← Quay lại trang sách

Chương 14

Trán, mi mắt, hay nói cho đúng hơn là cả bộ mặt bị tổn thương vì ngọn đuốc mà Robin đã gí vào để làm cho nó tắt đi, đội trưởng Lambic còn có thêm một điều may mắn nữa là trong khi đuổi theo Robin y chạy theo một hướng hoàn toàn ngược lại với hướng của người chạy trốn.

Vào cái thời xảy ra câu chuyện này, tòa lâu đài Nottingham có vô số những con đường hầm đào trong những lớp đá nằm sâu trong quả đồi mà ở phía trên nhô lên những ngọn tháp và những bức thành có châu mai. Không có mấy ai, kể cả trong số những cư dân kỳ cựu nhất của tòa lâu đài phong kiến này, biết rõ vị thế của cái mê hồn trận bí ẩn này. Cho nên Lambic và quân lính của y cứ đi hú họa cầu may, mà vận may thì lại không đến với họ, đến nỗi họ lạc lối hoàn toàn, mỗi người đi một nẻo từ bao giờ họ cũng chẳng biết nữa.

Lambic, bị ngọn đuốc làm cho mù dở, đi theo hướng ngược lại với hướng của Robin, như chúng tôi đã nói, y để cho quân lính đi sang phía trái, và một lát sau đã đứng trước cái cầu thang lớn của lâu đài. Phía trên cầu thang y mường tượng nghe thấy tiếng bước chân của bọn lính trong đội y.

— Được, - y tự nhủ, - thế là chúng nó đã đuổi kịp cái thằng xỏ lá ấy, và bây giờ đang giải hắn tới trước mặt ngài nam tước. Ta phải đến cùng một lúc với chúng, chứ nếu không chúng sẽ tăng công để Đức Ông khen thưởng cho sự mẫn cán của chúng, cái quân súc sinh ấy!

Trong khi lẩm bẩm như vậy, viên đội trưởng thật thà của chúng ta đã đi đến trước cửa nam tước, và vì kinh nghiệm đã dạy y tính thận trọng, y cho rằng trước khi vào trình diễn cũng nên biết rõ thái độ của ngài ra sao khi quân lính giải tên tù binh về. Y bèn áp tai vào lỗ khóa và nghe được cuộc đối thoại sau đây:

— Các ngươi nói là bức thư này báo cho ta biết rằng ngài Tristan de Goldsborough không thể đến Notting ham được phải không?

— Bẩm vâng ạ; ngài phải lên kinh để tới triều đình.

— Thật phiền hà!

— Và ngài Goldsborough có nói là sẽ chờ ngài ở Luân Đôn.

— Lại thế nữa! Ngài có nói rõ ngày hẹn không?

— Thưa ngài không ạ; ngài Goldsborough chỉ nói là xin ngài lên đường càng sớm càng hay.

— Thế thì ta sẽ lên đường vào sáng sớm mai. Các ngươi bảo cho thắng ngựa đi. Ta cần có sáu vệ sĩ đi theo.

— Xin tuân lệnh ngài.

Lambic rất lấy làm lạ sao Robin lại không có mặt đây. Y đoán chừng quân lính đã đem nhốt chàng lại trong buồng giam, bèn chạy đến đấy xem sao. Nhưng cửa buồng giam mở toang, căn buồng trống hoặc ra, cây đuốc rơi giữa lối đi hãy còn bốc khói.

— Thôi chết rồi! - Viên đội tự chủ. - Biết làm thế nào bây giờ?

Rồi y quay trở về trước cửa phòng ngài nam tước, lòng còn chút ít hy vọng rằng quân lính sắp giải tên gác rừng đáng nguyền rủa kia về. Tội nghiệp cho Lambic! Y cảm thấy như cổ mình đã tiếp xúc với sợi dây treo cổ mới tinh. Tuy vậy niềm hy vọng không bao giờ rời bỏ hoàn toàn những kẻ bất hạnh. Viên đội trưởng hầu như đã có lại được một niềm hy vọng khi ghé tai một lần nữa lên cánh cửa và nhận ra rằng trong phòng của nam tước hoàn toàn im lặng. Y lập luận như sau: “Ngài nam tước đang ngủ, vậy tức là ngài không có điều gì phải nổi cơn thịnh nộ, nghĩa là ngài chưa biết rằng gã gác rừng kia đã trượt khỏi tay ngài như một con lươn; ngài chưa hay biết gì về cuộc tẩu thoát của hắn, vậy thì ngài không thấy ta có gì đáng quở trách, đáng trừng phạt, đáng treo cổ. Vậy thì ta có thể đến trình diện ngài một cách yên tâm, và thưa bẩm với ngài như thể ta đã làm tròn nhiệm vụ ngài giao cho một cách mỹ mãn nhất. Như vậy ta sẽ trì hoãn được ít nhiều để tìm xem cái tên Robin khốn kiếp ấy chạy đi đâu và bắt hắn trở về buồng giam; hoặc giả nếu hai tên lính ngu độn của ta đã may mắn bắt được hắn thì giữ riết lấy hắn trong ngục. Vậy thì ta có thể ra trình diện trước mặt ngài mà không hề sợ hãi… phải, không chút sợ hãi trước mặt vị lãnh chúa hung bạo và đầy quyền lực của ta… Ta cứ mạnh dạn mà vào. Nhưng ngài lại đang ngủ, ngài đang ngủ kia mà! Ôi, làm như thế khác nào đến vuốt lưng một con hổ đói? Mình điên hay sao mà đến đánh thức ngài lúc này? Ôi! Chao ôi! Nhưng nếu lúc này ngài nam tước không ngủ thì sao? - Viên đội trưởng đáng thương tiếp tục tự nhủ, trong lòng lần lượt hết run sợ lại đến yên tâm, hết nhút nhát lại đến huênh hoang phét lác. - Nếu ngài không ngủ thì lại càng tốt: vào lúc này lại chính là đắc sách nhất, vì như vậy tức là ngài vẫn chưa biết gì về câu chuyện không may của ta. Quả thật nếu ngài không ngủ mà trong phòng lại im ắng thế kia thì thật là một chuyện lạ chưa từng thấy! Nhưng ta sẽ có cách. Ta cứ thử cào cào vào cánh cửa xem sao: nếu tiếng động này gây nên một phản ứng gì quá dữ dội, ta sẽ có đủ thì giờ rút lui.

Lambic lấy móng tay cào nhẹ lên khoảng giữa cánh cửa, nơi gỗ dễ vang nhất. Thí nghiệm này không đưa lại một kết quả nào: trong phòng vẫn im phăng phắc.

— Chắc chắn là ngài đang ngủ, - Lambic lại tự nhủ thầm. - À nhưng không phải, mình rõ ngốc! Chẳng qua ngài đã đi đâu sang phòng khác; chắc ngài sang phòng tiểu thư Christabel, chứ không thì thế nào cũng có tiếng động, dù là ngài đang ngủ, vì hễ ngủ là ngài ngày như sấm.

Bị một trí tò mò quỉ quái thôi thúc, viên đội trưởng khe khẽ xoay chiếc chìa khóa trong ổ. Cánh cửa từ từ quay trên bản lề không một tiếng động, và điều đó cho phép Lambic thò cổ vào đưa mắt nhìn khắp gian phòng một lượt.

- Lạy Chúa!

Tiếng kêu hãi hùng ấy tắt ngấm trên môi Lambic, y đứng sững ra trên ngưỡng cửa, người im lìm bất động và lạnh toát đi như cái xác chết, trong khi lão nam tước lặng cảm đi vì kinh ngạc trước hành vi quá ư táo bạo của tên thuộc hạ, nhìn y trừng trừng như muốn nuốt sống y.

Thật khốn khổ cho cái anh Lambic này: số phận lúc nào cũng ngược đãi anh ta, như thể có một hung thần cứ nhè anh ta mà hãm hại. Định mệnh trớ trêu đã run rủi cho anh ta mở cửa phòng đúng vào lúc ngài nam tước già đầy tội lỗi đang quì trước mặt ông linh mục để xin xá tội trước khi lên đường đi Luân Đôn.

— Đồ khốn kiếp! Đồ ăn mày! Thật là phạm thượng chưa từng thấy! Ngươi dám do thám ta trong khi ta đang xưng tội! Mi là sứ giả của quỷ Satan! Quân phản bội đã bán mình cho quỷ dữ! Mi đến đây làm gì? - Lão nam tước hét lên khi ngài đã bắt đầu thở trở lại và có đủ sức trút cơn thịnh nộ ra ngoài. - Vậy chứ trong lâu đài này ai là chủ, ai là tớ? Ngươi là chủ chăng? Ta là tớ chăng? Đồ chết treo! Ngươi chỉ đáng làm mồi cho quạ rỉa! Và ta sẽ chưa lên ngựa chừng nào mà người chưa leo lên giá treo cổ của ta.

— Xin đạo hữu bình tâm lại! - Ông linh mục già can, - Chúa rất từ bi.

— Phụng sự Chúa không phải là những tên đốn mạt như nó, - nam tước vừa nói vừa đứng dậy, cơn giận bốc lên bừng bừng như men rượu. Rồi sau khi quay cuồng trong gian phòng như một con linh cẩu bị nhốt trong buồng; - quì xuống đây, quì thay vào chỗ của ta, và hãy xưng tội đi trước khi chết.

Lúc bấy giờ Lambic vẫn đứng yên trên ngưỡng cửa, và tuy đã hoàn toàn rối trí không còn biết ăn nói ra làm sao cho phải lẽ, y cũng cố tìm cách lợi dụng một giây lát buông lơi nào đó trong cơn thịnh nộ của ông chủ để đánh bạo đưa ra lời tự biện minh. Trong khi đó thì lão nam tước suy nghĩ và nói năng huyên thuyên chẳng có mạch lạc gì, đã vô tình tạo ra một cơ hội để Lambic có thể tự bào chữa.

— Lúc ấy người muốn làm gì ta mà định lẻn vào đây?

— Thưa Đức Ông, con đã gõ cửa mấy lần, - viên đội trưởng khúm núm đáp, - con tưởng không có ai trong phòng, nên con định…

— Phải, ngươi định nhân lúc ta đi vắng lẻn vào phòng ăn cắp chứ gì?

Ồ! Thưa Đức Ông!…

— Để ăn cắp đồ của ta!

— Thưa Đức Ông, tôi là một quân nhân, - Lambic đáp với một thái độ tự hào. Lời buộc tội vô căn cứ của nam tước làm cho y lấy lại được tính can đảm tự nhiên của y: bây giờ y không còn sợ ngục thất, đòn vọt hay giá treo cổ nữa.

— Chà chà! Thật là một sự phẫn uất cao quý! - Nam tước cười mỉa.

— Vâng, thưa Đức Ông, tôi là một quân nhân, là một người lính của Đức Ông, mà Đức Ông thì chưa bao giờ tuyển phường trộm cắp vào làm lính cả.

— Đức ta đây có quyền, và khi nào thích thì có thể gọi lính của Đức ta là kẻ cắp; Đức ta đây không cần biết đến những đức tính riêng của lính; và Đức ta đây cũng không khờ dại đến nỗi tưởng rằng cuộc ghé thăm của ngài Lambic đúng vào lúc ngài tưởng ta đi vắng lại không có mục đích nào khác ngoài cái mục đích báo cho ta biết rằng ngài là một người lương thiện. Nói tóm lại, dù là kẻ cắp hay là người lương thiện, ngươi đến đây để làm gì? Sau đó ngươi sẽ trình báo cho ta biết về việc tống giam con sói non kia.

Lambic lại run lên. Câu hỏi của nam tước cho y thấy rõ rằng lão vẫn chưa biết Robin tẩu thoát, và y rất sợ một cơn thịnh nộ cực kỳ dữ dội nổ ra khi y trần tình cho lão biết nguyên nhân của những vết bỏng trên mặt y. Vì vậy y đứng yên trước mặt ông chủ hung bạo của mình, hai mắt giương to ra một cách ngu xuẩn, mồm há hốc, hai tay thõng thượt.

— Chà! Ngươi ở đâu chui ra thế? - Bỗng ngài nam tước kêu lên trong khi nhìn kỹ gương mặt của Lambic.

— Quỷ thật, ban nãy ta gọi ngươi là kẻ từ địa ngục chui lên thế mà đúng! Cái mõm ngươi cháy xém thế kia thì hẳn là người vừa xuống thăm Satan lên chứ còn gì?

— Thưa ngài tôi bị bỏng vì một cây đuốc ạ.

— Một cây đuốc ư?

— Xin ngài bỏ qua cho, nhưng ngài chưa biết rằng cây đuốc ấy…

— Ngươi hót cái gì thế? Nói gọn gọn vào! Cây đuốc ấy là thế nào?

— Đó là cây đuốc của Robin.

— Lại thằng Robin! - Lão nam tước vừa rống lên vừa đến lấy thanh gươm treo trên vách.

“Thôi rồi! Thế là mình hết kiếp: chẳng khác gì bị gói ghém sẵn chỉ còn đợi tống gửi sang thế giới bên kia.” Lambic nghĩ bụng trong khi bất giác lùi ra ngưỡng cửa, sẵn sàng đề phòng hễ nam tước đâm một mũi là bỏ chạy ngay.

— Lại thằng Robin! Thế bây giờ hắn đâu rồi? - Nam tước vừa hỏi vừa chém không khí một đường; hắn ở đâu, để ta xiên gọn cả đôi một thể?

Lambic một nửa người đã lùi ra khỏi căn phòng, hai tay bám chặt lấy hai cánh cửa, để có thể đóng sập cửa lại nếu mũi kiếm của nam tước gí quá sát.

— Đạo hữu ơi, - Ông tu sĩ già nói. - Ngày xưa có lúc bọn Philistins đã sắp sửa bị chém giết, nhưng họ đã cầu nguyện Chúa, và thanh gươm đã lại được tra vào vỏ.

Fitz Alwine ném thanh gươm lên bàn và lao về phía Lambic. Viên đội trưởng bây giờ không làm ra bộ muốn bỏ chạy nữa. Nam tước bèn nắm lấy cổ áo Lambic và lôi y ra giữa phòng, nói:

— Ta hỏi người lần nữa, người đến đây để làm cái gì? Đồng thời ta cũng muốn biết giữa Robin, cây đuốc và cái mặt gớm guốc của ngươi có những mối quan hệ gì? Ngươi hãy trả lời cho nhanh và cho rõ, nếu không ta sẽ dùng đến cái kia, - ngài vừa nói vừa chỉ cái gậy dài và to lạ lùng có nắm tay bằng vàng mà ngài vẫn dùng để chống mỗi khi đi dạo trên thành, - nó không phải làm một thanh kiếm cho nên độ lượng không thể làm cho nó được tra vào vỏ trở lại.

— Bẩm Đức Ông, - viên đội trưởng đáp thật nhanh: y vừa nghĩ ra được một cách để tránh trả lời trực tiếp, - con đến là để hỏi xem Đức Ông định xử lý tên Robin như thế nào ạ.

— Thì ta muốn cho nó ở lại trong căn ngục nó vừa bị nhốt vào chứ còn sao nữa!

— Xin Đức Ông cho con được biết cái căn ngục ấy chỗ nào ạ, con sẽ giữ nó lại trong căn ngục ấy.

— Thế ngươi không biết hay sao? Ngươi vừa mới dẫn nó vào đấy cách đây một giờ là cùng chứ mấy?

— Nhưng bẩm Đức Ông nó không còn ở đấy nữa ạ. Con đã ra lệnh cho quân lính dẫn nó đến trước mặt Đức Ông, và con trưởng Đức Ông đã chọn một chỗ giam khác ạ… Buồng giam kia chính là nơi nó đã đốt xém mặt con đấy ạ.

— Thế này thì thật quá quắt! - Fitz Alwine hét lên, rồi bước một bước về phía cây gậy có quả nắm tay bằng vàng, trong khi Lambic hơi ngoảnh lại tìm lối thoát thân và thử nhẩm tính xem mình có kịp chạy không trước khi cơn dông nổi lên.

Cứ cái cơ sự này thì cây gậy kia sẽ giáng xuống xối xả như một trận mưa đá, vì lão nam tước tuy có bệnh thống phong nhưng chẳng phải là người cụt tay. Và sự tình đáng lẽ đã diễn ra đúng như vậy. Nhưng Lambic, bị đẩy đến bước đường cùng, quên mất quyền bất khả xâm phạm của vị lãnh chúa, và xông vào giật cây gậy ra khỏi tay chủ, nắm lấy hai cánh tay của lão, và với một thái độ cung kính tối đa mà tình thế lúc bấy giờ cho phép, y đẩy lão lui nhanh lại, xô lão ngồi phịch xuống chiếc ghế bành lớn dành cho người bị bệnh thống phong, và ba chân bốn cẳng bỏ chạy.

Lão nam tước Fitz Alwine, nhờ trạng thái kích thích lúc bấy giờ mà có lại được chút ít nhanh nhẹn, cũng toan ba chân bốn cẳng đuổi theo kẻ thuộc hạ táo gan này, nhưng hai tên lính vừa đi tìm Robin trở về đã miễn cho ngài cái việc khó nhọc ấy: nghe tiếng lão hét “Chặn nó lại! Chặn nó lại!”, họ chắn ngang lối thoát của viên đội lúc bấy giờ chưa ra khỏi phòng ngoài.

— Lui ra! - Viên đội vừa nói vừa ấy hai tên lính ra, - lui ngay!

Nhưng nam tước đã chạy ra đóng cửa lại: thế là từ nay mọi sự kháng cự đều trở thành vô ích, và viên đội khốn khổ đành thúc thủ đứng lại chờ cho vị lãnh chúa cao cả và quyền uy quyết định số phận mình.

Do một nguyên nhân tâm lý kỳ dị nào đó, chắc cũng tương đương với những nguyên nhân vật lý chi phối những hiện tượng tương tự trong thiên nhiên, sau hành động phiến loạn này cơn giận của nam tước dường như đã nguội hẳn đi, cũng tựa hồ như trận gió lớn lặng đi sau một cơn mưa nhỏ.

— Ngươi hãy xin lỗi ta đi. - Fitz Alwine buông mình rơi phịch xuống chiếc ghế bành lớn (lần này thì một cách tự nguyện), vừa thở hổn hển vừa nói một cách khá điềm tĩnh - nào, Lambic, xin lỗi ta đi.

Có lẽ sở dĩ lão nam tước tỏ ra điềm tĩnh và khoan dung như vậy chẳng qua cũng vì lão đã không còn đủ sức giữ cho cơn thịnh nộ cao ngang cung bậc thường ngày. Nhưng tình trạng này không thể cứ giữ nguyên như thế lâu được. Và trong khi Lambic hãy còn sợ sệt ấp úng chưa nói được, và trong khi hơi thở của nam tước dần dần trở lại nhịp bình thường, thì cơn giận của lão lại cũng dần dần tăng thêm cường độ, chỉ chực nổ tung ra.

— À! Ngươi từ chối! Ngươi không chịu xin lỗi ta? Thế thì hãy đọc kinh sám hối đi, - ngài nói thêm bằng một giọng mỉa mai cay độc; - việc này làm trước khi chết cũng có ích đấy.

— Thưa Đức Ông sự việc đã xảy ra như thế này, và hai người lính kia có thể làm chứng cho con.

— Cũng là hai thằng bợm như người chứ gì?

— Tội con không đến nỗi như ngài nghĩ; lúc bấy giờ con đã sắp đóng cửa buồng giam thì Robin…

Chúng ta sẽ không lắng nghe Lambic trong khi y kể lại một cách rườm rà những sự việc tiếp theo, lại còn ngắt quãng câu chuyện bằng những lời phân trần có lợi cho bản thân: ta sẽ không biết thêm được chút gì mới mẻ hết. Lão nam tước nghe y kể, chốc chốc lại giận dữ gầm lên, dẫm chân đành đạch và giẫy lên trong chiếc ghế bành chẳng khác nào quỷ tắm nước thánh, như người ta thường nói, rồi cuối cùng tóm tắt những lời hăm dọa trừng phạt trong câu nói ngắn gọn một cách đáng sợ sau đây:

— Nếu thằng Robin đã thoát ra khỏi lâu đài được, thì các ngươi lại không thoát khỏi tay ta đâu? Hắn thì được tự do, còn các ngươi thì sẽ được chết.

Bỗng có tiếng gõ cửa phòng rất mạnh. - Vào đi! - Nam tước quát.

Một tên lính bước vào, nói:

— Xin Đức Ông rất đáng kính tha thứ cho con nếu con dám mạo muội đến trình diện trước Đức Ông rất đáng kính cho gọi. Nhưng cái biến cố vừa xảy ra nó phi thường, nó khủng khiếp đến nỗi con thiết tưởng mình có bổn phận đến phi báo ngay với vị chủ nhân rất đáng kính của lâu đài này.

— Nói đi, nhưng không được dông dài vô tận.

— Đức Ông rất đáng kính sẽ hài lòng: câu chuyện mà con sẽ thuật lại là câu chuyện hữu tận, nó tuy khủng khiếp nhưng lại ngắn gọn. Con biết rằng một người lính tốt phải sử dụng cây cung cái nỏ thật nhiều và sử dụng cái lưỡi ít thôi, mà con thì lại là một người lính tốt…

— Thôi kể đi, kể đi, đồ ngu!

Tên lính lễ độ nghiêng mình nói tiếp:

— Vì con là người lính tốt cho nên con không bao giờ quên nguyên tắc đó.

— Sao ngươi lắm lời đến thế hả! Ngươi đến đây để kể lể về những ưu điểm của người đấy hẳn? Vào chuyện ngay!

Người lính nghiêng mình, rồi lại điềm nhiên nói tiếp: - Bổn phận ra lệnh cho con rằng..

— Lại thế rồi! - Fitz Alwine gầm lên.

— Bổn phận ra lệnh cho con phải đến thay gác ở nhà nguyện…

— À may thật, - nam tước nghĩ thầm, và bắt đầu lắng tai nghe.

— Thế là năm mươi phút trước đây con đã đi vào nhà nguyện: dạ năm hay mười phút là tùy ý Đức Ông rất đáng kính ạ. Đi đến cửa nơi thiêng liêng này, con không thấy có ai đứng canh cả, thế mà lẽ ra phải có; có thế con mới phải đến thay phiên gác chứ ạ. Con bèn nghĩ bụng: thế nào cũng phải có, vậy ta phải tìm cho ra. Thế là con tìm, con gọi chẳng trông thấy đâu, mà cũng chẳng nghe thấy ai thưa. “Hay là hắn ngủ quên? Hay là hắn say rượu? Cũng có thể lắm” - con nghĩ bụng: “Mình hãy về trạm lấy thêm viện binh ra đây bắt quả tang tên phạm tội, để sau đó hắn sẽ chịu một hình phạt thật nặng đáng làm gương cho mọi người, chưa kể hình phạt riêng của ta dành cho hắn”. Con vừa chạy về trạm vừa kêu: “Ông đội ơi! Có báo động”, Chẳng thấy ai trong trạm ra cả. “Ồ! Ồ!” con nghĩ bụng…

— Kệ mẹ nó cái bụng của mi! Nó nghĩ gì mặc mẹ nó! Kể vào chuyện ngay! - Nam tước sốt ruột quát.

Người lính lại giơ tay chào kiểu nhà binh, rồi nói tiếp:

— Ồ! Ồ! – con nghĩ bụng, - những bổn phận của người lính không được tuân thủ trong đội vệ binh của lâu đài Nottingham. Kỷ luật bị lơi là, và hậu quả của sự lơi là ấy..

— Trời đất quỷ thân ơi! Sao mi cứ ba hoa chích chòe mãi thế? Đồ chó lắm mồm! - Nam tước quát.

— Chó lắm mồm! - Tên lính lẩm bẩm một mình - chó lắm mồm! Mình là thợ săn thiện xạ mà chưa biết đến cái giống chó này bao giờ. Thôi mặc, ta cứ tiếp. Những hậu quả của sự lơi là ấy có thể rất tai hại. Chỉ lát sau con đã tìm ra những người ở trạm canh đang ngồi ăn uống ở nhà căn tin. Thế là chúng con liền tiến hành một cuộc tìm kiếm tỉ mỉ và thông minh từ khu vực phía ngoài cho đến phần bên trong hiện trường. Xét bên ngoài thì không có gì đặc biệt nếu không kể sự vắng mặt thường xuyên của lính canh, nhưng ở bên trong thì chính người lính canh kia lại có mặt, và có mặt trong một tình trạng thật là khủng khiếp, lạy Chúa! Có mặt như những người tử trận trên sa trường, nghĩa là nằm giữa đất, bất động, không còn có sinh khí, ngập ngụa trong máu của bản thân, có một mũi tên xuyên qua sọ…

— Trời ơi! - Nam tước kêu lên. - Ai là kẻ đã phạm tội ác này?

— Thưa con không biết ạ, vì khi hắn phạm tội con không có mặt ạ; nhưng…

— Người chết là ai thế?

— Gaspard Steinkoff ạ… một người lính can trường.

— Ngươi không biết kẻ giết hắn là ai sao?

— Con đã có hân hạnh thưa với Đức Ông rất đáng kính là con không có mặt trong khi tội ác được hoàn thành, nhưng để tạo điều kiện thuận lợi cho những cuộc điều tra của Đức Ông, con đã có sáng kiến thu lượm mũi tên giết người… Thưa ngài nó đây ạ.

— Mũi tên này không phải lấy từ kho vũ khí của ta ra, - nam tước nói sau khi đã chăm chú xem xét mũi tên.

— Nhưng với tất cả niềm tôn kính mà con có bổn phận phải có đối với Đức Ông, - tên lính nói tiếp, - con cũng xin lưu ý Đức Ông rằng mũi tên này một khi đã không phải từ kho vũ khí của Đức Ông lấy ra thì ắt là phải từ một nơi khác, và con xin thưa là đã từng thấy những mũi tên tương tự trong cái túi tên mang trên vai của một tên giám mã tập sự của lâu đài.

— Tên giám mã nào?

— Thưa Halbert ạ. Cây cung và cái túi tên mà chúng con đã trông thấy trên tay cậu bé này vốn thuộc về một tù nhân của Đức Ông tên là Robin Hood.

— Chúng bay mau mau đi tìm thằng Halbert lại đây cho ta, - nam tước ra lệnh.

Tên lính kia lại nói.

— Cách đây một tiếng đồng hồ con đã trông thấy tên Halbert ấy cùng đi với cô Maude đến phòng tiểu thư Christabel.

— Hãy đốt một ngọn đuốc lên và đi theo ta! - Nam tước quát.

Có Lambic và cả tốp lính theo sau, nam tước lúc bấy giờ chẳng thấy đau chân vì bệnh thống phong nữa, đi rất nhanh về phía phòng riêng của cô con gái. Đến trước cửa phòng, lão giơ tay gõ mấy tiếng; nhưng không thấy trả lời, lão mở cửa và vội vã bước vào. Trong phòng tối om và im phăng phắc, Nam tước hoài công đi sang phòng giấy và tất cả những gian thuộc khuê phòng của tiểu thư: nơi nào cũng vắng ngắt và tối om như thế.

— Đi mất rồi! Nó đi mất rồi! - Nam tước lo lắng kêu lên; rồi bằng một giọng xé gan xé ruột, ngài gọi lớn.

— Christabel! Christabel! Nhưng không thấy Christabel trả lời.

— Đi rồi! Nó đi mất rồi! - Nam tước vừa nhắc đi nhắc lại vừa vặn hai tay vào nhau và buông mình rơi phịch xuống chiếc ghế tựa mà lão đã bắt gặp con gái ngồi viết thư cho Allan Clare. - Nó đi với gã kia rồi! Con ơi! Christabel ơi! Christabel của cha!

Nhưng rồi niềm hy vọng có thể theo kịp con gái trên đường đào tẩu đã trả lại cho người cha khốn khổ ấy một ít bình tĩnh.

— Báo động! Chúng bay! - Lão quát, giọng vang như sấm. - Báo động! Hãy chia ra làm hai toán: một sẽ lục soát kỹ khắp lâu đài, từ trên xuống dưới, từ chiều dọc đến chiều ngang… còn toán thứ hai lên ngựa sục sạo khắp khu rừng Sherwood không bỏ sót một lùm cây, một bụi rậm nào… Đi đi!

Quân lính đã rục rịch xuất phát thì lão nam tước lại nói thêm:

— Đi gọi lão giữ chìa khóa Hubert Lindsay đến đây. Chính con Maude Jezabel con gái lão ta, cái con chết tiệt ấy, đã bày mưu cho con ta đi trốn, lão Hubert phải đền tội thay cho nó. Nói luôn cho hai mươi kỵ binh của ta thắng ngựa sẵn sàng xuất phát ngay khi có lệnh. Đi đi, kìa đi ngay đi chứ, quân khốn kiếp!

Quân lính hối hả bỏ đi thi hành mệnh lệnh của nam tước, và Lambic cũng thừa cơ lánh xa nanh vuốt của vị chủ nhân cả giận.

Đứng lại một mình, lão nam tước cứ suy nghĩ mông lung, khi thì giận dữ điên cuồng, khi thì sầu não ray rứt. Lão vốn thành thật thương yêu con gái và nỗi hổ thẹn vì con gái trốn theo một người đàn ông vẫn không sánh kịp nỗi đau thương của lão khi nghĩ rằng từ nay mình sẽ không còn nhìn thấy con nữa, không còn được ôm hôn nó nữa, và thậm chí cũng không còn được xử sự độc đoán đối với nó nữa.

Trong lúc những cơn giận dữ và những phút đau buồn xen kẽ nhau trong lòng nam tước như vậy, ông già Hubert Lindsay xuất hiện. Chẳng may cho ông ta, ông đến đúng vào lúc một cơn giận đang hoành hành…

— Một khi chúng đã không biết cách làm nghề lính tráng như vậy, ta sẽ diệt hết chúng nó! - Lão nam tước gầm lên, - và ta sẽ không để sót lại một bóng ma nào trên cõi thế này, vì cái bóng ma đó có thể nói: “Tôi đã giúp Christabel lừa dối cha nàng!” Phải, phải, ta thề như thể nhân danh tất cả các Thánh tông đồ và nhân danh râu tổ tiên ta, ta sẽ không tha chết cho một mống nào! A, ngươi đây rồi, Hubert Lindsay, người gác cổng của lâu đài Nottingham!

— Đức Ông có lệnh cho đòi tôi, - ông già nói, giọng trầm tĩnh.

Nam tước không đáp, mà lại chồm lên cổ ông già như một con thú dữ, lôi ông ra giữa phòng, lay người ông rõ mạnh, nói:

— Quân phản trắc! Con gái ta đâu? Trả lời ngay không ta bóp chết!

— Con gái ngài ư, thưa Đức Ông? Nhưng tôi có biết gì đâu? - Hubert nói, ngạc nhiên nhiều hơn là sợ hãi trước cơn giận của ông chủ.

— Quân gian tặc!

Hubert gỡ được hai tay nam tước ra, lạnh lùng đáp:

— Thưa ngài, xin ngài làm ơn giảng giải cho tôi hiểu lý do của câu hỏi kỳ quặc ấy, rồi tôi sẽ xin trả lời… Nhưng xin ngài biết cho rằng tôi chỉ là một con người hèn mọn, lương thiện, thẳng thắn và trung thực, suốt đời chưa phạm một tội lỗi gì đáng phải hổ thẹn. Dù ngài có giết tôi ngay tại chỗ tôi cũng chẳng nề vì nỗi chết mà chưa được xưng tội, vì tôi chẳng có điều gì phải tự chê trách. Ngài là chúa của tôi, xin ngài cứ chất vấn tôi, tôi xin trả lời tất cả những điều ngài hỏi, không phải vì sợ, mà vì bổn phận, vì tôn kính ngài.

— Cách đây hai tiếng đồng hồ có những ai ra khỏi lâu đài?

— Thưa ngài tôi không biết ạ: trước đây hai tiếng đồng hồ tôi đã giao chìa khóa lại cho người phó của tôi là Michael Walden.

— Có thật không?

— Cũng thật như ngài là chúa của tôi vậy.

— Khi ngươi hãy còn gác có ai ra ngoài không?

— Có Halbert, cậu bé giám mã ạ, cậu ta có nói với tôi: “Tiểu thư mệt, cháu được lệnh đi gọi thầy thuốc ạ”.

— À, ra cơ mưu của chúng là thế đấy! - Lão nam tước kêu lên. Thằng nhãi ấy nó lừa người đấy: Christabel không đau ốm gì đâu, thằng Hal đi ra ngoài là để chuẩn bị cho nó đi trốn đấy.

— Sao? Tiểu thư đã rời bỏ ngài mà đi sao?

— Phải, đứa con vô ân bạc nghĩa ấy đã bỏ cha già ra đi, và con gái ngươi cũng đã đi theo nó.

— Con Maude ư? Ồ không đâu thưa ngài, không thể như thế được. Tôi xin vào gọi nó ra đây ngay, nó đang trong phòng nó ấy mà.

Vừa lúc ấy đội trưởng Lambic, rất hào hứng vì có được dịp bày tỏ sự mẫn cán của mình, hăm hở bước vào.

— Thưa ngài, kỵ binh của ngài đã sẵn sàng. Con đã đi tìm Halbert khắp lâu đài mà không thấy. Nó đã trở về lâu đài cùng với con và Robin, và chưa hề ra khỏi lâu đài bằng cửa chính, Micheal Walden đã thề như vậy: đã hai tiếng đồng hồ rồi không có ai đi qua cầu treo cả.

— Tất cả những việc đó có gì quan trọng đâu! - Nam tước nói. - Cái chết của Gaspard không phải là một tội ác vô ích. - Sau một lát im lặng, lão gọi, - Lambic!

— Thưa Đức Ông con nghe ạ.

— Có phải tối nay người có đến tận nhà một lão gác rừng tên là Gilbert Head không? Cách Mansfeldwoohaus không xa ấy mà?

— Thưa Đức Ông có ạ.

— Ấy, đó chính là nơi tên Robin Hood quỷ quái kia trú ngụ, và chắc đó cũng là nơi mà đứa con gái vô ân bạc nghĩa của ta sẽ gặp tên vô đạo đã… Thôi không nói chuyện này nữa… Lambic, hãy lên ngựa với quân lính của ngươi đi, hãy phi đến ngôi nhà ấy, bắt lấy bọn đào tẩu, và chỉ được quay về đây sau khi đã thiêu hủy cái sào huyệt của bọn trộm cướp ấy.

— Thưa Đức Ông, con xin tuân lệnh.

Đoạn Lambic lui ra.

Hubert Lindsay, vừa quay trở lại được vài phút, đứng tách ra một bên, ủ rũ, im lặng, hai tay khoanh lại, đầu cúi gầm.

— Lão bộc của ta ơi, - nam tước nói, - ta không muốn rằng cơn giận làm cho ta quên rằng từ bao nhiêu năm trường chúng ta đã sống gần nhau. Xưa nay người bao giờ cũng trung thành với ta. Người đã hai lần cứu sống ta. Vậy thì, người chiến hữu già của ta ơi, ngươi hãy quên những cơn giận, những hành vi thô bạo và nhiều khi bất công của ta, và nếu ngươi cũng thương con ngươi như ta thương con ta, lần này nữa người hãy đem can đảm và kinh nghiệm của ngươi ra giúp ta để đưa hai con chiên lạc trở về chốn cũ… vì Maude chắc là đã trốn đi với Christabel rồi.

— Khổ thân tôi! Thưa ngài, buồng nó trống không, - ông già vừa nói vừa khóc nấc lên.

Lẽ ra nỗi khổ tâm thành thực của ông già cũng đủ cho nam tước thấy rằng ông ta không thể là kẻ đồng mưu trong cuộc đào tẩu của hai cô con gái, nhưng vị lãnh chúa kỳ quặc này vốn nóng tính mà lại đa nghi, ngài vốn đinh ninh rằng một kẻ thuộc hạ ắt phải lừa dối bề trên của mình, một người dân đen ắt phải lừa dối kẻ quyền quý, một ông linh mục ắt phải lừa dối một vị giám mục, một người lính ắt phải lừa dối một sĩ quan.vv… Cho nên lão thấy cần giăng một cái bẫy để thử Hubert.

— Có phải trong các đường hầm của lâu đài có một đường dẫn ra khu rừng Sherwood không?

Nam tước biết rất rõ là có một con đường hầm như thế, nhưng lại không biết vị trí chính xác của nó. Hubert, và có lẽ cả con gái ông ta nữa, hẳn là biết rõ điều này hơn lão.

— Chà! - Lão nghĩ thầm trong khi hỏi câu vừa rồi, - nếu cô Maude đã hướng dẫn con gái ta trong hầm ngầm tối tăm, thì ta đây sẽ bắt cô nàng đền tội trên mặt đất, giữa ban ngày.

Hubert, vốn là người trung trực như chúng tôi đã nói, tự thấy có bổn phận phải giúp chủ tìm ra tiểu thư; vả chăng ông cũng có lý do không kém gì lão nam tước để thiết tha với việc đuổi theo hai cô con gái, cho nên ông sốt sắng trả lời ngay!

— Thưa Đức Ông đúng là có một con đường hầm đưa ra khu rừng, và tôi biết rõ tất cả những lối rẽ ngoặt đưa đến con đường ấy.

— Maude có thông thạo như ngươi không?

— Thưa, nó không biết đâu ạ; hoặc ít ra tôi cũng nghĩ như thế.

— Vậy ngoài người ra không có ai tỏ tường điều bí mật ấy chứ?

— Có ba người nữa, thưa Đức Ông: đó là Michael Walden, Gaspard Steinkoff và Halbert.

— Halbert ừ! - Lão nam tước kêu lên, cơn giận lại nổi đùng đùng, - Halbert ư! Thế thì chính nó đã làm hướng đạo cho hai đứa! Bay đâu! Đốt đuốc lên! Đưa mấy cây đuốc lại đây, lục soát kỹ đường hầm!

Lòng ngay thẳng của Hubert đã được đền bù: lão nam tước không còn nghi ngờ gì người lão bộc nữa; ngài hào phóng tặng cho ông già những cách gọi thân ái và những lời thề nguyền đầy lòng biết ơn.

— Xin ngài cứ vững tâm, - ông già nói trong khi quân lính chuẩn bị đuốc và tập hợp thành đội ngũ để đi theo chủ tướng, - Chúa sẽ trả con lại cho chúng ta!

Nỗi tuyệt vọng của hai ông già thật não lòng. Cách biệt nhau về dòng dõi, vì niềm kiêu hãnh về tông tộc, vì cách sống, giờ đây họ liên kết lại để đối phó với một tai họa chung, họ trở thành bình đẳng trong niềm đau khổ.

Nam tước và Hubert, có sáu vệ binh đi theo, đi qua gian nhà nguyện, không muốn dừng chân trước cái xác của Gaspard, rồi chui vào con đường hầm. Họ đi mới được mấy bước đã có tiếng nói xôn xao từ xa vẳng tới tai nam tước.

— À! Lão thốt lên, - đây rồi! Tiến lên Hubert tiến lên.

Hubert dẫn đầu, xăm xăm bước về phía có tiếng người nói.

— Thưa Đức Ông, - ông già nói, - những tiếng xôn xao mà ngài nghe thấy không phải từ con đường hầm dẫn ra rừng đưa lại.

— Mặc kệ, chính chúng nó đấy, cứ tiến lên, kìa đi đi!

Ở chỗ ấy con đường hầm chia làm hai nhánh. Họ đi vào nhánh dẫn về phía có tiếng động. Tiếng xôn xao mỗi lúc một rõ hơn, xen lẫn với cả những tiếng quát tháo.

— À! À! Chúng nó kêu cứu hay sao ấy! Có ta đây, các con ơi, có ta đây!

— Nếu vậy thì chúng đi lạc rồi, - Hubert nói.

— Càng tốt, - lão nam tước đáp, trong khi tình phụ tử trong lòng lão đã bắt đầu nhường chỗ cho một nỗi khao khát trả thù cuồng nhiệt; - càng tốt!

Hubert đang đi phía trước cách mấy bước bỗng dừng lại nghe ngóng.

— Thưa Đức Ông, - ông già nói, - tôi xin cam đoan với ngài rằng những tiếng kêu la kia không phải do mấy đứa đi trốn phát ra; đi phía này chúng ta lạc hướng rồi, chỉ mất thêm thì giờ.

— Ngươi hãy theo ta! - Lão nam tước vừa quát vừa ném một cái nhìn giận dữ sang người gác cổng già mà lão lại bắt đầu nghi ngờ là có thông đồng với bọn đào tẩu. Người hãy theo ta, còn chúng bay đứng lại đây đợi!

Hai ông già đi về phía có tiếng người. Mỗi lúc những tiếng kêu la mỗi thêm rõ rệt.

— Quả thật ông chủ điên mất rồi. - Hubert thầm tự nhủ, - chẳng lẽ ông ta có thể nghĩ rằng trong khi đi trốn người ta lại la hét inh ỏi lên như vậy sao? Bọn người kia đang thi nhau gào cật lực, mà hình như họ đang đi về phía này thì phải.

Vừa nói xong thì đã thấy hai tên lính hiện ra trước đôi mắt kinh ngạc của nam tước.

— Chúng mày đi đâu về thế, quân ăn hại?

— Đi đuổi theo tên tù Robin Hood ạ, - mấy người khốn khổ đáp, vừa mệt rã rời, vừa sợ hết vía. - Bẩm Đức Ông chúng con bị lạc ạ; chúng con đã tưởng vĩnh viễn không bao giờ tìm lại được đường về thì may sao Trời đã phái Đức Ông đến cứu chúng con. Chúng con nghe thấy tiếng nói của Đức Ông từ xa, nên chạy lại để đỡ mất công ngài.

Nam tước đang thất vọng và hoang mang tột độ thì một trong những tên lính vừa đi lạc đường bắt đầu kể lể chuyện Robin Hood tẩu thoát.

— Thôi thôi đủ rồi, đồ ngu! - Lão quát. - Từ lúc lạc lối trong đường hầm này chúng bay có nghe thấy tiếng động gì khả nghi không?

— Thưa Đức Ông tuyệt đối không ạ.

— Ta chạy đi thôi, Hubert, phải chạy thật nhanh để bù lại thời gian đã mất!

Cái thời gian đã mất ấy đã cứu thoát những người đi trốn. Vài mươi phút sau tốp người do nam tước dẫn đầu đã ra đến rừng. Họ thấy rõ ngay là những người mà họ đi tìm đã đi theo chính con đường này. Lối ra khỏi đường hầm xưa nay bao giờ cũng lấp kín thì giờ đây hở toang.

— Linh tính của ta quả không sai! - Nam tước thốt lên. - Nào, quân bay, tiến lên, sục sạo khắp khu rừng này; ta hứa sẽ thưởng một trăm đồng êquy vàng cho đứa nào đưa được tiểu thư Christabel và cái lũ khốn nạn đã rủ rê tiểu thư về lâu đài.

Nam tước cùng với Hubert đi ngược trở lại và về phòng riêng. Mặc dầu đang rất cần nghỉ ngơi, lão lập tức mặc chiếc áo bằng lưới sắt, đeo thanh kiếm vào đai lưng, rồi tay hoa ngọn giáo có cờ đuôi nheo mang màu tộc huy, lão nhanh nhẹn lên yên dẫn đầu hai mươi kỵ binh phóng ra con đường đi Mansfeldwoohaus.