Chương 2 Đàn bà và nội giới
“Đẹp hơn hết thảy”, nhân vật Nữ hoàng được mô tả như vậy, bởi vì tất cả các cô gái đều đẹp, nói như Boulbet, “bình thường thôi đã đẹp rồi”. Ít áo xống càng khiến ta có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cơ thể, cặp vú rắn chắc, cả sau nhiều lần sinh nở, hai cánh tay tròn mà lao động vất vả không hề làm biến dạng, nước da bánh mật và hun nắng, rợp bóng dưới một mái tóc dài đen sẫm. Ngay cả khi đã có tuổi và tóc đã muối tiêu, họ vẫn đầy phẩm cách và đáng kính, vẫn luôn uyển chuyển duyên dáng, dù là khi họ dệt vải, đan lát hay gùi nước. Thường để trần đến thắt lưng (cũng như đàn ông, thường đóng một cái toai (khố), tức là một tấm vải dài, luồn qua hai chân và quấn quanh lưng) các bà mặc một chiếc váy sẫm, phủ đến gối hay đến mắt cá, xẻ bên hông ở đó hai mép vải khép vào nhau. Chân trần, dáng đi uyển chuyển. Các cậu con trai hết lời ca ngợi những vẻ đẹp của các cô nàng yêu quý: mái tóc, làn da, và nhất là đôi vú, mà người ta chẳng việc gì phải che giấu và đàn ông đến điên lên vì chúng, tới mức họ tạc hình chúng lên các cây gỗ trong nhà, từ cầu thang cho tới xà ngang. Vậy đó, không nhập nhằng, cũng chẳng sỗ sàng; lối ăn mặc chẳng cần đạo đức giả, còn con mắt thì chẳng hề soi mói.
Trong đời sống thường ngày và truyền thống, vợ chồng cư trú theo mẫu hệ, kế thừa theo dòng mẹ, con cái mang họ mẹ; ba chữ m 1 đó là cái mà Lévy-Strauss gọi là “chế độ điều hòa” - điều đó không có nghĩa là bao giờ cũng “hài hòa”. Người con gái sống ở nhà mẹ mình và rất ít khi đi ra ngoài, trong khi người con trai thường ở khắp nơi, trừ ở nhà cha mẹ mình; khi người con gái lấy chồng, chính người con trai rời gia đình mình (có một món hồi môn - bù trừ, tức là cái giá của người chồng) sang ở nhà bố mẹ vợ; khi nhà có nhiều con gái, các cô chị có thể làm một ngôi nhà riêng, nhưng việc cư trú vẫn phải ở phía vợ, trong làng gốc của người con gái và không xa nhà cha mẹ cô gái. Người đàn ông chẳng có gì là của riêng mình; nhà và toàn bộ của cải, ruộng nương và gia súc, tất cả đều thuộc về gia đình người vợ, là người duy nhất có quyền thừa kế. Khi góa vợ hay li dị, người đàn ông trở về làng gốc của mình, mình trần thân trụi, chỉ còn giữ được cái khố, con cái của họ được các dì hay bà ngoại nuôi dưỡng. Con cái, cả trai lẫn gái, đều mang họ mẹ; tất cả chúng đều là “con hoang”, bao giờ người ta cũng biết mẹ chúng, còn bố chúng thì không nhất thiết. Như vậy mỗi người đều có một tên họ, mỗi người đều được định vị, theo một dòng những người nữ - những người duy nhất được nhắc đến trong các phả hệ thông dụng. Trong dòng nối tiếp các thế hệ, phần đóng góp của người đàn ông không bị phủ nhận, nhưng “dòng máu”, sự sống, sự di truyền, thì chỉ truyền theo dòng nữ. Các thần linh - yang của gia dình là các yang của người đàn bà; người đàn ông có vợ buộc phải quên các yang của mình đi mà chỉ cầu khấn các yang của gia đình mẹ vợ, và thường là người vợ nhắc cho anh ta biết phải khấn vái những gì. Chàng là lời nói và ngoại giới, nàng là ký ức và nội giới, nàng mang trong mình truyền thống, nàng thiết lập nên xã hội.
1 Ba từ chỉ chế độ mẫu hệ trong tiếng Pháp đều bắt đầu bằng chữ m: matrilinéaire - truyền nối theo phía mẹ; matrimonimique = con cái lấy họ mẹ; matrilocal = chồng về ở nhà mẹ vợ - ND.
Vị nữ vương của nội giới ấy là một người lao động. Thức dậy rất sớm trước đàn ông, nàng giã và sàng gạo, sửa soạn thức ăn sáng cho cả nhà và cho gia cầm, làm cỏ ngoài rẫy, sắm sanh quần áo cho mọi người, từ khâu thu hoạch bông, chải bông, kéo sợi, nhuộm màu, cho đến dệt nên những tấm vải nổi tiếng vì trang trí tinh tế. Ngay từ khi mới ra đời, bà đỡ đã phân rõ vai trò của nàng trong lễ “thổi tai” bbhet , nhắc đôi tai ấy phải nhớ lấy con dao xếp của người dệt vải (là hoán dụ cho mọi công việc của người phụ nữ, nhất là việc cửi canh). Trong văn học Giarai (huyền thoại, bài hát, lời tỏ tình, lời ai điếu) hình ảnh người đàn bà là người dệt cửi và làm việc, brua’ , từ thường có nghĩa tương đương với hmua , ruộng; đương nhiên không phải nàng chỉ có làm việc, nhưng nàng được biểu hiện thế đó, và như vậy là một cách để tôn vinh nàng.
Ngôi nhà Giarai, là một hình chữ nhật dài, trục chính theo hướng bắc nam. Phía nam là mái hiên và lối vào chính bước vào phòng khách; đấy là chỗ của đàn ông. Phía bắc, lối vào (gần như chỉ được trổ riêng cho người phụ nữ) đi vào phòng riêng, ở đây có bếp, và về phía tây là nơi trữ nước, củi, các loại rau, nồi niêu - thế giới của người đàn bà. Người phụ nữ chỉ đứng ở hiên nhà buổi sáng sớm để giã gạo và buổi chiều ngồi dệt vải, thường là khi không có đàn ông, vốn hay ở bên ngoài.
Khi người đàn bà không ở nhà, họ di chuyển, như chúng ta đã thấy, trong một chu vi rất hạn chế: ruộng nương, vườn tược, ra sông và đi qua rừng nằm trên đường của mình; rất nhiều phụ nữ không bao giờ đi sang làng bên cạnh, nếu không phải là trong các dịp lễ “bỏ mả” lớn tập họp các gia đình sinh ra từ một bà tổ chung - và việc này cũng chỉ diễn ra ở ven rừng, chứ không phải trong làng - trong khi người con trai ít khi ở nhà mình, trai trẻ thì lang thang để tán gái, người đứng tuổi thì đi thăm bạn bè ở xa, hoặc giả đi giải quyết công việc (săn bắn hay các việc khác)...
Thiết chế xã hội dường như rất ưu đãi người đàn bà: là người chủ gia đình, bà có mọi thứ... nhưng bà cũng làm mọi việc. Quả là bà cương nghị hơn đàn ông nhiều, bà có thể không cần có người đàn ông; phần đông các bà góa Giarai không tái giá, trong khi các ông góa vợ rất bối rối và tìm ngay một người đàn bà trẻ.
Nhưng như vậy thì người đàn ông làm gì trong cái thế giới đàn bà này? Ngoài việc hạ cây để làm rẫy, làm nhà hay làm nhà mồ, anh ta hút ống điếu, tán gẫu, bàn cãi tranh chấp, đi săn và đánh giặc; dù gì đi nữa, anh ta là mối liên hệ với kẻ khác, với ngoại giới. Người đàn bà là khởi điểm và hoàn tất, kết thúc.
Con trai con gái ve vãn nhau tự do. Người con trai mang cây đàn gông đến, anh đứng bên ngoài; người con gái chờ anh trên hiên nhà, hay trong chòi rẫy. Họ có thể làm tình với nhau, nhưng không được có con - mà không dùng các chất phá thai; họ bảo chỉ cần không muốn là được. Đây là thời gian yêu đương, chưa phải là lúc cưới xin, cưới xin là một thiết chế xã hội, một mối liên hệ giữa các gia đình, nhằm nối tiếp các thế hệ; ít khi người ta cưới người mình đã yêu và đã ca hát.
mái tóc phủ trán em như mái hiên trên sàn nhà
thân em như ánh trăng ngà
hơi thở em như lửa nóng
biết làm sao đây hỡi thần linh
làm sao giữ lại được em cho anh đây?
hai ta hãy cùng nhau đi hái rau
một nhúm rau đắng
một bó rau sam
một mớ rau dền
ôi biết làm sao đây hỡi thần linh
làm sao giữ được em cho anh đây?
muốn đưa em ra nương
muốn dẫn em ra vườn
trên đường ra ruộng
anh đứng đó chờ em
ôi biết làm sao đây hỡi thần linh
làm sao giữ được em cho anh?
cơn mưa làm mối rời tổ
làm cho con cá vượt đập
cả tháng nay anh không rời hiên nhà em
một năm nay anh đứng ở cầu thang nhà em
ôi biết làm sao đây hỡi thần linh
làm sao giữ được em cho anh?
........................................................
Khi người con gái trả lời, thường là họ đùa, nhất là khi ngồi cùng bạn bè.
ơi anh bạn xinh xinh
anh rình theo vết chúng em
vết chân con gái bên bờ suối
vết chân anh bị xóa đi trên cát
và anh cũng mất cả dấu chân của chúng em
........................................................
chân chúng ta cùng gập theo một điệu
tay chúng ta cùng uốn theo một nhịp
đôi má ta chạm vào nhau và nhận ra nhau...
Nước đóng một vai trò lớn trong những lời tỏ tình này. Người con trai cố đưa cô gái đến bên bờ suối hay gặp cô gái ở đấy, vì ở đấy người ta tắm và tất là phải rũ bỏ hết áo xống. Nhưng tất cả những cái đó cũng phải được hiểu theo lối “nói- rừng”, còn mối quan hệ giữa nước và giới tính có nghĩa như sau: “Người đàn bà là một cái ao; người đàn ông là nước chảy. Cho nên, anh bạn giải thích cho tôi nói thêm, đàn bà thủy chung, còn đàn ông thì hay thay lòng đổi dạ”. Ao chỉ nhận nước mưa hay nước từ một dòng suối chảy vào, nghĩa là một thứ nước luôn chuyển động. Nước đọng lại trong ao, nó bị giới hạn, đóng kín, như người đàn bà trong nhà, dự trữ và tiếp nhận, được làm đầy bằng cái bên ngoài đưa đến. Nước chảy không ổn định, trốn chạy đến vô cùng; nó chỉ đi qua, không gắn lại với cái gì hết, như người đàn ông chẳng có một gia đình, cũng chẳng có một ngôi nhà giữ chân, anh ta đi qua. Phần lớn các vụ ly hôn đều do người chồng không chung thủy; trong trường hợp ngược lại, sự việc sẽ được coi là nghiêm trọng, bởi vì “phản tự nhiên” hơn. Người đàn bà phải ở lại nội giới.
Khi người đàn bà ở bên ngoài - tức là ở ngoài chu vi của mình, ở trong rừng - thì cả xã hội bị uy hiếp, trước hết là chính bà ta. Tình huống đó thường được gợi lên trong các huyền thoại. Mối hiểm nguy của người đàn bà ở bên ngoài có tính chất hoàn toàn lý thuyết, bởi vì trong cuộc sống thường ngày ít khi xảy ra trường hợp đó - nếu không phải là trong các hiện tượng bị ma ám, thường gặp ở đàn ông hơn là ở đàn bà; nhưng nó được tưởng tượng như là để “thử nghiệm” một sự đảo ngược ở hai tầng: một mặt người đàn bà được nhìn thấy ở bên ngoài, đấy là cô gái-làng lạc trong rừng, mặt khác là quan niệm về một kiểu người đàn bà khác, người con gái-rừng trong môi trường tự nhiên của cô ta. Rất nhiều truyện kể, ở nhiều tộc người, minh họa hai loại tình huống “lý thuyết” đó. Sau đây là một ví dụ:
Một người đàn bà sai hai đứa con gái của mình ra rẫy. Cô em và cô chị, Cô và Cô kia, họ nấu cơm, bây giờ họ hát trong chòi rẫy. Một anh chàng đến gần, mịệng huýt sáo. Các cô gái mời anh ta lên chòi. Cô kia chải tóc cho anh ta; chiếc lược sẩy tay, lọt qua kẽ sàn, rơi xuống đất; cô bảo cô em xuống lượm. Nhưng cô em trông thấy trên sống lưng của người khách có những cái răng; vừa đi xuống cô ta vừa gọi chị: “Coi chừng răng trên lưng!” Nhưng chậm mất rồi, người đàn ông kia hóa ra là một con hổ, nó ăn thịt Cô kia; Cô chạy trốn vào rừng sâu.
Cô gặp một cặp vợ chồng người-hổ già. “Xin đừng ăn thịt tôi!”. Hai người già vuốt ve Cô. “Ôi, tôi nhột quá!”. Cô đi theo họ và ở cùng họ.
- Cô bé, ở nhà ngoan nhé!
- Các bác đi đâu?
- Chúng ta đi một vòng ngoài rừng. Sẽ vắng nhà lâu đấy. Nấu cơm đủ mà ăn, làm thịt gà nếu con muốn.
Hai người già ra đi. Vừa ra xa nhà, họ rùng mình và trở lại thành hổ. Ở nhà, Cô nấu cơm nếp. Từ xa, hai người già nghe mùi, tưởng là cô bé đã chết, họ trở lại nhà dưới dạng người, và bằng lòng thấy Cô còn sống. Cô xin mọi thứ Cô có thể ăn, mà quên nhắc đến lợn. Hai người già lại ra đi, dưới dạng hổ.
Trong khi họ đi vắng, Chàng, một người trai trẻ, đi qua đó; Chàng trông thấy ngôi nhà trong rừng.
- Ai ở đây vậy?
- Đừng có lại gần, đây không phải là nhà của con người đâu.
Chàng cứ đi vào, đùa vui với cô gái; Cô nấu cho Chàng một con lợn. Từ xa hai người già bắt mùi, tưởng có người khách đến bắt mất cô gái; họ trở về. Cô giấu người bạn của mình.
- Có mùi thịt người ở đây!
- Không đâu, đó là con có kinh đấy.
Hai người già tìm, phát hiện ra Chàng, họ ăn thịt Chàng; nhưng quả tim Chàng vọt ra được, nó trốn vào nếp váy Cô. Hai người già lại ra đi. Cô lại làm ra một Chàng mới từ trái tim nọ.
- Phöi yang! Hai lá trên cây sung, ba lá trên cây đa, hãy cho Chàng sống lại như trước!
- Ôi chắc là tôi đã ngủ...
- Chàng không ngủ đâu, hai người già đã ăn thịt Chàng đấy! Cô chuẩn bị cho hai người cùng trốn, bảo Chàng hãy đi tìm con voi. Chàng tìm đến voi, nó lấy ngà đâm Chàng chết. Cô lại làm ra một Chàng mới, cho Chàng tóc của Cô để làm bùa; vậy là voi chịu nghe theo Chàng. Chàng dẫn voi về đến nhà. Họ chất tất cả đồ đạc của hai người già lên bành voi và bỏ trốn. Một con gà của những người già gáy lên; hai người già nghe thấy, họ đuổi theo voi.
- Hãy ném cái lược đi!
Chàng ném cái lược, nó biến thành lùm tre gai dày đặc. Hai người già mất dấu. Con gà lại gáy; hai người già lại đuổi theo gần.
- Hãy ném hòn đá mài đi!
Hòn đá mài trở thành núi; hai người già không thể vượt qua. Chàng và Cô được cứu thoát (Hj. 34b).
Câu chuyện này tôi được nghe một cô gái rất trẻ kể; căn cứ vào vẻ ngây ngô và những kiểu rút ngắn của nó, có thể nhận ra đây là một mớ trộn lẫn hổ lốn nhiều huyền thoại mà vả chăng ta cũng từng biết; chỉ nguyên như vậy, nó cũng đã cho thấy những gì ý nghĩ con người gắn lại và trộn lẫn vào nhau trên cái nền của ký ức lộn xộn về truyền thống. Dẫu còn phải phân tích nó trên một tổng hợp các văn bản, cái cốt lõi của vấn đề là “cuộc thử thách trong rừng” đã được đặt ra ở đây: sống trong rừng không chỉ là một mối hiểm nguy đối với người con gái bị lạc, mà còn là, và chủ yếu là hiểm nguy đối với người đàn ông - chính anh ta và chỉ anh ta bị chết; chính cô ta cứu anh, cứ như thế giới hoang dã của rừng đã trở thành môi trường tự nhiên mới của cô. Cô thoát khỏi bọn cọp và chế ngự cả voi, luôn luôn làm chủ tình thế. Hoàn toàn ngược lại với những gì ta có thể chờ đợi ở người đàn bà vốn chỉ là người chủ ở làng và không được ở bên ngoài. Mơ tưởng, trong trò chơi của nó, đã biến “người đàn bà nội tướng” thành người đàn bà-nội tâm của giấc mơ nó hoán đổi và tôn vinh nàng. Ta sẽ gặp lại sự nhị hóa này trong các huyền thoại về người đi săn, phải nhốt người vợ của mình trong nhà để có thể tìm được con thú săn-đàn bà ở chốn ngoài kia - cái sống thực và cái mơ tưởng, cái yên bình (nội giới) và cái bất trắc (ngoại giới).