← Quay lại trang sách

Chương 13

Ngài nam tước đang nghe một cách lơ đãng một người biện sự đọc bản báo cáo chi thu, thì Robin, hai bên có hai tên lính áp giải, và đi trước lại có đội trưởng Lambic mà vừa rồi chúng tôi quên nói rõ tên, được đưa vào phòng.

Lập tức ngài nam tước nóng nảy của chúng ta bảo người biện sự im ngay rồi đứng dậy đi về phía tốp người kia, mắt ném ra những khóe nhìn chẳng báo hiệu một điều gì tốt lành cả.

Viên đội trưởng ngước mắt lên nhìn tôn chủ, thấy hai môi ngài run run và hé mở, tưởng nên nhường cho ngài nói trước thì lễ độ hơn, nhưng lão nam tước Fitz Alwine nào phải là người có đủ kiên nhẫn để chờ viên đội, cho nên lão liền tát cho hắn một cái tát nên thân như để nói: ta đang nghe đây.

— Dạ con đang đợi… - viên đội đáng thương lắp bắp.

— Ta cũng đang đợi đây. Giữa ngươi và ta thì ai là người phải chờ đợi, ngươi thử nói ta nghe? Đồ ngu, chẳng lẽ ngươi không thấy là ta đợi đã một tiếng đồng hồ rồi sao?… Nhưng trước hết xin ngài đội trưởng biết cho rằng ta đã được nghe kể lại các chiến công của ngài rồi, nhưng ta muốn ban ơn cho ngài bằng cách nghe chính miệng ngài kể lại một lần nữa.

— Thưa Đức Ông, chẳng hay Halbert đã bẩm lại chưa…

— Người hỏi ta hay sao? Trời đất! Cũng lạ đấy nhỉ! Ngài đội trưởng hỏi ta cơ chứ! Ha ha!

Đội trưởng Lambic vừa run vừa kể lại việc bắt trói Robin thật.

— Ngài đội trưởng có quên một chi tiết nhỏ nhặt; ngài không nói với tôi rằng ngài đã thả mất, sau khi đã bắt được hắn hẳn hoi, một tên bợm mà ta đặc biệt cần bắt. Trong việc này ngài khá tinh tế đấy ngài đội trưởng ạ.

— Thưa Đức Ông, ngài nhầm rồi.

— Ta không bao giờ nhầm, ngài đội trưởng ạ. Đúng thế, ngài đã bắt được một tên trẻ tuổi tự xưng là Robin Hood, và ngài đã thả hắn ra khi tên thanh niên ở Sherwood xuất hiện.

— Quả có thế, thưa Đức Ông, - Lambic đáp (vì thận trọng, hắn đã cố ý lờ việc này đi).

— Chà! Đội trưởng Lambic trong đoàn vệ sĩ của ta thật là người chiến sĩ dũng mãnh nhất, thông minh nhất, sắc sảo nhất, mưu lược nhất đấy nhỉ,- ngài nam tước mỉa mai, giọng khinh bỉ, đoạn nói thêm: - Vậy ra ngươi không nhớ nổi nét mặt của những kẻ mà người tống ngục trước đó vài giờ sao? Ngươi tồi tệ đến thế sao, hả ông vua của lũ ngốc? Ngươi quả là đồ dơi chuột đồ ốc sên tàn tật!

— Thưa Đức Ông con không được nhìn rõ mặt hai tên tù ấy ạ.

— Thật à? Lúc bấy giờ người bị băng kín mắt lại à? Người ra đây Robin, - ngài nam tước quát, giọng như sấm, đồng thời gieo phịch người xuống chiếc ghế bành.

Quân lính đẩy Robin ra trước mặt nam tước.

— Giỏi lắm, con chó ngao non ạ! Mi vẫn sủa mạnh như trước đấy chứ? Ta sẽ nói cho mi nghe những điều mà ta đã nói với mi trước đây không lâu. Người sẽ thực thà trả lời những câu hỏi của ta, nếu không ta sẽ sai lính đánh vỡ đầu mi ra, nghe chưa?

— Ngài cứ hỏi tôi đi, - Robin lạnh lùng đáp.

— À! Mi biết điều rồi hả? Mi không một mực làm thinh nữa hả? Hay lắm.

— Tôi đã nói là ngài cứ hỏi tôi đi.

Mắt lão nam tước vừa dịu đi một chút bây giờ lại quắc lên nhìn trừng trừng vào Robin; nhưng Robin chỉ mỉm cười.

— Mi đã thoát ra bằng cách nào, con chó sói non kia?

— Bằng cách ra khỏi nhà giam.

— Cái đó thì ta cũng có thể đoán ra được một cách không lấy gì làm khó khăn. Ai đã giúp mi trốn ra?

— Chính tôi.

— Còn ai nữa?

— Không còn ai cả.

— Nói dối! Ta biết là có kẻ giúp. Lỗ khóa nhỏ lắm, ta biết mi không thể chui qua được. Phải có người mở cửa cho mi.

— Chẳng có ai mở cửa cho tôi cả. Và nếu tôi không đủ mảnh mai để chui qua lỗ khóa, thì ít ra vóc người tôi cũng không cản trở tôi lách qua các chấn song trên cửa sổ ngục thất. Từ đó tôi đã nhảy lên thành, tìm được một cánh cửa mở, sau khi qua cửa đó, tôi đã chạy theo các dãy cầu thang, các dãy hành lang, các dãy nhà lán, rồi đến cầu treo… sau đó là tôi thoát ra ngoài.

— Thế còn bạn mi, nó trốn bằng cách nào?

— Tôi không biết.

— Tuy vậy mi vẫn phải nói cho ta nghe.

— Không thể được. Chúng tôi không đi với nhau. Chúng tôi tình cờ gặp nhau.

— Các người gặp nhau một cách đúng lúc như vậy ở chỗ nào trong lâu đài?

— Tôi không biết rõ bên trong lâu đài ra sao cả, nên không thể chỉ rõ chỗ ấy.

— Còn tên kia ở đâu khi đội trưởng Lambic bắt được mi?

— Tôi không biết. Người ấy và tôi chia tay nhau đã được một lát. Tôi đang đi một mình trở về nhà cha tôi.

— Hắn có phải là người bị lính ta bắt trước mi không?

— Không.

— Thế thì bây giờ nó ở đâu? Nó ra sao rồi?

— Ngài nói “nó” là ai thế ạ?

— Mi thừa biết, tên gian xảo kia, ta đang nói về Allan Clare, bạn của mi, kẻ đồng lõa của mi.

— Hôm kia tôi mới gặp Allan Clare lần đầu.

— Đốn mạt đến thế là cùng. Trời đất! Chúng nó dám nói dối ngay trước mặt mình, cái quân vô lại bây giờ! Từ khi lũ trẻ bắt đầu học chữ và vẽ nguệch ngoạc lên giấy, chẳng còn có tín nghĩa, chẳng còn có tôn ti gì nữa. Đến như con gái ta mà cũng nhiễm những thói xấu xa; nó dám thông đồng với tên Allan khốn nạn qua những thứ chữ nghĩa ma quỷ ấy. Thôi được! Nếu mi đã không biết tên khốn kiếp ấy trốn ở đâu, mi hãy giúp ta đoán cho ra cách tìm hắn, ta hứa sẽ trả tự do cho mi nếu mi giúp được.

— Thưa ngài, tôi không có thói quen ngồi đoán mò những chuyện tôi không biết.

— Thế thì ta sẽ bắt mi dành mỗi ngày mấy giờ làm cái công việc hữu ích này. Này Lambic, hãy xích con chó ngao này lại như cũ, và nếu hắn còn vượt ngục nữa thì đừng hòng thoát khỏi giá treo cổ:

— Ồ thưa Đức Ông hắn sẽ không thoát khỏi tay con được đâu ạ. - Viên đội trưởng đáp, miệng nhoẻn một nụ cười gượng gạo.

— Thôi cút đi, và hãy coi chừng giá treo cổ.

Viên đội trưởng dẫn Robin đi qua hết dãy hành lang này đến dãy hành lang khác, hết cái cầu thang này đến cái cầu thang khác, cho đến một cái cửa mở vào một dãy hành lang hẹp. Đến đấy hắn lấy bó đuốc trong tay tên lính nãy giờ đi trước dẫn đường, và đẩy Robin vào một căn buồng nhỏ, bên trong chỉ có một bó rơm đặt dưới đất làm chỗ nằm.

Chàng gác rừng trẻ tuổi của chúng ta đưa mắt nhìn quanh. Không còn gì gớm ghiếc cho bằng căn nhà ngục này. Ngoài cửa vào ra, không có một lối thoát nào nữa. Cánh cửa làm bằng gỗ súc có nẹp sắt. Làm cách gì có thể ra khỏi nơi này? Robin ngẫm nghĩ cố tìm ra một cách gì để vô hiệu hóa những cách đề phòng tỉ mỉ của nam tước mà không sao tìm ra được. Đang mải nghĩ như vậy thì chàng bỗng thấy sau lưng tốp lính, trong bóng tối của dãy hành lang, long lanh đôi mắt trong trẻo của Halbert. Hy vọng lại sống dậy trong lòng chàng, và chàng không còn hồ nghi gì nữa về sự giải thoát sẽ đến với chàng nay mai khi nhớ rằng trên đời vẫn có những tấm lòng tận tuỵ thương xót cho nỗi khổ của chàng.

— Phòng ngủ của ngài đây, - Lambic nói, - ngài vào đi, và chớ có buồn phiền làm gì cho mệt! Chúng ta ai rồi cũng đến lúc phải chết, ngài cũng thừa biết đấy; dù là chết hôm nay, chết ngày mai hay một ngày sau nữa thì có khác gì mấy đỗi! Mà chết cách nào thì cũng chẳng có gì khác nhau; đã chết cách này hay chết cách nọ thì cũng vẫn chỉ là chết mà thôi.

— Ông nói chí lý đấy ông đội ạ, - Robin điềm tĩnh đáp - và tôi cũng rất hiểu là ông sẽ chẳng lấy làm điều nếu ông phải chết như ông đã sống… nghĩa là như một con chó.

Trong khi nói như vậy, Robin dùng khóe mắt nhìn cánh cửa vẫn còn mở và ghi nhận vị trí của mấy tên lính đứng bên ngoài. Tên nô bộc cầm đuốc ban nãy đã bỏ đi, cậu bé Halbert cũng vậy; người mệt rã rời, bốn tên lính uể oải đứng tựa vào tường, chẳng buồn để ý đến những câu chuyện trao đổi giữa ông đối với tù nhân.

Nhanh trí trong khi nghĩ mưu và cũng nhanh tay trong khi thực hiện, con sói non của rừng Sherwood lập tức lợi dụng sự lơ đễnh của mấy tên lính và cái thế yếu tương đối của Lambic - lúc bấy giờ những cử động của hắn bị vướng vì cây đuốc đang cầm trên tay phải, - chồm lên như một con báo, giúi mạnh cây đuốc vào mặt Lambic làm cho nó tắt ngấm, và lao ra ngoài căn ngục.

Tuy trong hành lang tối om, tuy bị đau, nhức dữ dội ở mặt, Lambic vẫn dẫn đầu tốp lính rượt cật lực theo sau Robin. Nhưng chưa bao giờ có một con thỏ rừng bị săn đuổi lại phóng nhanh đến thế, chưa bao giờ có một con sói bị cả bầy chó săn rượt sau lưng lại vẽ thành lắm đường ngoắt ngoéo đến thế, đến nỗi quân lính của nam tước lao vào sục sạo hết các ngõ ngách trong các hành lang của lâu đài mà vẫn không sao tìm thấy Robin đâu cả.

Đã một hồi khá lâu chàng trẻ tuổi chỉ còn lần từng bước ngắn, không biết mình đang ở đâu, hai tay dang ra phía trước để khỏi vấp phải những vật chướng ngại, thì bỗng nhiên va phải một người. Người ấy không kìm nổi một tiếng kêu hoảng sợ.

— Ai đấy? - Người kia hỏi, giọng gần như run rẩy.

Robin nghĩ thầm: “Hình như giọng của Halbert hay sao ấy”, rồi nói:

— Tôi đây cậu Hal thân mến ạ.

— “Tôi” là ai mới được chứ?

— Tôi là Robin Hood đây mà, tôi vừa chạy thoát ra khỏi ngục; họ đang đuổi theo tôi, cậu giấu tôi vào chỗ nào đi!

— Ngài hãy theo tôi, - cậu bé tốt bụng nói; - ngài đưa tay đây, đi sát vào tôi, và nhất là đừng nói gì cả.

Sau khi cầm tay Robin dắt đi vòng vèo qua lại đến hàng nghìn lần trong bóng tối, Halbert đứng lại và gõ khe khẽ vào một tấm cửa có những khe nứt nhỏ để lọt vài tia sáng ra ngoài. Từ phía trong, một giọng nói dịu dàng cất lên, hỏi khẽ.

— Ai đấy?

— Em đây, Hal của chị đây.

Cánh cửa lập tức mở ra.

— Em có tin gì thế? - Maude hỏi, hai tay siết chặt tay cậu bé.

— Còn hơn cả tin tức nữa kia, chị Maude ạ; chị ngoảnh lại nhìn mà xem.

— Trời ơi! Anh đấy ư? – Maude reo lên rồi ôm chầm lấy Robin.

Ngạc nhiên và phiền lòng vì một cách nghênh tiếp nó để lộ một tình yêu say đắm mà mình không hề chia sẻ, Robin muốn kể lại chuyện chàng trở lại lâu đài và vượt ngục lần thứ hai, nhưng Maude không để cho chàng nói.

— Thoát rồi! Thoát rồi! Thoát rồi! - cô cứ lẩm bẩm như con điên, vừa khóc, vừa cười, vừa hôn tới tấp, - thoát rồi!

— Chị thật là một cô gái kỳ quặc đấy chị Maude ạ, - cậu bé tập sự giám mã ngây thơ nói, - em tưởng đưa ngài Robin Hood đến đây cho chị mừng, thế mà chị lại khóc ròng rã như một nàng Madeleine vậy.

— Hal nói phải đấy, - Robin chêm thêm, - cô làm hỏng mất đôi mắt kiều diễm của cô đi đấy! Cô hãy vui vẻ trở lại như hồi sáng đi.

— Không thể được, - cô thiếu nữ đáp với một tiếng thở dài não nuột.

— Tôi không muốn tin như vậy, - Robin nói trong khi cúi xuống sát đầu Maude và ghé môi lên những món tóc đen láy lòa xòa trên trán cô. Có lẽ Maude chạnh lòng vì cảm thấy trong câu nói giản dị của Robin có một cái gì lạnh lẽo: cô tái mặt đi và khóc nức nở.

— Maude thân mến, cô đừng khóc nữa, tôi đây mà! - Robin cứ nhắc đi nhắc lại luôn mồm; - cô hãy nói rõ tại sao cô buồn thế?

— Hôm nay anh đừng hỏi em điều đó, rồi sau này anh sẽ hiểu hết… Tiểu thư Christabel với em đều mong sao giúp anh thoát được… Ôi! Tiểu thư sẽ vui biết chừng nào khi biết anh đã thoát được rồi! Ngài Allan Clare đã nhận được thư của tiểu thư, vậy ngài trả lời ra sao?

— Ngài Allan chưa có dịp viết thư mà cũng chưa kịp bàn bạc với tôi, nhưng tôi biết rõ ý định của ngài và tôi định, với sự giúp đỡ của Chúa và của cô, cô Maude thân mến, đưa tiểu thư Christabel ra khỏi lâu đài và dẫn tiểu thư đến với vị hôn phu của nàng.

— Em chạy đi báo cho tiểu thư biết đây, - Maude nói nhanh, - em đi không lâu đâu. Anh cứ ngồi đây đợi em. Còn Hal, thì đi với chị.

Còn lại một mình, Robin ngồi lên thành giường của Maude, đăm chiêu tư lự. Như chúng tôi đã có lần thưa rõ, Robin tuy còn trẻ nhưng nói năng và hành động như một người đàn ông đã trưởng thành. Cái lý trí vững vàng mà Robin có được sớm như vậy là nhờ công chăm sóc dạy dỗ của ông Gilbert. Ông đã dạy cho Robin biết suy nghĩ một mình, hành động một mình, và hành động đúng đắn; nhưng ông chưa dạy cho Robin biết rằng có những tình cảm không phải là tình bạn có thể nẩy nở một cách ngẫu nhiên và phát triển thành một cái gì không sao cưỡng nổi giữa hai con người khác giới tính. Thái độ của Maude kể từ chiếc hôn mà chàng đã đặt rất nhanh lên tay cô khi ra khỏi nhà nguyện, đã làm cho chàng rất ngạc nhiên. Nhưng vì cứ mơ tưởng đến nhiều, và cũng một phần như nhờ trực giác, chàng dường như cũng đoán ra được thế nào là tình yêu, chàng cũng hiểu rằng tình cảm của Maude đối với chàng chính là tình yêu, và điều đó làm cho chàng thấy phiền lòng, vì chàng thấy mình không có một tình cảm như thế đối với Maude, chẳng qua chàng thấy Maude xinh đẹp, duyên dáng, dễ thương và đầy lòng nhân ái tận tuỵ.

Tuy vậy, trong khi phiền lòng về sự thờ ơ không chủ ý của mình đối với Maude, chàng lại đi đến chỗ tự trách mình về sự thờ ơ ấy, và sợ rằng mình sẽ không phải nếu không cố đền đáp lại tình yêu của Maude bằng một tình yêu tương xứng. Thế là chàng thiếu niên ngây thơ đang sắp sửa hiến dâng trái tim mà chàng tưởng là hãy còn tự do cho người đã có lòng yêu mình, thì đột nhiên hình ảnh yêu dấu của Marianne hiện lên trước mắt chàng.

— Ôi! Marianne, Marianne! – Chàng hân hoan thốt lên.

Ý muốn đền đáp lại mối tình của Maude vĩnh viễn tiêu tan.

Song chẳng bao lâu niềm hân hoan kia đã nhường chỗ cho mối ngờ vực và nỗi buồn. Marianne, cũng như Christabel, vốn thuộc một gia đình quyền quý, nàng phỏng có coi ra gì mối tình của một anh gác rừng hèn mọn. Chắc hẳn Marianne đã đem lòng yêu mến một trang kỵ sĩ tuấn tú nào trong triều đình cũng nên. Quả tình nàng cũng đã ban cho chàng những cái nhìn âu yếm, nhưng liệu có gì làm bằng chứng cho chàng tin là những cái nhìn ấy không phải chỉ vì niềm biết ơn thuần túy mà có?

Trong khi Robin tự đặt ra cho mình những câu hỏi như vậy, và còn nhiều câu khác nữa mà chàng đều giải đáp theo hướng thiệt thòi cho bản thân, dần dần sự thua thiệt của phía Maude cũng bớt phần dứt khoát.

Maude xinh đẹp lắm, xinh đẹp chẳng kém gì Marianne và Christabel. Maude không phải là con nhà quý tộc, không có những chàng trai danh gia vọng tộc đeo đuổi, cho nên dù là một anh gác rừng hèn mọn cũng có thể ganh đua với những kẻ đang nhăm nhe cô; Maude cũng nhìn Robin với đôi mắt trìu mến, và những cái nhìn ấy không phải do niềm biết ơn mà có; trái lại, chính Robin mới là người có bổn phận phải biết ơn Maude.

Robin có những cảm giác kỳ lạ trong khi trầm tư mặc tưởng như vậy, chàng đang chìm đắm trong những ý nghĩ vui buồn lần lượt kế tiếp theo nhau, xen kẽ vào nhau như vậy thì bỗng nghe thấy những tiếng chân bước nặng nề, khác hẳn tiếng bước chân nhẹ nhàng của Maude, vang lên trong dãy hành lang. Những tiếng bước ấy mỗi lúc một gần lại, và cuối cùng có tiếng gõ rất mạnh vào cửa buồng. Robin lập tức thổi tắt ngọn đèn.

— Ê! Maude! Tại sao con lại tắt đèn đi? - Người đứng ngoài hành lang quát lớn.

Robin dĩ nhiên im lặng không đáp. Chàng len vào khoảng giữa cái giường và bức vách, nép mình đứng yên.

— Maude! Mở cửa ra nào!

Sốt ruột vì không thấy trả lời, người kia mở cửa bước vào. Giá trong phòng không tối om như lúc bấy giờ, Robin đã có thể nhìn thấy một người đàn ông cao lớn, dáng người lực lưỡng nhưng cân đối.

— Maude, Maude, mày có thưa không hả? Tao biết thừa là mày đang ở đây, ban nãy tao trông thấy ánh đèn lọt qua khe cửa rõ ràng mà.

Đoạn người đàn ông có cái giọng ồm ồm thô lỗ và gắt gỏng bắt đầu sờ soạng tìm kiếm khắp phòng.

Muốn chắc chuyện hơn, Robin chui xuống gầm giường.

— Bàn ghế gì mà kỳ cục! - Người kia càu nhàu khi cụng trán phải một cái tủ và vướng chân vào một chiếc ghế tựa. - Thôi muốn cho chắc chuyện mình cứ ngồi bệt xuống đất là hơn.

Trong phòng im lặng một hồi lâu. Robin chỉ thỉnh thoảng mới dám thở một hơi mà thở thật khẽ.

— Nhưng nó ở đâu thế nhỉ? - Người kia lại nói, vừa nói vừa với tay sờ lên mặt giường. - Nó chưa đi nằm. Thật tình, mình bắt đầu tin rằng Gaspard Steinkoff nói đúng sự thật, cái sự thật đã làm cho hắn ta ăn một quả đấm, cái thằng Gaspard ấy! Hắn ta nói: “Bác Hubert Lindsay ạ, con gái bác nó hôn hít người ta cũng một cách dễ dàng như tôi uống một cốc bia vậy”. Chao cái thằng Gaspard xỏ lá ấy! Ai đời dám đi nói với ta rằng con gái ta, một đứa con gái mà ta đây là bố, hôn hít mấy thằng tù nhân!… Ôi cái thằng bịp bợm!… Nhưng vào cái giờ khuya khoắt này mà con Maude không có đây thì kể cũng kỳ quặc thật đấy. Nó không thể ở phòng tiểu thư Christabel được, vậy thì nó ở đâu? Nó đâu, con Maude bé bỏng của tôi? Lạy Chúa! Cõi hỏa ngục tràn vào đầu tôi rồi. Nó ở đâu hỡi trời? Nhân danh Đức Mẹ chí thánh, nếu nó có phạm tội gì, ta… Chao ôi, ta cũng là một tên bợm già khốn kiếp không kém gì Gaspard Steinkoff… ta thóa mạ dòng máu của ta, cuộc sống của ta, trái tim của ta, đứa con của ta, con Maude yêu dấu của ta. Ôi! Ta thật điên rồ! Ta quên mất rằng thằng Halbert vừa ra khỏi lâu đài để đi tìm thầy thuốc cho tiểu thư đang ốm, còn con Maude thì đang ở bên cạnh tiểu thư. Ôi! Thật may quá, thật may mà ta sực nhớ ra được điều đó. Ta thật xứng đáng bị đòn vì tội đã có những ý nghĩ xấu về đứa con gái thương yêu của ta.

Nằm im dưới gầm giường, Robin cũng có những ý nghĩ xấu, và thêm vào đấy còn có lúc rùng mình vì một cảm giác gì như thể ghen tuông trước khi nhận ra rằng người khách ban đêm kia là bác gác cổng giữ chìa khóa của lâu đài, là người cha trung thực của Maude, là Hubert Lindsay.

Bỗng tiếng những bước chân nhẹ nhàng và gấp gáp, tiếng sột soạt của một tà áo dài, một ánh đèn, đã cắt ngang đoạn độc thoại của Hubert. Ông ta đứng dậy.

Trông thấy ông, Maude không kìm được một tiếng kêu kinh hãi. Cô lo lắng hỏi:

— Cha đến đây có việc gì thế hở cha?

— Để nói chuyện với con, Maude ạ.

— Để mai rồi hẵng nói chuyện cha ạ; bây giờ khuya rồi, con mệt lắm, và cần phải ngủ.

— Cha chỉ nói với con đôi lời thôi.

— Con không nghe được đâu cha ạ, con xin hôn cha, rồi con hóa điếc đây. Chúc cha ngủ ngon.

— Cha chỉ hỏi con một câu; con trả lời rồi cha đi ngay.

— Con hóa điếc rồi mà, cha, và bây giờ con sẽ hóa câm. Chúc cha ngủ ngon, chúc cha ngủ ngon, - Maude vừa nói thêm vừa ghé trán sát môi ông già.

— Chưa chúc cha ngủ ngon được đâu con ạ, - ông Hubert nói, vẻ nghiêm trang - cha muốn biết con ở đâu về và tại sao con chưa đi ngủ.

— Nãy giờ con ở trên phòng tiểu thư: tiểu thư đang ốm nặng.

— Tốt lắm. Một câu hỏi nữa: tại sao con hôn hít mấy tên tù nhân một cách dễ dãi như thế? Tại sao con ôm hôn một người lạ như thể đó là anh ruột của con? Làm như vậy không tốt đâu.

— Con mà lại đi hôn người lạ? Con ấy ư! Nhưng ai bịa đặt chuyện ấy ra thế?

— Gaspard Steinkoff.

— Gaspard Steinkoff nói dối, cha ạ; giá hắn thật thà hơn thì hắn phải nói cho cha biết con đã tức giận và phẫn uất như thế nào khi hắn cả gan tìm cách quyến rũ con.

— Hắn đã cả gan như thế nào?

— Hắn đã cả gan như thế, - cô con gái quả quyết đáp. Rồi cô khóc òa lên, nói tiếp: - con đã cự tuyệt, con đã vùng ra được, và hắn đã dọa trả thù.

Hubert ôm chặt con trên lồng ngực, rồi sau một giây lát im lặng, ông nói một cách điềm tĩnh, một thái độ điềm tĩnh mà ở bên dưới người ta có thể đoán ra được một nỗi căm uất sâu xa:

— Nếu Chúa có tha thứ cho Gaspard Steinkoff, thì xin Chúa ban cho hắn bình an trong thế giới bên kia! Còn ta, ta sẽ không còn có thể nào có được bình an trên cõi thế này nếu ta chưa trừng trị được tên khốn kiếp ấy… Con ơi, con hãy hôn cha đi, con hãy hôn người cha già vẫn yêu thương con, quý trọng con, vẫn cầu nguyện Trời phù hộ cho con giữ tròn danh dự.

Đoạn Hubert Lindsay trở về nhiệm sở. Ông ra ngoài rồi, Maude lập tức lên tiếng hỏi:

— Robin, anh ở đâu thế?

— Tôi ở đây, - Robin đáp, lúc bấy giờ chàng đã ra khỏi chỗ nấp.

— Ban nãy mà cha tôi biết được anh đang ở đây thì tôi đến chết mất.

— Không sao đâu, Maude quý mến ạ, - chàng trả lời một cách ngây thơ đáng khâm phục; - trái lại, tôi sẽ chứng minh rằng cô hoàn toàn trong trắng vô tội. Nhưng Maude hãy nói cho tôi nghe: cái gã Gaspard Steinkoff ấy là ai thế? Tôi đã gặp hắn lần nào chưa?

— Đã có một lần: khi anh bị bắt giam lần trước, hắn là người canh gác buồng giam của anh.

— Vậy ra chính hắn đã bắt gặp chúng ta khi chúng ta đang… nói chuyện?

— Chính hắn, - Maude đáp và bất giác đỏ mặt lên.

— Vậy thì cô sẽ được trả thù; tôi còn nhớ gương mặt hắn, và hễ gặp hắn là tôi…

— Anh đừng bận tâm với con người ấy, hắn không đáng để cho anh lưu tâm; anh hãy khinh miệt nó như chính tôi vẫn khinh miệt… Tiểu thư Christabel đang mong được gặp anh, nhưng trước khi dẫn anh lên gặp tiểu thư, tôi có điều này cần nói với anh, Robin ạ… tôi rất bất hạnh… và…

Maude im bặt. Tiếng nấc chỉ chực bật ra, khiến cô nghẹn ngào không sao nói được nữa.

— Kìa cô lại khóc rồi! - Robin thốt lên, giọng trầu mến. - Thôi cô đừng khóc thế nữa. Tôi có thể giúp được gì cho cô không? Tôi có thể góp sức làm sao cho cô được hạnh phúc không? Cô cứ nói đi, tôi sẽ hết lòng hết sức phụng sự cô. Cô chớ ngần ngại cho tôi biết những nỗi phiền muộn của cô, một người anh có bổn phận phải tận tuỵ với em gái, mà tôi lại cảm thấy mình là anh của cô.

— Robin ạ, tôi khóc là vì tôi buộc lòng phải sống trong tòa lâu đài ghê tởm này, trong đó chẳng có ai là đàn bà ngoài tiểu thư Christabel và tôi, nếu không kể mấy người làm bếp và chăn gà vịt. Tôi từ tấm bé đã được nuôi dạy cùng với tiểu thư, cho nên tuy đẳng cấp khác nhau, chúng tôi thương yêu nhau như hai chị em ruột. Tôi là người được tiểu thư trút hết tâm sự mỗi khi có chuyện buồn, và tôi cũng được chia sẻ những niềm vui của tiểu thư, nhưng mặc dầu cô chủ nhân từ ấy đã hết sức cố gắng làm cho tôi thoải mái, tôi vẫn hiểu, vẫn cảm thấy mình chỉ là đầy tớ của tiểu thư, cho nên tôi không dám xin những lời khuyên nhủ và những lời an ủi của tiểu thư. Cha tôi là người trung thực, nhân hậu và can đảm, nhưng chỉ có thể che chở cho tôi từ xa, mà tôi thì xin thú thực là tôi cần được che chở sát sao… Vì hàng ngày quân lính của nam tước luôn luôn theo tôi tán tỉnh… và làm nhục tôi vì họ hiểu lầm cái tính nhí nhảnh tự nhiên của tôi, cái tính vui vẻ, hay cười đùa, hay hát hỏng của tôi… Không, tôi cảm thấy không còn sức chịu đựng cuộc sống đáng ghê sợ này nữa! Một là nó phải thay đổi, hai là tôi phải chết! Đấy, Robin ạ, đấy là những điều mà tôi cần phải nói với anh, và nếu tiểu thư Christabel rời bỏ lâu đài, tôi xin anh cho tôi được đi theo tiểu thư.

Chàng gác rừng trẻ tuổi chỉ có thể đáp lại bằng một tiếng kêu kinh ngạc.

— Xin anh đừng khước từ tôi, xin anh đem tôi theo, tôi van anh! - Maude nói thêm, giọng thiết tha cầu khẩn. - Tôi sẽ chết, tôi sẽ tự sát, tôi không muốn sống nữa nếu anh đi qua cầu treo của lâu đài này mà không cho tôi đi theo.

— Maude quý mến, cô quên mất rằng tôi chỉ là một thằng bé con mới lớn lên, và tôi không có quyền đưa cô về nhà cha tôi. Có thể cha tôi không chịu cho cô lại nhà.

— Một thằng bé con! - cô thiếu nữ vặn lại, giọng bực tức, - một thằng bé con mà sáng nay lại nâng cốc chúc cho tình yêu của mình!

— Cô lại còn quên mất cha cô nữa: ông già sẽ chết mất vì buồn phiền… Ban nãy tôi đã nghe những lời ông nói; ông đã cầu phước cho cô, ông đã thề trừng phạt kẻ vu khống.

— Người sẽ tha thứ cho tôi khi nghĩ rằng tôi đã đi theo cô chủ của tôi.

— Nhưng cô chủ có quyền đi trốn, vì cô có vị hôn phu là ngài Allan Clare!

— Anh nói phải, Robin ạ! Còn như tôi thì chỉ là một đứa bị mọi người ruồng bỏ.

— Nhưng hình như thầy Tuck cũng có thể…

— Ôi! Điều anh vừa nói thật là sai trái, xấu xa! - Maude công phẫn kêu lên. - Tôi đã cười, đã hát, đã nói chuyện tầm pháo với ông tu sĩ; nhưng tôi trong sạch vô tội, anh nghe chưa, tôi vô tội! Trời ơi! Trời ơi! Ai nấy đều buộc tội tôi, ai nấy đều cho tôi là một đưa hư hỏng! Trời ơi, tôi phát điên lên mất!

Rồi hai tay bưng mặt, Maude quỳ sụp xuống, rên rỉ. Robin xúc động đến tận đáy lòng.

— Em đứng lên đi, - chàng nói dịu dàng, - Thôi thế thì em sẽ cùng đi trốn với tiểu thư, em sẽ đến ở nhà cha tôi là ông Gilbert, em sẽ là con gái của cha tôi, em sẽ là em gái của tôi.

— Trời ban phước lành cho anh, cho tấm lòng cao quý của anh! - Maude nói, mái đầu tựa lên vai Robin; - em sẽ là tôi tớ của anh, là nô tỳ của anh.

— Em sẽ là em gái của anh. Nào thôi, Maude ạ, bây giờ thì hãy mỉm cười đi, một nụ cười thật xinh thay cho những giọt nước mắt đáng ghét kia đi!

Maude mỉm cười.

— Gấp lắm rồi, em hãy dẫn tôi đến phòng tiểu thư Christabel đi.

Maude vẫn mỉm cười, nhưng không nhúc nhích.

— Kìa em, còn đợi gì nữa?

— Không có gì đâu, không có gì đâu, ta đi thôi.

Ba tiếng “ta đi thôi” này được nói lên giữa hai chiếc hôn đặt lên đôi má ửng đỏ của chàng gác rừng.

Tiểu thư Christabel đang nóng lòng chờ người tín sứ của Allan. Khi thấy Robin bước vào phòng, tiểu thư hỏi ngay:

— Tôi có thể trông cậy vào ngài được không?

— Thưa tiểu thư được ạ.

— Chúa sẽ đền bù cho ngài; tôi đã sẵn sàng.

— Em cũng đã sẵn sàng, cô chủ quý mến ạ! - Maude reo lên, - lên đường thôi! Chúng ta phải tranh thủ từng phút

— “Chúng ta”? - Christabel ngạc nhiên kêu lên.

— Vâng ạ, chúng ta chớ còn sao nữa, thưa tiểu thư? - cô hầu phòng vừa đáp vừa cười lớn. - Thế tiểu thư tưởng Maude có thể sống xa cách cô chủ yêu quý của mình hay sao?

— Sao? Em thuận lòng đi theo chị ư?

— Không những em thuận lòng, mà em còn sẽ chết vì đau buồn nếu tiểu thư không thuận lòng cho em đi theo!

— Cả em nữa cũng cùng đi trong đoàn! - Halbert reo lên (nãy giờ cậu bé đứng nép sang một bên); - tiểu thư nhận em làm người hầu. Thưa ngài Robin, đây là cung tên của ngài; khi họ bắt ngài trong rừng, tôi đã nhanh tay giữ lấy.

— Cảm ơn Hal, - Robin nói. - Kể từ hôm nay chúng ta là đôi bạn.

— Suốt đời, sống chết có nhau! Thưa ngài, - cậu bé đệm thêm với một niềm kiêu hãnh ngây thơ.

— Vậy ta hãy lên đường! - Maude hô lên. - Hal, em đi lên trước đi, còn tiểu thư, hãy nắm tay em. Bây giờ mọi người hãy hoàn toàn im lặng; dù chỉ là một tiếng động nhỏ, một tiếng thì thầm cũng có thể làm cho chúng ta bị lộ.

Lâu đài Nottingham ăn thông ra ngoài bằng những con đường hầm rất lớn, lối vào mở trong nhà nguyện, còn lối ra thì ở trong rừng Sherwood. Hal biết những con đường hầm này khá kỹ, có thể làm hướng đạo được. Vậy đi qua những con đường này không có gì khó lắm, nhưng trước hết phải ra được nhà nguyện. Thế mà cửa nhà nguyện thì không còn bỏ ngỏ như hồi chập tối; nam tước Fitz Alwine đã đặt một tên lính canh ở đấy; may thay cho mấy người đi trốn, tên lính canh ấy thấy đứng gác ở bên trong nhà nguyện tiện hơn, rồi mệt quá, hắn đã ngủ thiếp đi trên một cái ghế dài như một ông thầy lễ trong gian thờ.

Bốn người trẻ tuổi đi vào nơi thiêng liêng mà không làm cho tên lính canh tỉnh dậy, thậm chí cũng không hề hay biết là có hắn đang nằm ngủ trong nhà nguyện, vì xung quanh tối như bưng. Họ đã bắt đầu đến sát miệng đường hầm thì Halbert, lúc ấy đi đầu, bỗng vấp phải một cái lăng ngã phịch xuống.

— Ai! - Tên lính canh thức giấc bất thần hỏi: hắn tưởng bị bắt quả tang trong khi ngủ quên.

Chỉ có tiếng vọng từ các mái vòm nhắc lại tiếng “ai!”, và chính những tiếng vọng tiếp theo truyền từ dãy cột này sang dãy cột kia, từ mái vòm nay sang mái vòm khác đã át hết những tiếng động do bốn người đi trốn vô ý gây nên. Hai nấp sau cái lăng, Robin và Christabel nấp dưới cái cầu thang dẫn lên tòa giảng. Chỉ có một mình Maude là không kịp nấp. Một ngọn đuốc bùng lên soi sáng căn nhà nguyện, và có tiếng tên lính canh reo lên:

— A! Hóa ra là Maude, cô con chiên của thầy Tuck! Người đẹp ơi, nàng có biết là nàng vừa làm cho bộ ria của Gaspard Steinkoff run lên vì bị đánh thức đột ngột trong khi chàng đang mơ thấy được nàng ban phát ân huệ không? Có thân xác Chúa chứng giám! Thế mà ta đã tưởng con lợn lòi già của thành Jerusalem, tức ngài nam tước đáng yêu của chúng ta, đang đi tuần tra các trạm canh. Nhưng diễm phúc thay! Lão ta vẫn ngáy đều, còn giai nhân lại đến đánh thức ta!

Nói đoạn, tên lính canh cắm cây đuốc vào cái chân nến trên giá kinh, rồi tiến về phía Maude, hai tay dang rộng định ôm ngang người cô.

Maude lạnh lùng đáp:

— Phải, tôi đến đây để cầu nguyên Chúa cho tiểu thư Christabel đang ốm nặng; vậy ông hãy để cho tôi cầu nguyện, ông Gaspard Steinkoff ạ.

Nghe thấy thế, Robin lặng lẽ đặt một mũi tên lên cung, nghĩ thầm: “À, thằng vu khống đây rồi!”

— Thôi chuyện kinh kệ hãng để sau, cô nàng ạ, - tên lính lại nói, hai tay đã khẽ chạm vào coóc-xê của cô gái; - cô mình chớ e sợ, hãy tặng Gaspard này một chiếc hôn, hai chiếc, ba chiếc, thật nhiều chiếc hôn.

— Lui ngay, đồ hèn, đồ hỗn láo! - Maude vừa quát vừa lùi lại.

Tên lính lại bước tới một bước nữa.

— Lui ngay, đồ vu khống, mi đã toan làm cho cha ta nguyền rủa ta để trả thù ta vì ta đã khinh bỉ cự tuyệt những trò gạ gẫm bỉ ổi của mi! Lui ngay, con quỷ dâm dục không biết tôn trọng cả những nơi thiêng liêng như nơi này. Lui ngay!

— Ba lần hỏa ngục! - Gaspard sùi bọt mép lên vì tức giận, ôm ngang lưng cô thiếu nữ; - ba lần hỏa ngục! Thói xấc lược của mày sẽ bị trừng trị!

Maude kháng cự rất dữ dội, biết chắc rằng Robin và Hal sẽ ra cứu mình, nhưng đồng thời cô lại sợ rằng tiếng hai người vật lộn sẽ làm cho bọn lính ở trạm canh gần đây để ý, cho nên cố nhịn không kêu la, chỉ nói lại:

— Chính mi sẽ bị… trừng trị!…

Bỗng một mũi tên bắn ra từ một bàn tay chưa bao giờ bắn sai đích đâm xuyên qua sọ tên vô lại làm cho hắn ngã vật ra nền đá nhà nguyện chết ngay tức thì. Không nhanh bằng mũi tên, Halbert lao ra bảo vệ chị, nhưng Maude đã khuỵu xuống bất tỉnh, miệng còn lắp bắp:

— Cảm ơn Robin, cảm ơn!…

Ánh đuốc chập chờn soi lên hai thân hình bất động, nằm sõng soài bên cạnh nhau trên nền đá, một vẫn cô đơn trong cõi chết, còn một thì được những tấm lòng trìu mến vây quanh, với những đôi mắt bạn bè chờ đợi những dấu hiệu lai tỉnh. Robin dùng hai bàn tay vốc nước trong mấy cái hàu đựng nước thánh thấm nhè nhẹ lên hai thái dương của Maude; Hal thì đập đập vào hai lòng bàn tay cô, còn Christabel thì cầu xin Đức Mẹ cứu giúp cho cô, và trong những lời cầu xin ấy, nàng gọi Maude bằng những danh từ âu yếm nhất của tình bạn, cả ba đều ra sức cố gắng làm cho Maude tỉnh lại, họ thà từ bỏ cuộc đào tẩu còn hơn là bỏ cô lại trong tình trạng mê man như vậy. Mấy phút liền trôi qua, rồi mới thấy Maude mở mắt ra, và mấy phút đó thật chẳng khác gì những thế kỷ, nhưng khi đôi mi cô hé mở, cái nhìn đầu tiên, một cái nhìn đắm đuối tràn đầy tình yêu và lòng biết ơn; được dành cho Robin; một nụ cười hiện lên trên đôi môi nhợt nhạt, đôi má tái xanh dần dần ửng hồng, bộ ngực bắt đầu phập phồng đều đặn, hai tay níu lấy những cánh tay dang ra để đỡ cô dậy. Cố rũ sạch trạng thái đờ đẫn của người vừa bị ngất, cô thốt lên trước tiên:

— Ta đi thôi!

Họ đi trong con đường hầm suốt một tiếng đồng hồ dài đằng đẵng. Cuối cùng Hal nói:

— Đến nơi rồi; các vị khom lưng xuống vì đoạn này thấp lắm, và ở lối ra có một cái rào che khuất của hầm từ phía ngoài, coi chừng vướng phải gai. Bây giờ rẽ sang trái, đi dọc theo con đường mòn men theo bờ rào… Thôi tắt đuốc đi: ánh trăng đủ sáng lắm rồi. Chúng ta đã được tự do!

— Bây giờ đến lượt tôi làm hướng đạo cho các vị, - Robin vừa nói vừa nhìn quanh để xác định phương hướng. - Tôi đã về đến nhà, vì khu rừng này là nhà của tôi. Xin hai tiểu thư đừng sợ gì cả, đến tảng sáng là ta gặp ngài Allan Clare.

Toán người nhanh nhẹn băng qua những chỗ đẵn cây và những cánh rừng già, tuy lúc bấy giờ hai cô thiếu nữ đã thấm mệt. Họ thận trọng tránh những con đường mòn và những khoảng trống, nơi mà nam tước chắc hẳn đã cho lính đến sục sạo. Họ cần phải di chuyển thận trọng như những con sơn dương, vượt nhanh từng chặng một, bất chấp gai góc xé rách những tà áo dài và đâm toạc những đôi chân. Đã được mấy phút Robin có vẻ như đang suy nghĩ rất lung. Maude rụt rè hỏi xem có điều gì làm cho chàng suy nghĩ. Chàng nói:

— Em ạ, chúng ta phải chia tay nhau trước khi trời sáng; Halbert sẽ đi với em đến nhà cha tôi, và các bạn sẽ nói rõ cho ông cụ biết tại sao tôi đi Nottingham mãi chưa về; cần phải báo trước cho công cụ biết là tôi phải đưa ngay tiểu thư đến chỗ ngài Allan Clare, như thế yên trí hơn.

Họ chia tay nhau sau những lời từ biệt thân ái. Maude cố nuốt nước mắt và nén những tiếng nấc trong khi đi theo Halbert trên con đường mòn mà Robin đã chỉ cho.

Tiểu thư Christabel và chàng kỵ sĩ của nàng - và từ nay Robin đã là một ky sĩ thực thụ - chẳng bao lâu đã ra đến con đường cái đi từ Nottingham đến Mansfeldwoohaus. Trước khi đi vào con đường này, Robin leo lên một cây cao nhìn ra khắp những vùng xung quanh để thăm dò động tĩnh.

Thoạt tiên không thấy có gì khả nghi cả, trong phạm vi tầm mắt chàng có thể bao quát, con đường cái có vẻ hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng trong khi rời cái đài quan sát kia leo xuống, lòng mừng thầm là mình gặp may, chàng bỗng thấy trên một đỉnh dốc hiện ra một người cưỡi ngựa đang phóng nhanh về phía hai người.

— Tiểu thư hãy nấp vào chỗ kia, đấy trong cái hố phía sau bụi cây ở dưới chân tôi ấy. Và xin tiểu thư ngồi thật im, chớ nhúc nhích, chớ thốt lên một lời nào, dù chỉ là một tiếng kêu khe khẽ vì hoảng sợ.

— Có nguy biến gì chăng? Có điều gì làm cho ngài lo sợ chăng? - Christabel hỏi khi thấy Robin lắp tên vào cung và đến phục sau một thân cây.

— Tiểu thư nấp xuống ngay đi, có một người cưỡi ngựa đang tiến về phía chúng ta, chưa biết là bạn hay là thù. Nhưng dù là thù chăng nữa thì cũng chỉ là một người, và một mũi tên bắn chính xác bao giờ cũng đủ sức chặn đứng một con người.

Robin không dám nói thêm gì nữa, sợ người bạn đường thêm hoảng hốt, tuy chàng đã nhận ra trong ánh bình minh những màu sắc tộc huy của nam tước Fitz Alwine trên ngọn cờ đuôi nheo ở đầu giáo người cưỡi ngựa. Về phía mình, tiểu thư Christabel cũng đoán được những ý đồ hiếu chiến của Robin và chỉ muốn kêu lên: “Thôi, đừng đổ máu nữa! Đừng giết chóc nữa! Sự tự do của chúng tôi đã phải trả giá quá đắt rồi!” Nhưng Robin một tay cầm cung còn tay kia ra hiệu cho nàng im lặng bằng một cử chỉ đầy uy quyền, trong khi người kia cưỡi ngựa phi nước đại mỗi lúc một đến gần.

— Nhân danh Chúa hằng sống, xin tiểu thư hãy nấp cho kín! - Robin thì thầm, hai hàm răng nghiến chặt như thể để nhai nát giọng mình; - cúi xuống!

Christabel vâng lời, xốc áo choàng trùm lên đầu và thầm khấn khứa Đức Mẹ Đồng trình. Trong khi đó, người cưỡi ngựa vẫn phóng tới, và Robin phục bên gốc cây; cung giương hết cỡ, mắt ghé sát vào mũi tên, chờ hắn phóng qua.

Người cưỡi ngựa phóng qua… Hắn phóng qua, nhanh như tia chớp… Nhưng mũi tên còn bay nhanh hơn nữa, đuổi kịp hắn, vượt qua hông con ngựa, đâm chếch vào giữa lườn ngựa và tấm đệm lót yên, cắm vào bụng ngựa cho đến tận đuôi. Người và ngựa ngã lăn ra trong một đám bụi mù mịt.

— Ta lánh đi thôi, thưa tiểu thư, ta phải lánh đi ngay, - Robin nói.

Christabel hồn siêu phách lạc, chân tay run rẩy, lắp bắp:

— Anh ấy bắn chết người kia rồi! Chết rồi! Chết rồi!

— Ta lánh đi thôi tiểu thư! - Robin nhắc lại, - Gấp lắm rồi!

— Chết rồi! - Christabel vẫn lắp bắp như người mất trí.

— Không phải đâu, tôi không bắn vào hắn đâu, thưa tiểu thư.

— Hắn đã kêu lên một tiếng khủng khiếp, tiếng kêu của kẻ hấp hối!

— Hắn kêu lên chỉ vì kinh ngạc.

— Anh nói sao?

— Tôi nói rằng người cưỡi ngựa này được phái đi tìm chúng ta, và nếu tôi không làm cho con ngựa mất hẳn khả năng chở hắn đi nhanh như vậy, thì chúng ta chỉ có chết. Ta đi đi, thưa tiểu thư, tiểu thư sẽ hiểu rõ hơn khi nào tiểu thư hết run sợ.

Christabel bình tâm lại, cố đi thật nhanh cho kịp Robin. Đi được chừng trăm bước nàng lại hỏi:

— Thế người cưỡi ngựa không bị thương chứ?

— Hắn không hề bị sây sát chút nào nữa là khác, tiểu thư ạ, nhưng con ngựa đáng thương của hắn thì đã phi nước cuối cùng. Hắn có quá nhiều ưu thế so với ta. Hắn có thể đi từ Mansfeldwoohaus đến Not tingham rồi quay trở về trước khi chúng ta rời khỏi con đường này, cho nên phải chặn hắn lại kỳ được. Bây giờ thì thế hai bên đã cân bằng, thậm chí ta còn có ít nhiều ưu thế nữa là khác. Hai bên đều đi chân, quả có thế, nhưng chân của ta nhẹ nhàng không có gì bó buộc, còn chân hắn thì khác. Xin tiểu thư vững tâm: khi hắn bò ra khỏi con ngựa để lên đường với đôi ủng nặng nề ấy thì ta đã đi xa. Mà đôi ủng ấy bây giờ chẳng phải là đôi hài ngàn dặm đâu. Can đảm lên tiểu thư, Allan Clare không còn xa, can đảm lên!