Chương 11
Như Maude đã tường thuật, lão nam tước hung hãn, có sáu vệ sĩ theo sau, đã xộc vào căn ngục giam Allan Clare.
Tù nhân không còn thấy đâu nữa.
— À! À! - Lão vừa kêu lên vừa cười lớn như một con hổ (ấy là nói ví thử như loài hổ có thể cười được). - À! À! Ra họ thi hành lệnh của ta chu đáo như thế đấy; ta thật hài lòng! Nhưng vậy thì những tên cai ngục của ta và những buồng gian của ta dùng để làm gì nhỉ? Có nữ thánh Griselda chứng giám, từ nay ta sẽ đích thân lo lấy việc thi hành những quyền hành pháp của ta từ bậc cao đến bậc thấp, không cần đến các thứ đó nữa, và ta sẽ nhốt các tù nhân của ta vào buồng the của con gái ta… Egbert Lanner, tên giữ chìa khoá, đâu rồi?
— Thưa Đức Ông đây ạ, - một người lính trả lời: - con phải canh riết hắn chứ không hắn sẽ trốn mất ngay ạ.
— Hắn mà trốn mất thì ta sẽ treo cổ người thay cho hắn ngay… Egbert, mi lại đây. Mi có thấy cánh cửa buồng giam này không? Nó đóng rất chặt; mi có thấy cái cửa sổ này không? Nó chỉ bằng hai bàn tay, Thể thì mi thử nói ta nghe, làm thế nào kẻ bị giam, vóc người chẳng lấy gì làm mảnh dẻ, không thể nào chui qua cửa sổ, mà cũng chẳng thể nào biến thành không khí để chui qua lỗ khóa, làm thế nào mà hắn có thể thoát ra được?
Egbert, mặt cắt không còn hột máu, đành im lặng.
— Mi thử nói ta nghe, vì một quyền lợi đê tiện nào mà mi đã trợ thủ cho tên tội phạm kia tẩu thoát? Ta hỏi ngươi điều đó không hề có ý căm giận gì, ngươi hãy bình tĩnh và trả lời ta không sợ sệt. Ta vốn nhân hậu và công bằng, cho nên nếu người thật thà thú tội, có thể ta tha tội cho ngươi.
Lão nam tước tỏ ra đại lượng bao dung như vậy thật uổng công; vì Egbert đã có quá nhiều kinh nghiệm về lão đặng có thể tin rằng lão thành thật trong khi nói như vậy, cho nên hắn chỉ lặng thinh không đáp, trong lòng kinh hãi tưởng đến chết được.
— Chao ôi! Các ngươi thật là một lũ nô lệ đần độn! - Fitz Alwine bỗng quát lên, - ta sẵn sàng đánh cuộc rằng trong chúng bay không có lấy một đứa nào đủ tỉnh trí để báo cho lão gác cổng lâu đài biết những việc vừa xảy ra? Mau lên, một đứa nào đó trong chúng bay hãy chạy ra báo với Hubert Lindsay là ta ra lệnh kéo cầu treo lên và đóng hết các cửa ra vào lại!
Một tên lính lập tức chạy đi, nhưng hắn bị lạc trong mấy dãy hành lang tối om của tòa lâu đài, và lao đầu xuống một cái cầu thang dẫn xuống hầm rượu. Hắn chết ngay tức khắc nhưng chẳng ai hay biết gì, cho nên mấy người vượt ngục đã kịp ra khỏi lâu đài trong khi nam tước yên trí là người gác cổng đã thi hành mệnh lệnh của mình.
Một người lính của nam tước nói:
— Thưa Đức Ông, ban nãy khi chúng tôi đến đây, tôi mường tượng trông thấy có ánh đuốc thấp thoáng cuối dãy hành lang dẫn đến nhà nguyện.
— Thế mà người đợi mãi đến bây giờ mới nói cho ta hay sao? - Nam tước quát lên. - Trời ơi, quả thật chúng nó đã thề với nhau là cho ta chết dần dần như bị nướng sống trên lửa nhỏ ngọn, cái quân khốn nạn! Nhưng chúng nó sẽ chết trước ta! - Nam tước hét lên, giọng tắc nghẽn vì tức giận; - phải, chúng bay sẽ chết trước ta, và ta sẽ bày ra cho chúng bay một hình phạt ghê gớm, nếu ta không bắt được tên vô lại kia, và trước tiên thằng Egbert sẽ phải thay nó bước lên giá treo cổ đã!
Dứt lời, Fitz Alwine giật phắt bó đuốc trên tay một tên lính và lao về phía nhà nguyện. Lúc bấy giờ Christabel đang đứng trước phần mộ của mẹ nàng xây trong nhà nguyện, có vẻ như đang chìm sâu vào suy tưởng.
— Các ngươi hãy lục soát kỹ khắp các ngõ ngách, bắt hắn cho kỳ được, dù là bắt sống hay giết chết cũng được! - Nam tước ra lệnh.
Toán lính vội bỏ đi tìm.
— Còn con, con làm gì ở đây?
— Thưa cha, con đang cầu nguyện.
— Chắc con đang cầu nguyện cho một tên vô lại chỉ xứng đáng với giá treo cổ?
— con đang cầu nguyện cho cha trước phần mộ mẹ con; cha cũng thấy đấy.
— Tên đồng lõa của con ở đâu?
— Đồng lõa nào kia ạ?
— Tên phản phúc phúc ấy, tên Allan chứ còn ai?
— Con không được biết ạ.
— Con nói dối, hắn đang ở đây.
— Thưa cha, con chưa bao giờ dám dối cha.
Nam tước đưa mắt nhìn kỹ gương mặt nhợt nhạt của cô thiếu nữ.
— Thưa ngài, cả hai tên đều không thấy đâu cả ạ. - Một người lính tới báo.
— Sao? Cả hai tên đều không thấy đâu ư? - Fitz Alwine nhắc lại: bây giờ lão đã sinh nghi về sự tẩu thoát của Robin.
— Thưa ngài thật thế đấy ạ. Chẳng phải có hai tên tù vượt ngục là gì?
Cay cú vì thấy Robin thoát khỏi tay mình, tên Robin đã từng dám trực diện đương đầu với lão, Robin người mà lão đã định sau này sẽ dùng cực hình để khai thác một số tài liệu về Allan, nam tước đặt bàn tay rộng bản lên vai tên lính đã tỏ ra sơ xuất, nói:
— Cả hai tên ư? Ngươi hãy giải thích cho ta rõ ý nghĩa và giá trị của mấy chữ này.
Người lính rùng mình dưới sức ép của bàn tay lực lưỡng, và không biết trả lời ra sao.
— Nhưng trước hết ngươi là ai đã?
— Thưa Đức Ông, tôi tên là Gaspard Steinkorf; lúc bấy giờ tôi đang đứng canh trên thành, và chính…
— Tên khốn kiếp! Thế ra chính mi đã đứng canh sau cánh cửa phòng giam con sói non vùng Sherwood ấy sao? Mi chớ nói rằng mi đã để cho hắn trốn thoát đấy, kẻo ta sẽ đâm chết mi ngay bây giờ!
Từ nay chúng tôi xin miễn nói rõ những sắc thái giận dữ thiên hình vạn trạng của nam tước; chỉ cần xin các độc giả biết cho rằng ở lão sự giận dữ đó trở thành một tập quán, một sự tất yếu: đối với nam tước ngừng nổi giận cũng chẳng khác nào ngừng thở vậy.
— Vậy ra mi thú nhận là hắn đã tẩu thoát trong khi mi đang phiên canh trên thành phía Đông? - Ngài nam tước nói sau một lát im lặng; - sao, mi hãy trả lời đi!
— Thưa ngài, ngài đã đe là sẽ dùng con dao găm kia đâm chết tôi nếu tôi thú nhận kia mà, - tên lính đáng thương trả lời.
— Và ta sẽ làm đúng như thế.
— Vậy thì tôi xin im lặng.
Nam tước đã giơ tay lên định đâm người lính khốn khổ kia thì tiểu thư Christabel đã kịp giữ tay lão lại, nói lớn:
— Ôi thưa cha, con van xin cha đừng làm cho ngôi mộ này vấy máu!
Lời thỉnh cầu thống thiết này đã có hiệu lực; lão nam tước đẩy mạnh tên lính ra, bỏ con dao găm vào vỏ, rồi nghiêm nghị nói với cô con gái:
— Tiểu thư hãy về phòng riêng ngay; còn chúng bay, hãy lên yên phi nhanh theo con đường Mansfeldwoohaus; chắc bọn tù nhân đã chạy trốn theo con đường này, chúng bay sẽ dễ dàng bắt kịp chúng nó; ta rất cần chúng nó, chúng bay phải bắt chúng nó cho kỳ được, bằng bất cứ giá nào, nghe chưa?
Toán lính tuân lệnh, và Christabel vừa rời khỏi nhà nguyện thì Maude chạy đến gặp cô chủ, ngón tay đặt lên môi, nói khẽ:
— Thoát rồi! Thoát rồi!
Cô tiểu thư liền thành kính chắp tay lại để tạ ơn Chúa và đi tiếp về phòng khuê, sau lưng có Maude đi theo.
— Khoan đã! - Nam tước gọi giật lại, lão đã nghe thấy Maude thì thầm điều gì với cô chủ. - cô Hubert Lindsay, tôi cần nói chuyện với cô một lát. Kìa, cô lại đây, có ai ăn thịt cô đâu mà cô sợ sệt thế?
— Con không biết ạ, - Maude hoảng sợ đáp; - nhưng Đức Ông đang giận dữ như vậy, con không dám…
— Cô Hubert Lindsay ạ, ai mà chẳng biết cô khôn ngoan như thế nào, và ai cũng biết thừa là không dễ gì cô sợ hãi chỉ vì một đôi mày cau lại đâu. Tuy vậy, nếu muốn thì cũng có cách làm cho cô run sợ hẳn hoi, cho nên cô coi chừng, đừng làm cho người ta nảy ra cái ý muốn ấy… Thế thì cô nói đi: ai “thoát rồi” thế? Ta nghe thấy cô nói như vậy mà, ta nghe rõ cả rồi đấy, cô gái xinh đẹp và trơ tráo của tôi ạ!
— Thưa Đức Ông con có nói là có ai thoát rồi đâu ạ, - Maude vừa đáp vừa mân mê tà áo dài, vẻ hết sức ngây thơ vô tội.
À, cô không nói là có một người nào đã thoát, phải không cô đào hát xinh đẹp, và điên đảo kia? Nhưng hình như cô nó nói là “họ” đã thoát được: không phải một người, mà nhiều người!
Cô nữ tỳ lắc đầu quầy quậy.
— Nói dối bị bắt quả tang mà vẫn còn chối sao?
Maude nhìn nam tước trân trân, vẻ hết sức đần độn ngơ ngác, như thể không hiểu mấy chữ “quả tang” có nghĩa là gì.
— Cô đừng tưởng cô giả vờ ngây mà lừa được ta, - nam tước nói tiếp. - Ta biết thừa là cô đã giúp bọn tù nhân của ta tẩu thoát. Nhưng cô chớ vội ca khúc khải hoàn: chúng nó chưa đi được xa lâu đài lắm đâu mà đã tưởng là lính của ta không thể đuổi kịp. Chỉ một tiếng nữa là ta sẽ xem thử cô có cứu nối chúng nó khi lính tráng của ta trói sấp lưng từng cặp một đưa lên thành xô chúng xuống hào nước không.
— Thưa Đức Ông muốn trói chúng lại từng cặp lưng sấp lưng thì phải giải chúng về đây đã chứ ạ, - Maude vặn lại, vẫn với cái vẻ ngây thơ đần độn rất tương phản với đôi mắt sáng lên long lanh đầy ẩn ý tinh nghịch.
— Và trước khi xô chúng xuống hào, người ta sẽ cho chúng xưng tội; nếu có đủ bằng chứng cho thấy cô thông đồng với chúng, ta sẽ xem thử cô có run sợ không, cô Hubert Lindsay ạ.
— Xin tùy ý Đức Ông.
— Nhưng rồi chẳng vừa ý cô lắm đâu, cô sẽ thấy.
— Có thánh Valentin chứng giám! Thưa Đức Ông, giá con được biết trước những ý định của Đức Ông về phần con thì hay quá, ít ra con cũng sẽ có đủ thì giờ dọn mình, - cô vừa nói thêm vừa nhún mình thi lễ.
— Quân hỗn láo!
— Thưa tiểu thư, - cô nữ tỳ nói tiếp, giọng hoàn toàn điềm tĩnh, vừa nói vừa xích lại gần cô chủ lúc bấy giờ đang đứng im lìm bất động, trông như một pho tượng của đau khổ, thưa tiểu thư, xin tiểu thư nghe em mà lui về phòng, đêm đã khuya, trời trở lạnh… Tiểu thư không mắc bệnh thống phong như Đức Ông, nhưng…
Lão nam tước nóng tính đâm ra hoang mang trước thái độ giễu cợt thản nhiên đó. Lão ngắt lời cô nữ tỳ, và lần cuối cùng lão hỏi lại xem cô ta muốn nói về ai khi cô thì thầm với tiểu thư Christabel “Thoát rồi”.
Câu hỏi của nam tước lần này hầu như không có gì giận dữ lắm, và Maude hiểu rằng đã đến lúc phải trả lời; cô bèn làm như thể chịu thua sự kiên trì của lão nam tước, nói:
— Thưa Đức Ông, ngài đã đòi con phải nói thì con xin nói. Vâng, thưa ngài quả con có nói hai chữ “thoát rồi”, nói khẽ thôi để khỏi để lộ sự xúc động của con, trước mặt lính tráng của ngài. Nhưng dù có tinh khôn cũng thật khó lòng giấu ngài điều gì. Vậy xin thưa rằng khi nói với tiểu thư là “thoát rồi”, con muốn nói về anh cai ngục Egbert đáng thương kia mà ngài có ý định treo cổ, nhưng rồi lại thôi, đội ơn Chúa! - Maude nói thêm, đoạn khóc oà lên.
— Thế này thì giỏi thật! - Lão nam tước kêu lên. - Nhưng mà thế thì cô tưởng ta là một thằng ngu hay sao, cô Maude? Chà chà! Thật là phi lý! Cô dám làm dụng sự nhẫn nại của ta sao! Ấy, thế thì tên Egbert sẽ bị treo cổ, và cô đã yêu quý hắn như vậy thì cô cũng sẽ được treo cố cùng với hắn.
— Xin đa tạ Đức Ông, - cô hầu phòng vừa đáp vừa cười phá lên; đoạn cô nhún mình chào rồi quay ngoắt lại đi theo gót Christabel lúc bấy giờ vừa ra khỏi nhà nguyện.
Fitz Alwine liền đi theo Maude, miệng lẩm bẩm một thiên độc thoại ứng tác đầy những lời thóa mạ đối với tính giảo quyệt của đàn bà. Cái thái độ xấc xược và nhạo báng của Maude đã kích thích những bản năng hung bạo của nam tước đến cực độ. Lão không còn biết trút cơn giận lên đầu ai, và bằng cách nào; lão sẵn sàng nhượng một nửa gia tài cho kẻ nào nộp ngay cho lão hai tên Robin và Allan. Và để chóng qua cái thời gian ngồi đợi toán linh có nhiệm vụ đuổi theo mấy người đào tẩu, lão bèn quyết định trút nỗi bực mình lên hai thầy trò tiểu thư Christabel.
Maude cảm thấy nan tước đi phía sau, đâm hoảng, liền cần đuốc chạy thật nhanh, thành thử lão bỗng thấy xung quanh tối sầm lại không còn trông thấy gì, bèn tuôn ra một tràng những lời nguyền rủa hướng về Maude và toàn thể nhân loại.
— Ngài nam tước thật là một cơn bão! - Maude vừa lẩm bẩm vừa bỏ đi.
Nhưng cô gái này, vốn tinh nghịch nhiều hơn là tàn ác, chợt thấy hối hận khi nghĩ rằng mình vừa bỏ mặc một ông già bệnh hoạn trong dãy hành lang tối om, liền đứng lại. Trong bóng tối cô mường tượng nghe thấy những tiếng kêu cứu. Quả nhiên có tiếng kêu ú ớ:
— Có ai cứu tôi với! Cứu với!
— Hình như tiếng ngài nam tước thì phải? - Made liền mạnh dạn quay trở lại. - Ngài ở đâu thế thưa ngài?
— Ở đây này, con xỏ lá ạ! - Fitz Alwine đáp; tiếng lão nghe như từ cõi âm ty vọng lên.
— Trời ơi! Làm thế nào mà ngài lại xuống tận đây? - Maude dừng lại ở một lối rẽ tối tăm có cái cầu thang dẫn xuống hầm rượu, đưa đuốc lên soi thì thấy lão nam trước năm sõng sượt trên các bậc thang, may mà có vật gì cản không thì đã lộn cổ xuống đáy hầm rồi.
Lão nam tước trong khi giận dữ đã đi lạc lối như tên lính khốn khổ ban nãy chạy đi báo tin cho ông gác cổng lâu đài đóng cổng lại. Cũng may nhờ có cái áo giáp mặc bên trong chiếc áo thung, lão đã trượt trên các bậc thang mà không bị thương, và chân lão đã tìm được một chỗ tựa trên cái xác của tên lính vừa chết Cái sự cố này đối với cơn giận của lão nam tước cũng gây được một hiệu quả tương tự như hiệu quả của một trận mưa đối với một cơn gió lớn.
— Maude, - lão vừa nói vừa khó nhọc đứng dậy với sự nâng đỡ của cô nữ tỳ, - Chúa sẽ phạt cô vì tội đã bất kính đối với ta đến mức nỡ bỏ ta trong bóng tối mà đi, chẳng có đèn đuốc gì cả.
— Con xin ngài lượng thứ; con đi theo tiểu thư, và con cứ tưởng là Đức Ông đã có tên lính hậu cầm đuốc đi theo. Đội ơn Chúa! Ngài vẫn bình an vô sự, và lòng trời đã không cho phép vị chủ nhân hiền từ của chúng con rời bỏ chúng con mà đi… Xin ngài tựa vào cánh tay con.
Ngài nam tước biết thừa là không thể giở lại cái trò giận dữ điên cuồng trong khi vẫn đang cần đến sự giúp đỡ của cô nữ tỳ, bèn ôn tồn dặn cô ta:
— Maude ạ, nhớ nhắc tội phạt cái thằng say rượu nằm ngủ dưới cầu thang kia năm mươi roi nhé.
— Xin Đức Ông yên tâm, con sẽ xin nhắc, không dám quên đâu ạ.
Hai người đều không hay biết rằng cái “thằng say rượu” kia thật ra chỉ còn là một cái xác chết; ánh lửa mờ mờ lay động từ ngọn đuốc tỏa ra không đủ chiếu sáng cái thang gác, mà ngài nam tước thì quá mải bật tâm với sự cố vừa xảy ra với cái thân thể quý báu của lão cho nên không nhận ra rằng cái bậc thang loang cổ vì máu chứ không phải vì rượu vang.
— Bây giờ Đức Ông định đi đâu ạ? - Maude hỏi.
— Đến phòng tiểu thư.
“Ôi! Tội nghiệp cho tiểu thư!” - cô hầu phòng nghĩ bụng, - ông ta lại bắt đầu hành hạ tiểu thư một khi đã ngồi thoải mái trong một chiếc ghế bành”.
Ngồi trước một chiếc bàn nhỏ có đặt cây đèn bằng đồng, Christabel đang chăm chú ngắm nghía một vật nhỏ đặt trong lòng bàn tay; khi nghe thấy tiếng chân nam tước bước vào, nàng vội vàng giấu nó đi.
— Cái vật nhỏ kia là cái gì mà con vội vàng giấu đi thế?
— Đấy, ông ta lại bắt đầu rồi! - Maude lẩm bẩm.
— Cô nói gì thế Maude?
— Thưa Đức Ông, con nói là hình như Đức Ông đau lắm.
Ngài nam tước đa nghi ném một cái nhìn giận dữ về phía cô hầu phòng.
— Con hãy trả lời đi: cái của khỉ kia là cái gì thế?
— Thưa cha đó không phải là cái của khỉ ạ.
— Thế thì là cái gì?
— Có lẽ là quan niệm của cha không giống quan niệm của con, - Christabel đáp, môi cố mỉm một nụ cười.
— Một người con thảo không thể có quan niệm gì khác quan niệm của cha được. Cái vật bậy bạ kia là cái gì?
— Nhưng con xin thề với cha rằng đó không phải là một vật bậy bạ.
— Con ạ, - ngài nam tước nói tiếp với một giọng điểm tĩnh khác thường, nhưng lại rất nghiêm nghị, - con ạ, nếu cái vật mà còn giấu ta không dính líu với một lỗi lầm nào con đã phạm phải, hoặc không nhắc nhở cho con một kỷ niệm nào đáng chê trách, con hãy đưa cho ta xem; ta là cha đẻ của con, và với tư cách đó ta phải trông coi hạnh kiểm của con; còn nếu đó lại là một thứ bùa chú gì mà con phải lấy làm hổ thẹn vì cất giữ nó, thì con cũng phải đưa cho ta xem, làm cha, ta có những bổn phận phải làm tròn: ta phải ngăn chặn để con khỏi rơi vào vực thẳm nếu con đang đi trên bờ vực, phải vớt con lên nếu con đã rơi xuống vực. Một lần nữa, ta hỏi con: cái vật mà con giấu dưới lần áo lót kia là vật gì?
— Thưa Đức Ông, đó là một bức chân dung, - cô thiếu nữ trả lời, toàn thân run rẩy, mặt đỏ bừng lên vì xúc động.
— Vậy đó là chân dung của ai?
Christabel cụp mắt xuống, không trả lời.
— Con chớ lạm dụng sức nhẫn nại của ta. Hôm nay ta rất nhẫn nại, nhưng con chớ có lạm dụng. Hãy trả lời đi, đó là chân dung của…?
— Con không thể nói để cha rõ được.
Nước mắt làm cho giọng nói của Christabel nghẹn ngào, nhưng chỉ lát sau nàng đã trả lời với một giọng rắn rỏi hơn:
— Vâng, thưa cha, cha có quyền chất vấn con, nhưng con sẽ dám tự cho mình cái quyền không trả lời cha; vì lương tâm con không hề có điều gì trách cứ con là đã làm trái phẩm cách của con hay của cha cả.
— Chà! Lương tâm con không trách cứ con điều gì chẳng qua là vì nó đồng lòng với tình cảm của con; con ạ, điều con vừa nói thật là đẹp đẽ, thật là đức hạnh đấy con ạ.
— Thưa cha, xin cha tin con, con sẽ không bao giờ làm ô danh nhà ta, vì con nhớ quá nhiều đến hương hồn người mẹ thánh thiện và đáng thương của con.
— Và điều đó có nghĩa rằng ta là một lão bợm già… Chà, cái này thì ai nấy đều đã thỏa thuận với nhau từ lâu, - lão nam tước hét lên; - nhưng ta không thể để cho các người nói thẳng vào mặt ta như vậy được!
— Nhưng thưa cha con có nói thế đâu ạ?
— Cô nghĩ như thế cũng đủ rồi. Nhưng thôi, dù sao thì ta cũng chả cần lưu ý đến cái của quý mà cô một mực giấu ta; ta biết thừa đó là bức chân dung của cái thằng vô lại mà cô đem lòng yêu dấu bất chấp ý nguyện của ta. Ta còn lạ gì cái mặt quỷ quyệt của hắn? Bây giờ hãy nghe kỹ những điều ta nói đây, tiểu thư Christabel ạ; tiểu thư sẽ không bao giờ lấy được thằng Allan Clare; thà tự tay ta sẽ giết chết hai người chứ không đời nào ta lại ưng thuận. Tiểu thư sẽ kết hôn với ngài Tristan de Goltsborough… Quả tình, ngài cũng chẳng còn trẻ trung cho lắm, nhưng dù sao ngài vẫn thua ta đến mấy tuổi, mà ta thì nào đã già nua gì… Ngài cũng chẳng đẹp trai lắm, quả có thế, nhưng xưa nay có bao giờ sắc đẹp làm nên hạnh phúc vợ chồng? Ta đây nào có đẹp đẽ gì? Thế mà phu nhân Fitz Alwine không đời nào chịu đổi ta lấy trang kỵ sĩ hào hoa nhất của triều đình vua Henry đệ nhị; vả chăng sự xấu xí của ngài Tristan de Goldsborough là một bảo đảm chắc chắn cho sự yên ổn sau này của gia đình cô… ngài sẽ không phụ bạc cô. Cô cũng nên biết rằng ngài rất giàu và có thế lực rất mạnh trong triều đình; nói tóm lại, đó là người thích hợp với ta… và thích hợp với cô về mọi phương diện. Ngày mai ta sẽ báo cho ngài biết là cô đã bằng lòng; bốn ngày sau ngài sẽ đến đây tạ ơn cô, và đến cuối tuần cô sẽ trở thành một bậc mệnh phụ trong một danh gia vọng tộc, thưa tiểu thư!
— Con không đời nào lấy người đó đâu, thưa cha, không đời nào!
Ngài nam tước cười ha hả.
— Có ai yêu cầu tiểu thư bày tỏ sự đồng tình đâu. Nhưng sẽ có cách làm cho tiểu thư phải khuất phục.
Christabel, từ nãy đến giờ đang tái nhợt như một tử thi, bỗng đỏ mặt lên, hai tay bứt rứt vặn vào nhau, hình như vừa quyết định một điều gì dứt khoát, không có cách gì hoán cải được nữa.
— Bây giờ ta sẽ để cho con suy nghĩ, - lão nam tước nói tiếp, - ấy là ví thử con thấy nên suy nghĩ. Nhưng con hãy nhớ kỹ lấy điều này: ta muốn, ta đòi hỏi ở con một sự tuân phục hoàn toàn, tuyệt đối, thuần túy thụ động.
— Trời ơi! Trời ơi! Xin cha rủ lòng thương hại! - Christabel kêu lên, lòng đau như cắt.
Lão nam tước nhún vai bỏ đi.
Suốt một tiếng đồng hồ liền, Fitz Alwine đi đi lại lại trong phòng riêng của lão, vừa đi vừa nghĩ đến những việc đã xảy ra trong buổi tối vừa qua. Những lời đe dọa của Allan Clare làm cho lão lo sợ, và lão cũng cảm thấy ý chí của con gái lão khó có gì khuất phục nổi.
— Có lẽ ta nên giải quyết vấn đề hôn nhân này một cách êm dịu thì hơn - lão tự nhủ. - Dù sao ta cũng yêu thương con bé này, nó là giọt máu của ta, ta không muốn rằng nó tự coi như một nạn nhân của những đòi hỏi võ đoán của ta. Ta rất muốn nó được hạnh phúc, nhưng ta cũng muốn nó làm vợ ông bạn cũ Tristan của ta, người chiến hữu già của ta. Nào, ta hãy thử dùng lời lẽ dịu dàng để thuyết phục nó xem sao.
Đến trước cửa phòng Christabel, lão nam tước dừng lại. Từ sau cánh cửa vẳng ra một tiếng nấc tức tưởi.
— Tội nghiệp con bé, - lão nam tước nghĩ thầm trong khi nhẹ nhàng mở cửa phòng.
Christabel đang ngồi viết.
“Ái chà chà! - Lão nam tước tự nhủ: lão vốn không sao hiểu được con gái mình học cái trò này để làm gì, vì thời ấy chỉ có giới tăng lữ mới học viết. - Chắc hẳn lại cái thằng Allan ngu xuẩn kia xui nó học cái nghề bôi mực loằng ngoằng lên giấy ấy chứ gì”.
Fitz Alwine bèn lặng lẽ bước lại gần bàn, không một tiếng động.
— Tiểu thư viết thư cho ai vậy? - Lão nói, giọng giận dữ.
Christabel kêu lên một tiếng và toan giấu tờ giấy vào nơi nàng đã giấu bức chân dung quý giá kia; nhưng nam tước đã nhanh tay giật lấy. Vô cùng thảng thốt, nàng quên mất rằng người cha tôn quý của nàng chưa bao giờ buồn giở một cuốn sách hay cầm một cây bút, cho nên không thể nào biết đọc được, và đã toan chạy ra khỏi gian phòng, nhưng ngài nam tước đã nắm chặt lấy cánh tay nàng, nhấc bổng nàng lên như nhấc một cái lông chim, bắt nàng ngồi lại. Christabel ngất đi. Hai mắt long lên sòng sọc, lão nam tước cố đọc cho ra những dòng chữ do tay nàng viết, nhưng rồi mãi chẳng lần ra được chữ nào, lão đưa mắt nhìn xuống gương mặt nhợt nhạt của con gái đang nằm bất động tựa vào ngực lão.
— Ôi! Đàn bà! Đàn bà! - Lão gầm gừ trong khi bế Christabel đặt lên giường. Đoạn lão mở cửa phòng cất cái giọng oang oang gọi lớn:
— Maude! Maude!
Cô hầu phòng chạy lại.
— Hãy cởi áo cho cô chủ; - đoạn lão vừa bỏ đi vừa càu nhàu.
Maude lay cho Christabel tỉnh lại, nói:
— Tiểu thư! Đừng sợ, chỉ có một mình em với tiểu thư ở đây thôi.
Christabel mở mắt ra và thảng thốt nhìn quanh; nhưng khi thấy có cô hầu gái trung thành bên cạnh, nàng giơ hai tay lên ôm lấy cổ cô nói:
— Ôi! Maude ơi! Tôi chết mất thôi Maude ạ!
— Có chuyện gì nguy biến tiểu thư cứ nói cho em biết đi.
— Cha tôi đã lấy mất bức thư tôi viết cho Allan.
— Nhưng ngài có biết đọc đâu thưa tiểu thư?
— Ngài sẽ nhờ vị linh mục đọc giúp ngài.
— Đúng, nếu ta để cho ngài có đủ thì giờ; tiểu thư mau đưa cho em một tờ giấy khác, khổ thật giống tờ vừa rồi bị ngài nam tước lấy đi.
— Đây, tờ này có lẽ được đây…
— Tiểu thư cứ yên tâm, đừng khóc nữa mà ánh mắt bớt sáng đi.
Thế là cô gái táo bạo xồng xộc bước vào phòng ngài nam tước đúng vào lúc lão đang lắng tai nghe vị linh mục: lúc bấy giờ cha đã cầm trong tay bức thư của Christabel gửi Allan, đang chuẩn bị đọc.
— Thưa Đức Ông, - Maude nói nhanh, - Tiểu thư sai con đến xin lại tờ giấy mà Đức Ông vừa lấy trên bàn của tiểu thư.
Vừa nói câu trên, Maude vừa rón rén đi về phía vị linh mục, dáng điệu như một con mèo cái.
— Có thánh Dunstan chứng giám! Con gái tôi điên rồi! Sao, tiểu thư dám sai cô làm một việc như vậy ư?
— Thưa Đức Ông vâng, và như thế là con đã làm tròn bổn phận! - Maude vừa nói vừa nhanh nhẹn giật lấy tờ giấy mà ông linh mục đưa lên đến tận mũi để đọc cho rõ.
— Đồ hỗn láo! - Lão nam tước vừa quát vừa đuổi theo Maude.
Như một con hươu non, Maude lao ra cửa, nhưng đến ngưỡng cửa thì cô để nam tước đuổi kịp.
— Trả lại tờ giấy ngay, không ta bóp cổ chết tươi bây giờ!
Maude cúi đầu, làm ra vẻ như sợ run lên, thế là lão nam tước rút từ trong một cái túi trên tạp dề của cô ra (lúc bấy giờ hai tay cô đều đút vào túi) một tờ giấy giống hệt như tờ ông linh mục đang cầm lúc nãy.
— Mi thật đáng ăn hai cái tát tai, con bé đáng nguyền rủa kia! - Lão nam tước nói, một tay giơ cao lên đánh Maude, còn tay kia đưa tờ giấy cho ông linh mục.
— Con chỉ thi hành lệnh của tiểu thư mà thôi ạ.
— À, thế thì hãy nói với con ta là nó sẽ phải chịu phạt vì những trò hỗn xược của mi..
— Con xin cung kính chào Đức Ông, - Maude vừa đáp vừa nhún mình chào với một dáng hết sức mỉa mai giễu cợt.
Hớn hở vì mưu đã thành, cô gái vui vẻ chạy về phòng cô chủ.
Trong khi đó, lão nam tước quay sang nói với vị linh mục:
— Thưa cha, bây giờ ta được yên rồi; xin cha hãy đọc cho con nghe thử xem đứa con gái hư hốt của con viết những gì cho thằng Allan Clare vô đạo kia.
Ông linh mục bắt đầu cất cái giọng mũi ê a đọc:
“Khi mùa đông đã dịu đi, để cho hoa tím nở.
“Khi các loài hoa đâm nụ và hoa xuyên tuyết báo hiệu xuân sang.
“Khi lòng anh kêu gọi những khóe nhìn êm ái và những lời lẽ dịu dàng.
“Khi em mỉm cười vui sướng, em có nghĩ đến anh không hỡi người yêu dấu?”
Cha đọc cái gì cho con nghe thế cha? - Ngài nam tước kêu lên - toàn những chuyện ngu xuẩn, mẹ kiếp!
— Thì cha đánh vần từng chữ đúng như đã viết trên tờ giấy này thôi! Ngài có cần cha đọc tiếp không?
— Có chứ, thưa cha, nhưng con thấy con gái con đang xúc động mạnh, chẳng lẽ chỉ ngồi viết một bài ca ngớ ngẩn như thế thôi sao?
Ông linh mục đọc tiếp.
“Khi mùa xuân phủ lên mặt đất những đóa hoa hồng thơm ngát.
“Khi mặt trời mỉm cười trên nền trời.
“Khi những khóm nhài nở hoa dưới các cửa sổ.
“Em có gửi cho người yêu em một ý nghĩ thương yêu?”
— Quỷ tha đi cho rảnh! Thế gọi là thơ đấy, thưa cha có còn nhiều nữa không?
— Còn có vài dòng nữa, mà cũng chỉ thế thôi. - Cha thử tìm xem, ở trang sau ấy.
— “Khi mùa thu…”
— Thôi thôi đủ rồi! - Fitz Alwine thét lên; - bài tình ca duyệt qua đủ bốn mùa; đủ rồi.
Tuy vậy ông già vẫn đọc tiếp:
“Khi những chiếc lá vàng phủ lên bãi cỏ.
“Khi trời phủ đầy mây.
“Khi sương băng và tuyết rơi.
“Em có nghĩ đến người yêu em tha thiết?”
— Yêu tha thiết! Yêu tha thiết! - Ngài nam tước nhắc lại; - không thể như thế được. Khi ta bắt gặp Christabel ngồi viết, chắc chắn không phải nó đang viết bài thơ này. Ta bị lừa rồi, bị lừa thật sự rồi. Nhưng nói có Thánh Pierre chứng giám, không còn lâu nữa đâu! Thưa cha, con muốn được ngồi lại một mình, xin chúc cha ngủ ngon.
— Cầu cho sự bình an đến với con, - vị linh mục nói đoạn lui ra.
Ta hãy để cho ngài nam tước nghiền ngẫm những mưu toan phục thù của lão, và hãy quay về với tiểu thư Christabel và cô hầu phòng tinh nghịch của nàng.
Ban nãy Christabel viết thư cho Allan nói rằng nàng sẵn sàng rời bỏ lâu đài của cha nàng, rằng những ý đồ của nam tước về cuộc hôn nhân của nàng với Tristan Goldsborough đã buộc nàng phải quyết định một việc liều lĩnh như vậy.
— Em xin nhận nhiệm vụ đưa bức thư này đến tay ngài Allan, - Maude nói đoạn cầm lấy bức thư, rồi xuống lầu đánh thức một cậu thiếu niên mười sáu mười bảy tuổi vốn là nhũ đệ của cô.
— Halbert, - cô nói với cậu bé, em có thể giúp chị, hay nói cho đúng hơn là giúp tiểu thư Christabel, một việc quan trọng không?
— Em xin vui lòng, - cậu bé đáp.
— Trước hết chị phải nói trước là việc này có phần nguy hiểm.
— Càng hay chứ sao?
— Vậy thì chị có thể tin tưởng ở em. - Maude vừa nói thêm vừa quàng tay lên vai cậu bé và nhìn cậu đăm đăm bằng đôi mắt đen rất đẹp của cô.
— Chị cứ tin em như tin vào Thượng Đế đi, - cậu bé đáp với niềm tự phụ ngây thơ của tuổi cậu, - chị phải tin, Maude ạ.
— Ồ! Chị thừa biết là chị có thể trông mong vào em; cảm ơn em.
— Việc gì thế chị?
— Bây giờ em phải dậy mặc áo quân và lên ngựa.
— Không có gì dễ hơn…
— Nhưng em phải lấy con ngựa hay nhất trong tàu.
— Cũng dễ ợt. Con ngựa cái của em, mang cái tên Maude đáng yêu của chị, là con ngựa chạy nước kiệu hay nhất của nam tước.
— Chị biết, em ạ. Em cố nhanh lên, hễ chuẩn bị xong thì đến tìm chị ở khoảng sân sát liền với cầu treo chị sẽ đợi em ở đấy.
Mười phút sau, Halbert, tay cầm cương dắt ngựa, chăm chú lắng nghe những lời dặn dò của cô hầu phòng khôn khéo.
— Như vậy là em sẽ đi qua thành phố và một quãng rừng, rồi từ đấy đi đến một ngôi nhà cách thị trấn Mansfeldwoohaus vài dặm. Đó là nhà một ông gác rừng tên là Gilbert Head; em sẽ đưa thư này cho ông ta, nói là nhờ ông ta chuyển cho ngài Allan Clare; rồi em trả cho anh con trai của ông gác rừng là Robin Hood cây cung và túi tên này cho anh ta: anh ta vốn là chủ nhân các thứ đó. Em đã hiểu rõ những lời chị dặn chưa?
— Hết sức rõ, chị Maude xinh đẹp ạ, - cậu bé đáp; - chị có còn sai bảo thêm gì nữa không?
— Không. À quên… Em sẽ nói với cái người tên là Robin Hood ấy, tức là người chủ cây cung và túi tên, em sẽ nói rằng… có người sẽ cố thu xếp sao cho chóng có thể báo cho anh ta biết rõ lúc nào anh ta có thể đến lâu đài mà không gặp nguy hiểm, vì ở đây có một người đang nóng lòng chờ anh ta về… Em có hiểu không, Hal?
— Có chứ, em hiểu.
— Em cố cẩn thận, tránh chạm trán với lính của nam tước.
— Tại sao lại phải tránh họ hở chị Maude?
— Khi nào em về chị sẽ nói cho em rõ tại sao. Nếu chẳng may số phận run rủi cho em gặp chúng giữa ương, em hãy nghĩ ra một cái cớ gì để biện minh cho chuyến đi đêm của em, và nhớ kỹ là chớ nói gì về mục đích thật của chuyến đi. Thôi, em lên đường mạnh giỏi nhé, tấm lòng vàng của chị!
Halbert đã xỏ chân vào bàn đạp thì Maude nói thêm: - Nhưng nếu em gặp ba người cùng đi trong đó có một ông tu sĩ…
— có phải thầy Tuck không?
— Phải. Nếu gặp họ thì em không phải đi đâu nữa: hai người cùng đi với tu sĩ chính là Allan Clare và Robin Hood; vậy thì em giao ngay các thứ cho họ và kịp quay về thật nhanh. Thôi lên đường đi! Khi cha chị hỏi em ra khỏi lâu đài có việc gì, nhớ nói là em ra thành phố mời thầy thuốc cho tiểu thư Christabel đang bị bệnh. Em đi nhé, thượng lộ bình an! Chị sẽ nói với Grace. May rằng em là chàng trai đáng yêu và gan dạ nhất trong tất cả các chàng trai ở Christendon.
— Maude, có thật là chị sẽ vui lòng nói như thế với Grace không?
— Thật mười mươi đấy, và hơn nữa chị sẽ nhờ cô ấy tự mình trả cho em tất cả những chiếc hôn mà chị nợ em vì công lao của em trong chuyến đi này.
— Hurra! Hurra! - Cậu bé vừa reo to vừa thúc cựa giày vào sườn ngựa - Hurra vì chị Maude! Hurra vì Grace!
Chiếc cầu treo được hạ xuống. Halbert phi ngựa xuống đồi, và, nhẹ hơn chim én, Maude chạy như bay lên phòng tiểu thư Christabel vui mừng báo cho nàng biết là tín sứ của nàng đã lên đường.