa nước mắt.
Tôi ngồi bên cạnh Goldie, quá choáng váng đến nỗi không tài nào khóc được. Một ký ức lóe lên trong đầu tôi về lần cuối cùng tôi bị nhốt trong một tòa lâu đài, cùng với Rump. Lần ấy, chúng tôi bị đưa tới đó vì những rắc rối phép thuật của cậu ta. Lần này tôi chẳng thể trách được ai ngoại trừ bản thân mình, và cũng chỉ có tôi mới giải thoát được cả hai đứa.
Tôi kiểm tra căn phòng. Nó không phải là một buồng giam hay cũi nhốt, mà là một phòng ngủ rất lịch sự với hai cái giường. Những tấm khăn trải giường được thêu hoa hồng, một chiếc màu đỏ, chiếc kia màu vàng, như thể gã quái thú - hoặc tòa lâu đài - đã biết trước rằng tôi và Goldie sẽ tới.
Tôi đi tới cửa sổ và tìm kiếm trên sân tòa lâu đài bóng dáng Sói. Nó đã trốn thoát được chưa? Tôi có thoát được không? Chắc chắn là không thể. Chúng tôi đang ở rất cao so với mặt đất, và chẳng có cái cây nào ở gần khung cửa sổ.
Một cái đồng hồ kêu tích tắc trên tường. Nó có hình bông hồng - một đóa hoa hồng đỏ. Những cánh hoa xếp rất đều đặn bên vòng ngoài, với những chiếc lá và những cái cuống đầy gai ở vị trí kim chỉ giờ. Chiếc đồng hồ đã kêu tích tắc cả ngàn tiếng rồi. Mỗi kim dài chỉ đến một ô số, một cánh cửa nhỏ xíu mở ra và một con chim ló ra, hót líu lo như thể đang gửi đi những thông điệp, nhưng chẳng có gì xảy ra. Gã quái thú chẳng hề xuất hiện.
“Cậu nghĩ gã quái thú sẽ làm gì chúng ta?” Goldie hỏi.
“Tớ không biết nữa.”
“Cậu có nghĩ hắn muốn ăn thịt chúng mình không?” Goldie hỏi.
“Có thể,” tôi đáp. “Nhưng như thế, hắn hẳn phải mang chúng mình xuống bếp hoặc hầm rượu chứ.”
Chiếc đồng hồ cứ hót líu lo hết lần này đến lần khác. Chúng tôi bị nhốt ở đây đã được năm giờ rồi, theo như con chim nhỏ.
“Tớ đói quá,” Goldie nói khi cánh cửa kêu lách cách và bật mở. Không có ai bước vào.
“Cậu có nghĩ trong lâu đài này có ma không?” Goldie run lập cập.
“Có lẽ.” Tôi bước về phía cánh cửa và ló đầu ra ngoài. Chẳng có ai đứng đó. Tôi bước một bước ra khỏi phòng.
“Đừng đi!” Goldie ré lên. “Nếu con ma bắt được cậu thì sao?”
“Chẳng lẽ cậu cứ muốn ở chết dí trong căn phòng này?”
“Không,” Goldie đáp.
“Vậy thì đi thôi. Cậu có nhớ cánh cửa lâu đài đã để cho chúng mình vào không? Có lẽ tòa lâu đài sẽ cho phép chúng mình ra. Có lẽ nó đứng về phía chúng mình.” Goldie lau khô nước mắt và đứng dậy. Ngay khi chúng tôi bước ra khỏi căn phòng, cánh cửa khép và khóa lại một lần nữa, nên chúng tôi không thể quay trở lại. Không hiểu sao bị nhốt ở ngoài còn gây lúng túng hơn là bị nhốt ở bên trong.
Bên tay phải chúng tôi, có một bức tường đá kín bưng. Chỉ có duy nhất một ngả cho chúng tôi rẽ, đó là bên trái. Chúng tôi bước dọc theo hành lang, và khi chúng tôi bước đi, những chiếc giá cắm trên tường tự thắp sáng những ngọn nến bên trong.
“Đúng là có ma thật rồi,” Goldie nói, đeo vào tôi chắc đến mức móng tay nó hằn vào da tôi thành những cái dấu nho nhỏ hình vầng trăng khuyết.
“Không phải ma đâu,” tôi nói. “Phép thuật đấy. Đây là một tòa lâu đài bị phù phép, nhớ không?” Và tôi phải thừa nhận, đó là những phép thuật tuyệt hảo, ít nhất cũng điêu luyện. Kể cả những bức tượng miệngmáng xối, dù nom thật khủng khiếp, nhưng cũng vô cùng ấn tượng. Chỉ có vài phù thủy hoặc pháp sư cực kỳ quyền năng mới có thể tạo nên những câu thần chú và bùa phép như vậy. Liệu có phải chính quái thú đã ếm chúng?
Hành lang kết thúc bằng một cầu thang lớn, dẫn xuống tiền sảnh và cửa chính. Không hề thấy bóng dáng gã quái thú. Không hề có người hầu hay binh lính đứng canh gác. Goldie và tôi nhìn nhau, rồi ba chân bốn cẳng ùa xuống cầu thang, chạy tới cánh cửa, và xoay tay nắm. Chúng tôi đẩy và kéo, nhưng nó đã bị khóa trái và không hề nhúc nhích.
“Tớ đồ rằng tòa lâu đài không hoàn toàn đứng về phe chúng ta đâu,” Goldie nói. Ngực tôi nhói đau khi chứng kiến Goldie tuyệt vọng đến mức này. Nó giống như một con bướm nhỏ bị tước đi đôi cánh vậy.
“Chúng ta sẽ tìm lối khác để thoát thân,” tôi nói, cố gắng tỏ ra vui vẻ và không mảy may lo lắng. “Và trong khi tìm kiếm, chúng ta có thể khám phá tòa lâu đài! Đâu phải ai cũng có cơ may lọt vào bên trong một tòa lâu đài đâu, đặc biệt là khi nó bị phù phép.”
Goldie tươi tỉnh lên một chút. “Chuẩn. Tớ luôn luôn muốn được sống trong một tòa lâu đài, nhưng mà với tư cách của một công chúa cơ, chứ không phải tù nhân của một con quái thú.”
“Kén chọn gớm,” tôi quở.
Một cánh cửa bên tay phải chúng tôi bỗng mở ra đánh két, gần giống như một lời mời mọc bước vào bên trong. Chúng tôi tiến vào một phòng khách khổng lồ với rất nhiều ghế bọc đệm và những chiếc bàn được khắc chạm công phu. Trên mặt bàn là rất nhiều bình lọ cắm đầy hoa hồng tàn.
“Ai cũng nghĩ rằng gã quái vật ít nhất cũng phải thay hoa tươi chứ,” Goldie nói. “Hắn đầy hoa ra mà!”
“Red! Red! Red!” một giọng nói vang lên quang quác. Tôi quay lại và nhìn thấy một con chim sặc sỡ nhốt trong một cái lồng bằng vàng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy con chim nào như thế này. Nó màu xanh lá cây với những đôi cánh viền xanh lơ, và nó biết nói tiếng người. “Red! Red! Red!” nó cứ kêu lên quàng quạc.
“Nó biết tên cậu kìa!” Goldie nói.
“Goldie! Goldie! Goldie!”
“Trời đất quỷ thần ơi! Nó biết cả tên tớ nữa! Tớ đang tự hỏi liệu nó có thể chỉ cho bọn mình đường thoát không. Làm ơn, hỡi chim xinh đẹp, mi có thể mách chúng ta lối thoát khỏi tòa lâu đài?”
“Bị giam, bị giam, bị giam!” Con chim nói. “Red! Goldie! Red! Goldie! Bị giam!”
“Thật cũng chẳng hữu ích lắm đâu,” Goldie nói.
Ở mé phía tây của gian phòng là một khung cửa sổ lớn lắp kính màu, với hình ảnh của một người phụ nữ tuyệt đẹp. Những lọn tóc quăn sẫm màu, mềm mại khuôn lấy gương mặt nàng. Nàng mặc một bộ váy áo màu xanh da trời và đội một chiếc vương miện bạc cẩn xa-phia trên mái đầu. Ánh tà dương chảy tràn qua các ô cửa kính, rót những dải ánh sáng đủ màu lên trên cái nền bụi bặm của tòa lâu đài. Có gì đó rất kỳ lạ ở người phụ nữ vẽ trên cửa sổ, như thể nàng ta cũng bị phù phép. Đôi mắt nàng quá sống động, chiếc váy của nàng mềm mại hơn là cảm giác của kính, và những viên xa-phia thì lấp lánh tựa như ngọc thật chứ không chỉ là thủy tinh màu nữa. Tôi tự hỏi nàng có thể là ai.
Tôi bước loanh quanh, nhìn đăm đăm vào những pho tượng nhỏ kỳ quặc, các món dụng cụ và những chiếc hộp gây tò mò, nhưng đủ thận trọng để không động vào bất cứ thứ gì trong số đó. Tôi có thể cảm thấy phép thuật đang chảy xuyên qua các bức tường. Nó râm ran nơi những ngón tay tôi, kêu vo vo trong tai tôi, khiến tóc tôi dựng đứng lên. Nội trong căn phòng này thôi đã có hàng tá những bùa phép và câu thần chú, tất cả đan xen vào nhau, và chỉ cần kéo một sợi dây cũng đủ làm hé ra một tấm màn che phủ sự hỗn loạn.
“Red, nhìn xem này!” Goldie chỉ vào một cây bút lông công đang tự viết. Nó tự nhúng thân mình vào lọ mực và viết nên những nét chữ trang nhã lên một tờ giấy màu kem đặt trên một cái bàn nhỏ.
Bữa tối đang được dọn ở phòng ăn.
Chủ nhân đang chờ đợi...
Goldie với tay lấy cây bút.
“Goldie, đừng có động vào nó!”
Đã quá muộn. Con bé đã nắm chặt bàn tay quanh cây bút và bắt đầu nguệch ngoạc lên trang giấy. “Bạn có phải ma không?” Nó vừa viết vừa đọc thành tiếng. “Bạn có thể giúp chúng tôi trốn thoát... Ui da!” Cây bút tự giằng khỏi Goldie và chọc vào tay nó.
Chớ để chủ nhân phải đợi lâu.
Hậu quả sẽ vô cùng kinh khiếp.
Nhân nói đến kinh khiếp, mi đang bị thò lò mũi xanh đó.
Mi sẽ tìm được một chiếc khăn tay trong ngăn kéo bàn này.
Bàn tay của Goldie sờ ngay lên mũi. “Thật là vô duyên! Nhưng liệu tớ có thực sự bị thò lò mũi xanh không?” Nó hếch cằm lên cho tôi nhìn.
“Có.”
“Sao cậu không nói gì?” Goldie mở cái ngăn kéo bàn và tìm thấy một chiếc khăn tay màu trắng thêu một bông hồng ở góc. Nó hỉ mũi và chuẩn bị nhét chiếc khăn trở lại vào trong ngăn kéo thì cây bút lại viết thêm lần nữa.
Mi có thể giữ nó luôn. Ta không thích quà tặng từ mũi. Chỉ từ trái tim thôi.
“Nó là một cây bút rất láo toét,” Goldie nói.
“Nhưng mà thông minh,” tôi nói, rất thú vị với cây bút tự viết.
Goldie thở dài. “Đi tìm phòng ăn thôi. Tớ đói lắm rồi, mà lại đang ngửi thấy thứ gì ngon quá.”
Ngay khi nó nói câu đó, một cánh cửa phía bên tay phải chúng tôi bật mở, và mùi thức ăn xộc vào, mạnh mẽ và mời gọi. Thịt quay, rau và hành. Tỏi. Bơ. Bánh mì. Chúng tôi để cho cái mũi mình dẫn dắt cho đến khi tìm thấy nguồn gốc của những mùi vị thơm ngon kia.
Chúng tôi bước vào trong một căn phòng ăn trang nhã. Chiếc bàn bày đầy ắp hàng tá những món ăn khác nhau, tất cả đều đang bốc khói và tỏa thơm ngào ngạt. Những chiếc đĩa bằng bạc đã được bày ra, và ánh nến lung linh thắp sáng căn phòng.
Gã quái thú ngồi ở đầu bàn. Hắn đã bắt đầu ăn, xé một cái đùi cừu và nhai rau ráu khúc xương trong khi nước hoa quả chảy ròng ròng trên bộ lông xám xỉn.
Khi nhận ra Goldie và tôi, hắn chùi miệng bằng một bàn chân lông lá.
“Ngồi đi,” hắn nói, chỉ vào hai chiếc ghế kê hai bên hắn.
Khi chúng tôi ngồi xuống, một chiếc liễn bằng bạc tự động nhấc lên khỏi bàn và múc súp nóng còn bốc hơi vào bát chúng tôi. Đó là món súp cà chua.
“Ăn đi,” gã quái thú ra lệnh.
Goldie cắm đầu vào ăn cái bát của nó ngay tắp lự, nhưng tôi thì không. Tôi không nghĩ nó có độc, nhưng tôi không thích cái cách gã quái thú ra lệnh cho chúng tôi làm việc nọ việc kia, chờ chúng tôi chấp hành như những con chó.
“Tôi không đói,” tôi nói.
“Có, bạn ấy có đấy,” Goldie lanh chanh. “Chúng tôi đói gần chết. Chúng tôi chưa được ăn gì từ sáng ở nhà các thần lùn, vì họ toàn ăn đá thôi.”
Tôi quắc mắt lên nhìn Goldie và nghiến chặt răng. “Tôi không đói.”
Gã quái thú trừng mắt nhìn tôi. “Ăn đi,” hắn nói, giọng nói trầm thấp và nguy hiểm.
Tôi không nói gì, chỉ trừng trừng nhìn lại. Hắn vẫn không chịu ngó đi chỗ khác, và tôi cũng thế, nên chúng tôi bị trói vào một cuộc đọ mắt bất đắc dĩ. Tôi chưa bao giờ thất bại trong một cuộc đọ mắt, nên tôi đã nghĩ mình sắp chiến thắng đến nơi cho đến khi gã quái thú rống lên ầm ĩ và hung tợn đến mức một cơn gió ào qua mặt tôi và thổi tắt vô số ngọn nến. Sẽ là dối trá nếu tôi nói rằng điều đó không hề đe dọa được mình, nhưng tôi không thể để lộ ra điều đó. Đây là một trận chiến cân não. Tôi cầm những món đồ ăn bằng bạc của mình lên như thể chuẩn bị ăn, nhưng ngay khi gã quái thú bắt đầu thư giãn, tôi đập mạnh dao dĩa xuống mặt bàn và khoanh tay lại trước ngực.
Gã quái thú nhảy lên bàn, xô đổ tất cả đĩa ăn, cốc chén và cái liễn đựng súp cà chua. Hắn ghé mặt mình vào cách mặt tôi chỉ vài inch. “Mi nghĩ mi dũng cảm lắm, đúng không?” Hắn nói. “Nhưng chỉ những kẻ có nỗi sợ sâu sắc nhất mới tới tìm những bông hồng của ta, cho nên có lẽ mi cũng chẳng dũng cảm chút nào?”
Tôi lưỡng lự một cách không chủ tâm. Goldie như đã hóa đá, gương mặt dính lấm tấm những vệt súp cà chua, chiếc thìa vẫn đặt dở trên đầu lưỡi.
Gã quái vật trèo xuống khỏi cái bàn. Hắn nghiền nát một chiếc bánh ngọt và đụng rớt một ổ bánh mì.
Một sự im lặng cẳng thẳng bao trùm căn phòng. Gã quái vật tiếp tục tấn công chỗ thức ăn, mắt vẫn trợn trừng nhìn tôi. Một lát sau, Goldie lại ríu rít chuyện trò như mọi khi.
“Đồ ăn ngon tuyệt,” Goldie nói. “Ông nấu đấy ạ?”
“Không.”
“Thế thì hẳn ông phải có một người đầu bếp tuyệt vời,” Goldie nói.
“Không.”
“Mẹ ông?”
“Không.”
“Thế thì vợ ông?”
Gã quái thú suýt mắc nghẹn khúc xương. “Không. Tòa lâu đài cung cấp tất cả mọi thứ ta cần.”
“Ôii, tuyệt vời làm sao! Tòa lâu đài của ông có tình cờ làm được món bánh tart táo vàng không? Mẹ tôi làm được loại tart táo vàng ngon lành nhất. Tôi ngờ rằng ngay cả một tòa lâu đài có phép thuật cũng không thể làm ngon hơn được đâu.”
Gã quái thú gãi gãi cái cằm lông lá, rõ ràng không biết nên trả lời Goldie thế nào.
“Tên ông là gì?” Goldie hỏi. “Ông chưa nói với chúng tôi.”
“Quái Thú,” gã quái thú đáp.
“Đương nhiên, nhưng tên thật của ông cơ ấy? Cái tên bố mẹ đã đặt cho ông. Chắc chắn họ không đặt tên ông là Quái Thú rồi.”
Gã quái thú gầm gừ, phô ra hàm răng nhọn hoắt.
“Quái Thú là một cái tên đặc biệt phù hợp.” Goldie húp món súp của mình. Khi chiếc bát đã cạn sạch, một con dao và cái dĩa thái vài lát thịt cừu và đặt lên đĩa nó, trong khi một chiếc thìa múc cho nó một ít khoai tây và củ dền. Dạ dày của tôi sôi òng ọc có thể nghe thấy được, nhưng tôi vẫn cương quyết không đụng tới thức ăn.
Goldie hỏi thêm hàng tá câu hỏi về tòa lâu đài- cách thức nó vận hành, những việc khác nó có thể thực hiện bên cạnh chuyện nấu nướng, và liệu Quái Thú có nghĩ rằng tòa lâu đài có thể giúp cho mẹ nó thương yêu nó. Gã quái thú chủ yếu trả lời “Không” hoặc “Ta không rõ” với sự kích động ngày một một tăng, cho đến khi tôi sợ rằng hắn sẽ bùng nổ thêm lần nữa nên đã thay đổi chủ đề.
“Ông định giam giữ chúng tôi trong bao lâu, Quái Thú?” tôi hỏi.
“Cho đến khi ta lấy được thứ ta muốn,” hắn đáp.
“Ông muốn gì?”
“Sự hoàn trả những gì đã bị đánh cắp khỏi ta.”
“Nhưng tôi không hề đánh cắp thứ gì cả. Những bức tượng miệng máng xối của ông lấy bông hồng đi rồi còn đâu.”
“Phải, bông hồng,” hắn đáp. “Mi ước đem nó về cho bà ngoại mi, Phù Thủy Rừng Xanh, mi đã nói vậy đúng không? Và nếu như thực sự là một phù thủy, lẽ nào bà ta không có một phép thuật tương tự như vậy của chính mình?”
“Có chứ,” tôi đáp. “Nhưng bà quá ốm để thi triển một phép thuật hùng mạnh như thế.”
“Thế còn mi, cháu gái của bà ta, cũng không thể thực hiện được phép thuật ấy ư? Bà ta không truyền dạy cho mi sao?”
Tôi cảm thấy mặt mình nóng bừng lên. “Bà đâu thể dạy tôi mọi thứ.”
“Red rất sợ phép thuật,” Goldie chen vào với một miệng đầy ứ bánh mì. “Bạn ấy đã từng suýt giết chết bà mình!”
Đôi tai của Quái Thú rung rung. “Suýt giết chết bà mình! Nghe mới thú vị làm sao.” Hắn xé nốt mẩu thịt cuối cùng và vứt khúc xương sang một bên. Một cái bình tự rót rượu vào trong chiếc ly của hắn, và hắn nốc cạn.
“Ông sẽ làm gì với chúng tôi?” Tôi hỏi.
“Biến bọn mi thành tôi tớ, tất nhiên.”
“Tôi tớ của ông ư?” Tôi hỏi. “Để làm gì chứ? Ông vừa mới nói với chúng tôi là tòa lâu đài chăm lo cho mọi nhu cầu của ông cơ mà?”
Gã quái thú lơ đãng ngắm nghía một cái móng chân của mình. “Một tòa lâu đài có phép thuật sẽ tước đi mọi thú vui làm chủ. Ta thấy nhớ việc được ra lệnh và chứng kiến bọn chúng miễn cưỡng phục tùng. Hai đứa mi sẽ lấp đầy chỗ trống đó trong trái tim ta.” Hắn đứng dậy khỏi bàn, phủi sạch vụn bánh mì khỏi bộ lông, rồi hất toàn bộ bãi chiến trường trên mặt bàn xuống sàn nhà.
“Giờ thì dọn dẹp cái đống rác này đi.” Với một cú phất áo choàng, hắn rảo chân bước khỏi phòng ăn. Cánh cửa đóng sầm lại sau lưng hắn.
Goldie và tôi vẫn ngồi bất động, cố gắng thấu hiểu khoảnh khắc kỳ lạ vừa rồi. “Ít nhất thì hắn cũng sẽ không ăn thịt chúng mình,” Goldie nói.
Dạ dày của tôi gào thét. Khi gã quái thú đã đi khỏi, thì việc ăn uống không còn là điều gì đó quá đáng xấu hổ nữa. Tôi với tay lấy thìa của mình, nhưng cái thìa cứ lăn khỏi những đầu ngón tay tôi. Tôi cố gắng nhấc cái bát lên để húp, nhưng nó giật ra và tưới súp lên khắp mặt tôi.
“Gruuuuu!” Tôi gầm lên và vồ lấy tất cả đồ ăn ở trong tầm với, nhưng tất thảy đều nhảy lên và trượt khỏi tôi. Cái dao và dĩa bắt chéo nhau ở đằng trước món thịt cừu.
“Đoán chừng bữa tối kết thúc rồi chăng?” Goldie nói. “Tớ nghĩ chúng mình phải dọn dẹp thôi.”
“Gã quái thú đó sẽ không thể bắt tớ làm bất cứ điều gì đâu.” Tôi đùng đùng bỏ về phía cánh cửa và xoay nắm đấm, nhưng nó không mở ra. Tôi lại bỏ sang cánh cửa mé đối diện của căn phòng, nhưng nó cũng không nhúc nhích. Chỉ đến khi Goldie bắt đầu chất bát đĩa lên một cái khay, thì một cánh mới kêu lạch cạch và hé mở. Cánh cửa dẫn chúng tôi vào bếp, nơi chất từng chồng nồi niêu bình lọ cao như núi chờ được rửa.
Tôi rên rỉ.
“Cũng không đến nỗi quá tệ mà.” Goldie xắn tay áo lên. “Chúng ta có thể xử lý việc này nhanh nhảu như tiên tí hon nếu phối hợp với nhau.”
Nhưng rửa bát đĩa trong một tòa lâu đài bị phù phép không hề đơn giản như Goldie dự đoán. Khi chúng tôi bắt tay vào cọ rửa chúng, những cái đĩa tự giằng khỏi tay chúng tôi và tự lao mình vào tường và trần nhà vỡ tan tành, rắc những mảnh sứ vụn tung tóe khắp nơi. Chúng tôi thử lại mấy lần nữa đều cho kết quả tương tự.
“Tớ nghĩ chúng nó bị nhột đấy,” Goldie nói.
Lũ bát đĩa thật là phiền toái. Chúng tôi chỉ được rửa chúng theo một cử động vòng tròn nhất định, và với một lực chà vừa phải, nếu không chúng sẽ nổi điên lên và chúng tôi sẽ có thêm đống ngổn ngang để quét dọn. Nhưng điều tệ hại nhất lại là mấy cái bình và nồi. Tôi tình cờ kỳ cọ hơi quá mạnh tay một cái nồi đen to tướng, cùng loại nồi mà Ngoại sử dụng để bào chế độc dược, và nó chụp lên đầu tôi, dội ướt sũng toàn thân tôi bằng nước cọ nồi bẩn thỉu. Goldie phá lên cười khúc khích. Niềm an ủi duy nhất là con bé bị trượt chân ngã vào cái nồi của chính mình và nhận hậu quả y chang.
***
Sau khi núi bát đĩa được rửa sạch, tòa lâu đài hướng dẫn chúng tôi quay trở về phòng. Trên hai chiếc giường đã đặt sẵn hai chiếc váy ngủ màu trắng, một chiếc có những bông hoa hồng đỏ và chiếc kia với hoa hồng vàng thêu trên gấu.
Goldie bước ra sau tấm bình phong để thay đồ và reo lên. “Có một cái bồn tắm nước nóng ở đây này!” Tôi nghe thấy tiếng nó nhảy tõm vào trong nước. “Ôi, cảm giác mới tuyệt vời làm sao! Đã bao nhiêu năm nay tớ mới lại được tắm trong một bồn nước nóng. Tớ sẽ kỳ thật sạch bụi đất và cáu ghét khỏi người.”
“Đừng quên cả nước mũi đấy nhé,” tôi nói.
Goldie ngừng lại một lát rồi nói. “Cảm ơn, Red. Cậu đúng là một người bạn chân chính.”
Sau khi Goldie tắm xong, cái bồn liền tự rút sạch và làm đầy lại bằng nước sạch bốc hơi nghi ngút. Tôi chẳng mong gì hơn là được đổ gục xuống giường ngủ thẳng cẳng, nhưng người tôi dơ dáy một cách kinh khủng, và tôi biết mình sẽ ngủ ngon hơn nếu tắm. Bên cạnh đó, tôi cũng thật là hôi hám. Tôi ngâm mình và kỳ sạch ghét bẩn, rồi nhúng đầu xuống bên dưới mặt nước. Tôi xoa xà phòng cánh hoa hồng lên khắp mình mẩy.
Khi tôi bước ra khỏi bồn tắm, Goldie đã lên giường và ngủ từ lúc nào, mái tóc quăn ướt đẫm của nó tãi ra trên mặt gối. Tôi mặc chiếc váy ngủ, rồi ngồi xuống cạnh lò sưởi và lau khô mái tóc bằng một chiếc khăn tắm. Một cái lược tự bay lên khỏi mặt bàn như thể muốn chải mớ tóc rối giúp tôi.
“Quên việc đó đi,” tôi nói, và nó rơi trở lại chỗ cũ.
Tôi trườn lên trên giường, nó êm nhẹ như lông vũ và mượt mà như sa-tanh. Căn phòng này trông và tạo cảm giác không hề giống với một nhà tù. Tôi được cho ăn uống tử tế, tỏa mùi thơm tho hơn bất cứ khi nào, nhưng tất cả những tiện nghi đó chỉ khiến cho tim tôi như bị bóp nghẹt. Tôi thà chịu mục rữa trong ngục tối, còn hơn là được o bế nuông chiều trong khi Ngoại thì hấp hối nằm đó. Tôi đã ở gần phương thuốc cứu Ngoại lắm rồi. Ngay bên ngoài tòa lâu đài là những Bông Hồng Đỏ, nhưng làm sao tôi có thể hái được chúng mà không bị gã quái thú và lũ Thú Máng Xối của gã tấn công?
Xa xa, một con sói tru lên, giọng cao và ai oán. Trái tim tôi nhảy vọt lên. Tôi trườn khỏi giường và chạy tới cửa sổ. Tôi không thể nhìn thấy nó, nhưng tôi biết chắc chắn đó chính là Sói. Nó vừa gọi tôi vừa than khóc.
Tới đây, nó tru lên. Tôi có thể cảm nhận được nỗi buồn thảm trong những tiếng than van của nó. Nó cảm thấy nó đã bỏ rơi tôi, và tôi cũng bỏ rơi nó. Giờ thì còn ai sẽ bảo vệ cho nó nữa?
Tôi dí sát mũi vào khung cửa sổ. “Tớ vẫn an toàn mà,” tôi nhắn nhủ nó. “Hãy bảo trọng, bạn thân yêu.” Tôi cố gắng gửi thông điệp của mình tới nó, nhưng lời lẽ của tôi chẳng là gì hơn ngoài một tiếng thì thầm.
Tôi trằn trọc mãi không ngủ nổi. Trong đầu tôi cứ quay cuồng mãi những diễn biến xảy ra trong ngày hôm nay. Những bông hồng. Gã quái thú. Ngoại. Tôi ngờ rằng nếu không nhắc đến tên Ngoại, gã quái thú đã thả chúng tôi ra. Có điều gì đó về Ngoại đã khơi gợi sự chú ý nơi hắn, và tôi tự hỏi liệu có phải gã quái thú cầm tù tôi ở đây như một con tin. Hắn nói hắn muốn thứ gì đó. Thứ gì đó đã bị tước đoạt khỏi hắn. Nó có thể là gì được nhỉ? Dù là gì đi chẳng nữa, dường như hắn cần có phép thuật để vãn hồi nó - sự giúp đỡ của Ngoại.