← Quay lại trang sách

QUYỂN I XỨ SỞ CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG RỪNG Không gian Giarai hay rừng ở ngoài kia

Đàn ông săn bắn và chiến đấu. Đàn bà đảm đang và mơ tưởng; họ sinh hạ các giấc mơ và các vị thần.

Có những ngày họ có thiên nhãn; họ mang sải cánh vô biên của ước vọng và mộng mơ.

Michelet, Mụ phù thủy.

Chương 1 Không gian Giarai hay rừng ở ngoài kia

Khác với người Khơme phần lớn định cư ở hạ lưu sông Mêkông, và người Việt chiếm cứ bờ biển phía đông của bán đảo, nơi họ thay thế người Chàm, các dân tộc bản địa sống chen giữa các dân tộc nói trên, ở những miền đất giữa, địa hình ít nhiều hiểm trở và phủ rừng. Trên toàn bộ bán đảo Đông Dương, họ là những cư dân được biết đến sau cùng, rồi bị các công cuộc thực dân hóa liên tiếp xâm lấn. Người Việt Nam, vốn là những người nông dân - làm vườn, nuôi một mối kinh sợ truyền kiếp đối với rừng; họ không dám liều lĩnh đi vào rừng; đối với họ, đó chỉ là miền đất “mọi” và hổ - tức là miền rừng thiêng nước độc. Ở đấy không có người văn minh - nghĩa là không hề có người. Và thế là ta đã bước vào miền mơ tưởng rồi đó... Những người Pháp đầu tiên tiến vào vùng được gọi một cách không đúng là cao nguyên đó, đã được người Việt và người Lào cảnh báo trước; dù có phần ít lo sợ các thần linh ác hại hơn, vẫn cảm thấy rất khó chịu, vì họ vốn không ưa cái kiểu rừng nhiệt đới, quá khác biệt với những khu rừng rất chi ngăn nắp của họ. Rồi lại thêm trí tưởng tượng, phóng đại các mối hiểm nguy, bịa chuyện hoang đường (tới nỗi rất lâu người ta vẫn tin là có những “người có đuôi”), đến độ lảm nhảm như có thể thấy ở những nhà văn kiểu Jean D’Esme hay André Malraux. Có họa điên mới sống ở những vùng đó. Vì sợ mà người ta tàn sát. Từ án mạng bạo tàn cho đến diệt chủng có tổ chức, qua các cuộc săn đuổi và các cuộc chiến tranh thế giới, chẳng phải là việc ám sát kẻ khác thường được giải thích như vậy đó sao?

Những cư dân của vùng rừng núi này cũng chẳng thể đứng ngoài chuyện đó. Nếu huyền thoại của họ có khác và họ có một lòng tôn trọng lớn hơn đối với người khác mình, thì rừng đối với họ vẫn là một ám ảnh dị nghĩa. “Không được đi ra ngoài ban đêm, vì có hổ” (và một thời là có mìn). Rừng không chỉ là lãnh địa của thảo mộc và muông thú đáng ngại; đấy còn là nơi cư trú đặc biệt của các yang cũng thật như cây cối và hổ vậy; nơi cư trú của các cô tiên có thể làm cho con người mê muội đến thành điên. Không thể mô tả chính xác về rừng nếu không chú trọng đến chiều kích này hiện diện ở tất cả những ai từng đi qua rừng, kể cả các nhà bác học nghiên cứu thảo mộc.

Rừng, phủ kín phần lớn khu vực sinh sống của dân cư bản địa, chiếm vị trí trung tâm của miền đất này, cũng như của cuốn sách này. Rừng có mặt ở khắp nơi, trong làng, ngoài rẫy. Rừng thưa, nơi thống trị của các loài cây họ dầu, cây cho gỗ xây dựng, cùng các loại bộ đậu, vài cây sồi nhỏ và tre dùng làm rui mè. Rừng rậm rất đa dạng về loài cây, từ những cây Bombax và Lagerstroemia, Artocarpus và Mangifera , nơi treo lủng lẳng những chùm phong lan thơm đến mê hồn, đến những bụi rậm rối bù các loại dây leo, trong đó có loài mây hết sức hữu ích, và những cây tre lớn có thể dùng cho mọi việc. Hệ thực vật mọc hoang trên những vùng đất bỏ không và ở các rìa làng, nơi những cây vông nem nở đỏ rực và các loại cây họ trôm bốc mùi. Và ở khắp nơi, ngay cả những chỗ bị rợp, một thảm cây họ cỏ rải rác vô số các loài nấm trên nền đất chua. Mùa mưa thì dậy mùi đất bùn, mùa khô thì nồng khét. Ngổn ngang cành khô và lá rụng. Thằn lằn và kỳ đà. Những con nhện giăng tơ có thể bắt được cả chim. Các loài vật họ thỏ và họ hươu gặm cỏ trong rừng thưa, các loài dã thú lớn thống trị trong rừng sâu, bọn khỉ réo vang nơi rừng gần, lũ gà mái, công và gà lôi kiếm ăn ven các thửa ruộng, ở đó bọn vẹt xanh ồn ào át hết mọi thứ tiếng.

Nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo, con đường mòn, do bao nhiêu thế hệ những bàn chân trần đi mãi theo một lối vạch nên, rụt rè đâm vào rừng rậm; con đường của tiều phu, của những người đi săn, có thể nó sẽ dẫn đến một làng nào đấy. Nhô hẳn lên trên một búi cỏ cao, nổi bật phần trên một thân hình đàn bà, một bức tượng nhà mồ bằng gỗ, là dấu vết còn lại của một nghĩa trang đã bị bỏ hoang - bởi nhà mồ là nơi trú ngụ tạm thời của những người chết trước khi đi sang thế giới bên kia. Nhưng lại còn có những cô gái-rừng nữa, và khắp nơi, những yang , có thể mang hình dạng một tảng đá, một cái cây, hay một con hổ. Con người tự sáng chế ra các nỗi hoảng sợ và các thần linh, để tự hù dọa mình đặng không được đi quá xa, cũng đã phối hợp các phương thức để hóa giải thần linh và trừ tà cho rừng; họ cũng đã làm đúng như vậy đối với đàn bà. Tuy nhiên, khi họ quên và đi quá xa, thế là họ sa bẫy; họ bị điên. Về điều này, tưởng cũng là hấp dẫn khi nhớ rằng rượu cần, được lên men mạnh bằng rễ và vỏ cây (mọc hoang trong rừng và do đàn bà pha chế), được coi là uống “để mà quên”. Mà người Giarai và các tộc người bản địa khác thì uống thả giàn; và thế là... họ phiêu du tận “ngoài kia” - họ biết thế, mà đàn bà cũng biết thế.

Khu đất dùng làm nương rẫy và khu đất làng đều được cắt ra từ rừng, dùng rìu và lửa mà đoạt lấy của rừng, không lãng phí cũng chẳng tàn phá, vừa đủ để sinh tồn, bên cạnh các giống loài khác, động vật và thực vật. Sự cân bằng, mà ngày nay chúng ta gọi là “cân bằng sinh thái”, luôn được giữ vững; nhưng con người (ở vùng Giarai, đúng hơn là người đàn bà) không thể chấp nhận quá gần gũi với cái hoang dã, tức thế giới của rừng; phải phân cắt, phải ấn định ranh giới - dù chỉ là để mà thèm muốn vượt qua.

Vậy là phần đất-làng, bbon , khác biệt hẳn với phần đất-rừng, dlei ; nội giới và ngoại giới, cái ở đây và cái ngoài kia. Trong bbon có con người, gia súc, các loài cây cỏ đã được thuần hóa (ngoài những giống cây họ lúa do con người trồng và các giống tự phát như cây ổi và cây xoài); ở dlei , thì ngược lại. Nhưng sự phân biệt này không vĩnh viễn: mọi khóm rừng đều có thể là một “ổ” cư trú tiềm tàng cho con người; và làng nào cũng có thể di chuyển (điều ngày càng xảy ra ít hơn), khi ấy chỗ đất bỏ hoang đó gọi là röngol, cây cỏ sẽ lấn chiếm lại dần, cho đến lúc lấn lướt và đất nọ lại trở lại thành rừng. Rừng bao giờ cũng mạnh hơn. Hơn nữa, sự đối lập không chỉ gồm có hai vế, “làng” và “rừng” (là những khái niệm, là cái cách người Giarai quan niệm về môi trường, hơn là những thực thể địa lý), một mặt còn có dron , đất ruộng hay vườn, không hoàn toàn thuộc về con người và ở đó không an tâm bằng ở làng, vẫn có dã thú hay ma lai vãng, và mặt khác còn có pösat , tức khu nhà mồ, ở bìa rừng, không xa làng, nhưng nằm dưới tán cây, la cà tới đó có thể nguy hiểm, ngoài các dịp thăm viếng theo nghi lễ - chính rìa làng là nơi cơ trú của nhân vật huyền thoại Drit và Bà Già-Rừng, thường được kể là người đứng đầu các vị tổ tiên. Ham say phân loại, người Giarai thích xếp hạng mọi thứ để mà tự trấn an (kỳ thực mọi người đều làm như vậy; chỉ riêng việc gọi tên [một sự vật nào đó] đã khiến ta có ảo tưởng có được một uy quyền nào đó đối với nó rồi); song dẫu sao vũ trụ quan của người Giarai vẫn mang tính tổng thể, đến độ họ phải đưa chen vào giữa các hạng loại những khâu trung gian, những cầu nối bao giờ cũng mang tính nước đôi (bởi chúng gắn với hai cực) kiểu như dron và pösat . Ngoài ra cách phân loại của người Giarai lại còn năng động, nó mang tính lịch đại: làng có thể trở thành rừng, và ngược lại, một giống loài hoang dại có thể được thuần hóa, một con người có thể sống thành người hoang dã trong rừng. “Thần ở cùng thần, ma cùng ma, người cùng người!” - Người ta nói như vậy, nhưng người ta cũng biết rằng người sống rồi sẽ trở thành người quá cố, rằng họ sẽ trở về làng như những con ma; còn các vị tổ tiên thì được coi là yang . Chẳng có gì vĩnh cửu, mọi thứ đều có thể đảo ngược, mọi chuyện đều có thể xảy ra, và chẳng có gì có thể khiến người Giarai ngạc nhiên.

Tôi xin ra ngoài đề một chút để kể lại ở đây một trải nghiệm riêng. Dù không phải là người loạn dâm tử thi, người ta vẫn có thể yêu cái chết, như yêu một người con gái mong đợi. Dẫu sao, tôi rất say mê các khu nhà mồ... vì những pho tượng gỗ của chúng. Sau khi đã đi vòng khắp các khu nhà mồ “đang hoạt động” (những nơi này hết sức nhộn nhịp vào các dịp nghi lễ định kỳ), tôi phải đi tìm trong rừng, đôi khi đến tận các vùng chiến khu, tất cả những gì còn lại của các khu nhà mồ đã bị bỏ hoang. Chỉ riêng việc đi thăm nhà mồ ngoài các thời gian lễ nghi đã là không phải phép rồi; nhưng đẩy xa sự không phải phép đến mức mạo hiểm ở những vùng nguy hiểm để khám phá ra những khúc gỗ hiếm hoi đã cháy đen mất một nửa (chúng còn có thể chỉ dẫn cho tôi về sự di chuyển của các làng) khiến tôi bị coi như là hơi điên. Việc làm của tôi không những không hề làm những người Giarai bất bình (họ chẳng hề ngạc nhiên về bất cứ điều gì, nhất là ở một người nước ngoài), mà thậm chí tôi còn có thể tìm được những người giúp đưa đường - tình trạng “điên” của tôi che chở cho họ...

Rừng, trong nghĩa chung của từ dlei , không thuần nhất - tôi không nói về mặt cấu tạo của các loài thực vật, mà là về sự hình dung của người Giarai. Rừng gần, ở ven làng, tương đối thân thuộc; đây là nơi đàn bà đến nhặt củi để đun và hái lượm (hầu như thứ gì cũng có thể ăn được). Rừng thưa phía ngoài các ruộng rẫy cho đến chân núi cũng vậy, nơi bọn trẻ con trai gái chăn trâu, vừa nhởn nhơ vui chơi vừa nhặt các thứ “của nếm” (trái cây, cào cào, châu chấu, ấu trùng,...). Trong rừng rậm hơn, người ta không dám lang thang một mình, trừ khi là người đi săn, mögap ; đi vào đây phải là nhiều người đàn ông cùng nhau, nhất là để chặt cây làm nhà, đẽo quan tài, hoặc mang về những khúc gỗ đẹp tạc tượng nhà mồ. Về mặt pháp lý, rừng gần thuộc sở hữu của cộng đồng làng (không được chặt cây, nhất là cây tre, quá gần làng láng giềng); rừng xa thì thuộc về mọi người, hay đúng hơn, không thuộc về ai cả - đấy là thế giới ở ngoài kia; người đầu tiên nhìn thấy một cái cây vừa ý có thể chiếm hữu nó, nhưng là chiếm hữu một cách vụng trộm và phải thực hiện một nghi lễ để xin “tạ lỗi”. Đàn bà di chuyển rất hạn chế; họ ra ruộng, ra vườn, đến khu nhà mồ; trên đường đi, họ nhặt củi và lấy nước cần dùng. Người đàn ông cơ động hơn, bởi anh ta chẳng có nơi nào là nhà mình, chẳng sở hữu gì cho riêng mình hết; theo truyền thống, anh ta là người đi săn và người chiến sĩ, không thật sự là người nông dân. Về điều này, cũng cần nói rằng lao động không phải là một “giá trị”; người ta chỉ làm ra cái tối cần thiết để ở, để ăn, để mặc, và chẳng việc gì phải vội vàng.

Mọi thứ đều có chỗ của nó; không được trộn lẫn dlei với bbon , cũng như không được phạm tội loạn luân. Song rừng hiện diện ngay trong nhà, vì nền văn minh Giarai là một nền văn minh thảo mộc. Các cây cột nâng ngôi nhà sàn, cũng như rui mè, đều bằng gỗ; sàn nhà và phên liếp bằng tre đan và trải ra; cung nỏ bằng gỗ; đòn tay nhà bằng tre đặc; chăn đắp bằng tranh rạ; tre và mây đảm bảo mọi công việc đan lát. Như vậy, ngay trong nhà mình, con người sống trong một khung cảnh rừng, anh ta không đi ra khỏi rừng. Rừng “ma quái” ấy (đấy là một trong những nghĩa của yang ) không hề rời anh ta; vậy thì phải trừ tà cho nó. Trong nghi lễ dựng nhà, người ta đọc lời khấn sau đây:

Các vật liệu lấy trong rừng để làm nhà, đều là thảo mộc và đều có yang (như mọi thứ trên đời này), nghĩa là đều mang tính thiêng, trong trường hợp này là có hại. Vì từ nay chúng thuộc về khung cảnh người ( bbon chứ không phải dlei nữa) nên phải tẩy đi tính thiêng-rừng trong chúng để mặc vào cho chúng (bởi chúng không thể hoàn toàn trần trụi) một tính thiêng-làng, yang trong nhà, yang gia đình - các yang này, chí ít dường như ta đã quen biết, còn các yang rừng... thì có “bùa mê” và có thể làm cho người ta điên. Con người không thể làm được bất cứ việc gì nếu không có rừng, nhưng không được để cho rừng hành mình, nhất là trong đời sống bình thường hằng ngày, trong nhà, vốn là lãnh địa của người đàn bà. Vậy nên người ta đuổi các yang rừng ấy ra khỏi làng bình yên của mình... để mà tìm lại chúng ở ngoài kia, trong các giấc mơ và các huyền thoại - tìm lại ai? Tìm lại rừng, và cũng là tìm lại người đàn bà, dưới một dạng khác của họ, bởi người đàn bà Giarai có mặt khắp nơi đó vừa là “tự nhiên” vừa là “văn hóa”.

Từ dlei , dùng làm thuộc ngữ, thường mang nghĩa xấu. Trong hệ thuật ngữ Giarai về cây cỏ, một dạng dlei của một giống rau cỏ bao giờ cũng là thứ không ăn được; như cây củ mài jöning dlei là đối lập với họ củ nâu “ăn được” hay củ nâu “làng” - hai thuộc ngữ này là đồng nghĩa. Trong lĩnh vực này, đáng chú ý là từ atau, “ma”, cũng có vai trò tương tự. Danh mục thế giới động vật càng có ý nghĩa hơn: asau dlei , tùy chỗ, có thể hoặc là một con chó rừng, hoặc một con chó dại, cũng có thể gọi là asau hüt, nghĩa là con chó (nhà) bị điên.

Về con người, thành ngữ ana’ dlei , dịch sát nghĩa là “con trai của rừng”, tức “hoang dã”, có thể chỉ một kẻ thù hoặc một kẻ kỳ quặc sống ngoài lề xã hội. Trong hầu hết các phương ngữ của cư dân bản địa, thuộc ngữ “rừng” ( dlei ở người Nam Đảo, bri ở người Nam Á) rất gần với thuộc ngữ “hoang dã” của chúng ta. Trong tất cả các tộc người bản địa, “đi ra rừng” hay “giẫm rừng” là một uyển ngữ để chỉ việc “đi ỉa” (thường là ở ranh giới của làng, nơi bìa rừng). Cho nên trong tác phẩm Chúng tôi ăn rừng, G. Condominas viết ở ngay trang đầu rằng người Mnong Gar còn có tên gọi là Phii Brêe “Những con người của rừng”, tôi gần như tin chắc nếu quả họ gắn với tên gọi ấy (không loại trừ có sự hóm hỉnh) thì đó là do những người khác áp đặt cho họ. Những người bị gọi là dlei chỉ có thể là những người không bình thường, kẻ thù, những kẻ bị ma ám, những người ở bên ngoài, ở ngoài kia, “khác lạ” đến mức rất gần tới tha hóa.

Nhưng rừng bao giờ cũng nước đôi. Một lời nói- dlei đối nghịch với lời nói thật, đơn giản, thẳng, trực tiếp, là một lời nói ẩn dụ, một cách diễn đạt khác cách nói theo nghĩa đen; đấy là lời nói gián tiếp, “ở ngoài kia”, vẫn là lịch sự. Chẳng hạn, khi tôi nói về một người nào đó: “Cây lúa nhỏ vượt cả cây lau lớn”, cả cử tọa sẽ hiểu là tôi nhằm vào một kẻ hợm hĩnh lố bịch và sẽ cười ồ lên, trừ anh ta - mà dẫu sao tôi cũng không xúc phạm, bởi vì cách trình bày vẫn mang tính nước đôi; câu đó vẫn có thể muốn nói điều khác. Tuyệt tác của lời nói-rừng là diễn từ của huyền thoại. Nên chú ý là người Sre (thuộc nhóm Nam Á) có một lối nói tương đương chính xác với cách nói Giarai, có nghĩa hơi khác một chút; đối với họ yal bri (lời nói-rừng) là một lời nói bâng quơ (lời nói gió bay), chẳng nên lấy làm điều - tức chẳng liên lụy đến ai cả, và ở đây ta gặp lại cái sắc thái Giarai kia. Trong gió (trên trời) hay trong rừng, lời nói-ở ngoài kia là biểu hiện của mơ tưởng. Các cuộc chiến đấu sử thi của các anh hùng huyền thoại diễn ra trên trời; các cô tiên, và cả các con hổ cái hay yêu tinh cái, cũng ở trong rừng - là hai tầng biểu hiện của không gian tưởng tượng...

Nếu bây giờ ta quay lại với huyền thoại ở đầu sách, ta sẽ nhận ra những nơi chốn vừa chỉ ra trên đây, mối quan hệ của chúng và chức năng của chúng trong không gian mơ tưởng. Có một ngôi làng, ở đấy người ta ăn và uống rượu ghè, có vùng rừng rộng lớn gọi là dlei römah-röman , rừng tê-giác-voi; giữa hai cực ấy: là röngol , nơi diễn ra cái cảnh trung tâm. Chỉ một người duy nhất vượt qua cả ba nơi chốn ấy, đấy là người thợ săn mögap, như là người làm mối dây liên lạc giữa làng và rừng, mối liên lạc cũng được cụ thể hóa bởi nhân vật nữ, đến từ rừng, đạt tới làng, sau khi đã hiển lộ ra ở chốn trung gian - từ đó mà có mối quan hệ sẽ được triển khai về sau giữa người thợ săn và người con gái-rừng. Tình tiết lãnh chúa ghen tức cướp lấy người đẹp là một hình mẫu của huyền thoại, sẽ gặp lại trong chu trình Drit, và, bao giờ cũng vậy, không phải kẻ sống bên lề (người thợ săn hay Drit) bị thua, mà chính là lãnh chúa (trong trường hợp Hj. 49, người thợ săn của chúng ta được nối dài bằng người cháu của ông ta; họ chỉ là một, điều đã được nhấn mạnh bằng sự kiện cuối cùng người cháu sống với “cô” của nó). Cần ghi nhớ thêm một tính cách quan trọng của nhân vật nữ: nữ hoàng thụ động (dù nàng hăng hái giã gạo hay dệt vải) và ở trong nhà; nàng ở trong đầu tê giác hay trong nhà; nàng để cho người thợ săn bắt lấy khi ở trong rừng, để cho lãnh chúa bắt lấy khi ở nhà. Người đàn ông ở bên ngoài; người đàn bà, dù nàng ở “ngoài kia”, chỉ có thể được quan niệm là nội giới.