Chương 3 Cô gái lạc, mang thai trong rừng
“Rừng của bọn người mọi rợ và của thú dữ” - các dân tộc láng giềng vẫn hình dung như vậy về vùng đất nội địa này, mà họ cũng chẳng mạo hiểm đi vào. Có lẽ chính những người bản địa cũng góp thêm phần vào cái nhìn u tối đó để bảo vệ sự độc lập của mình; dầu sao thì trong tưởng tượng của họ, rừng cũng nguy hiểm vì nó rất bí hiểm, tuy kỳ thực rừng không quá thù nghịch như người ta nói: hàng trăm nghìn con người từ xưa vẫn sống nhờ vào nguồn tài nguyên của nó - và họ biết rõ điều đó; song nếu như cái thường ngày vẫn xen kẽ với cái huyền thoại, thì cái này chẳng vì thế mà giải thích được cái kia.
“Một xứ sở của những người đàn bà ở trong rừng”, phải hiểu nói như vậy là nói rằng rừng là khung cảnh của xứ sở này, chứ không có nghĩa là ở đây người đàn bà sống trong rừng... trừ phi là trong cõi mơ tưởng. Sau đây là một vài ví dụ, trước hết là lấy từ vùng Sre, một tộc người Nam Á sống khá xa về phía nam của người Giarai; rừng trên vùng cao ở đây rậm hơn và gần làng hơn là ở vùng Giarai. Một cộng đồng văn hóa - chứ chưa nói đến muông thú và thảo mộc, rất gần gũi với Giarai - cho phép chúng ta gắn các huyền thoại của họ lại gần nhau, soi sáng cho nhau khi ta xét chúng trong một cái nhìn chung.
Khởi đầu là việc đi hái một loại lá dại gọi là biap pu (Gnetum sp). Tất cả các cô gái trong làng đều vui vẻ kéo nhau vào rừng. Chỉ có một cô gái còn rất trẻ ở lại nhà; bà cô không cho cô đi. Lợi dụng bà cô đi ngoài, cô gái thó một ít gạo và chạy theo các bạn đi hái lá. Cô chẳng thấy họ đâu cả. Cô bị lạc. Cô ngồi trên một tảng đá, chờ, vừa nhai trầu. Một con hổ xuất hiện, nó liếm lấy nước trầu đỏ của cô nhổ ra. - “Hổ ơi, hãy lấy ta đi, hãy lo cho ta!”. Cô ngồi lên lưng hổ, nó mang cô về chỗ nó, ở đó, cô dùng bữa; khi đã ăn no, cô giã gạo. Hổ bảo cô mang trầu đến cho nó; cô nhầm chum, cả cánh tay cô lúc rút ra phủ đầy bụi vàng; cô phủi mãi, mà cánh tay vẫn vàng rực [cảnh này đúng hệt như trong Hj. 16, nhân vật ở đây là một chàng trai trẻ, Drit, mà ta sẽ gặp lại]. “Em có thích vàng đó không? - Em thích lắm! - Vậy thì em cứ ở đó, ta sẽ đi mời các bạn đến uống rượu cùng chúng ta” [có nghĩa là làm đám cưới]. Trong khi hổ đi vắng, cô gái nghe có tiếng bên dưới nhà sàn: “Hãy trốn đi! Nó sẽ ăn thịt cô đấy! Trốn đi!”
Cô gái chạy trốn, trở lại chỗ tảng đá cô đã ngồi trước đó. Có một con lợn rừng đến uống nước. - “Ôi lợn rừng, hãy lấy ta đi!” Lợn rừng chê cô, nó bỏ đi. Lại đến một con nai. - “Nai ơi, hãy lấy ta đi! - Em muốn làm vợ ta à? - Hẳn rồi!”Nai mang cô ta về và giấu cô, thật là may, vì hổ đến tìm cô. Rồi, để che chở cho cô, Nai mang cô ra một tảng đá ngoài biển. Một người con trai của Mặt trời nhìn thấy cô, anh biến thành chim đại bàng, bay xuống tìm cô, mang cô về bên Mặt trời; họ cưới nhau (Hs. 60).
Lá cây Gnetum ở trong rừng rậm; đàn bà đi vào đó bao giờ cũng phải đi từng tốp, và không vào quá sâu. Cô gái này đã đi một mình và đi quá xa. Hẳn cô phải khiếp sợ lắm; vậy mà cô chẳng hề, cô thản nhiên ngồi nhai trầu và chờ. Cô chờ gì vậy? Một tấm chồng “rừng” - “Hãy lấy em đi!” - Cô gái đặc biệt này đã chế ngự thử thách của rừng, cô được tôn làm dâu của bà Mặt trời, sau một cuộc du hành đưa cô ra đến biển - hành trình kinh điển của các nhân vật anh hùng ca. Người đàn bà “ở” trong rừng không còn thuộc loại bình thường nữa.
Người đàn ông từ xứ Chàm trở về. Về đến nhà, anh ta nghe tin người vợ đã thất tiết với anh. Anh bảo vợ cùng anh đi vào rừng tìm dây buộc. Vào đến nơi rừng sâu nhất, anh dừng lại, anh tóm lấy vợ, dùng những sợi dây to tướng, cột vợ vào một cái cây. Anh nhai trầu, nhổ vào váy vợ, rồi lột váy vợ ra - anh muốn làm cho người ta tưởng đấy là máu; anh đánh cùn cái câu liêm của anh vào một tảng đá. Anh về nhà, đưa cái câu liêm và cái váy đẫm máu ra: “Tôi đã đánh nhau với hổ, nhưng vợ tôi đã bị mất mạng rồi!” Bố mẹ vợ anh khóc và đốt cháy hết đồ đạc của con gái.
Bị cột trần truồng vào gốc cây, người vợ thấy một con nai; nai thương hại chị, bắt đầu cởi trói cho chị. Rồi đến một con lợn rừng, rồi một con hổ cũng thương hại chị. Cuối cùng, một con voi tháo nốt chỗ dây còn lại và đưa chị về nhà chị. Bà mẹ già của chị thấy chị trở về trên lưng voi [voi ở đây là thú hoang; khác với người Giarai, người Sre không thuần hóa voi], bà sợ; chị con gái trấn tĩnh bà: đây là voi cô thuê; người ta cho voi nào chuối nào mía, rồi voi trở về rừng núi.
Chị con gái dần dần hồi phục; người chồng, đi vắng, bây giờ trở về, say mèm. Anh ta vẫn kể chuyện anh ta đánh nhau với hổ, nhưng vợ anh đã mất mạng; chỉ có cậu em trai anh ta tin lời anh. Lúc đó, chị vợ anh mới ra mặt. Anh chồng chết khiếp và bị trừng phạt phải làm nô lệ. Mấy tháng sau, chị vợ thương hại, trở lại sống cùng chồng (Hs. 91).
Đề tài có vẻ khác đi, nhất là phần mở đầu và đoạn cuối: người vợ bị người chồng ghen bỏ lại trong rừng, chị trở về để chế ngự chồng. Nhưng phần cốt yếu của câu chuyện là đoạn người đàn bà ở trong rừng; chị gặp nai - lợn rừng - hổ (thứ tự ngược lại với huyền thoại trước; nhưng lần này, thứ tự hiểm nguy thì tăng dần lên); không chỉ là chị không hề sợ chúng, mà chị bắt chúng lần lượt giải thoát cho mình. Đỉnh cao là cái chuỗi đó kết thúc bằng con voi (thông thường mạnh hơn hổ, trong các cuộc đấu tay đôi), voi ngoan ngoãn đưa chị về nhà. Người đàn bà trẻ đã chế ngự rừng và muông thú của rừng - trong khi người chồng chị ta chỉ giả vờ làm vậy thôi, chị có thể trở về để chế ngự trong chính nhà mình. Đỉnh điểm câu chuyện ở đây không phải là tấn bi kịch vợ chồng, mà là tình cảnh của người đàn bà lạc trong rừng, ở đó chị tỏ ra là người chủ. Nếu chị ta là “văn hóa”, trong ý nghĩa là chính chị đã mang các kỹ thuật đến cho đàn ông, thì ở chị là “tự nhiên”, theo nghĩa là muông thú và thảo mộc không hề khiến chị bối rối, mà còn phục vụ chị.
Cuộc du ngoạn này sang xứ sở của người Sre đã đưa chúng ta đi quá xa người Giarai, nhất là xa huyền thoại Hj. 34b. Đối với người Pháp, thì Sre và Giarai có thể trông gần nhau như hai ngôi sao mà cái nhìn của chúng ta kéo lại trong cùng một chùm sao, trong khi kỳ thực chúng vô cùng cách xa nhau - các nền văn minh khác cũng thường làm cái việc cắt ra và gộp lại như thế; trong thực tế, người Sre và người Giarai nói những ngôn ngữ (chứ không phải các thổ ngữ) khác nhau; cho đến mãi gần đây họ không hề biết đến sự tồn tại của nhau (công cuộc thực dân hóa và quân sự hóa gần đây đã nhào trộn các tộc người) - ta không vội đoán định về những gì diễn ra ngày xưa và nguồn gốc của họ mà chúng ta chẳng biết được gì. Bây giờ hãy trở lại với xứ sở Giarai và cô gái-làng của họ bi lạc trong rừng.
Hj. 34b (chương 2) có thể chia cắt như sau: nhân vật chính bị mất người chị cả, do hổ vồ (đấy là cách khởi đầu của Hj. 30) - để tránh con dã thú, rất nghịch lý, nàng lại chạy trốn vào rừng (xem Hj. 110) - nàng được bọn hổ tiếp đón; một chàng trai đến; chàng ta bị giết chết, nàng làm cho chàng sống lại; cuối cùng chính nàng điều khiển cuộc chạy trốn đi tìm tự do (tất cả các yếu tố này lại tìm thấy trong Hj. 95). Cái lối lặp lại kiểu này (những chỗ nhắc lại được ghi trong ngoặc đơn) là một hệ quả của lối diễn đạt truyền khẩu và ghi nhớ. Các yếu tố, hay các chủ đề huyền thoại, nằm trong những công thức, hay những nhóm công thức, được ghi nhớ và quảng diễn ra trọn gói; vừa qua giọng nói vừa qua ý nghĩa, chúng móc nối vào với những công thức khác, và câu chuyện được xây dựng nên... Điều đó không có nghĩa là tất cả các huyền thoại đều nói lên một điều giống nhau hay nói chuyện được chăng hay chớ, mà cho thấy những tập họp chung quanh những hình ảnh chủ đạo, chúng kéo theo những hòa âm, mà ta có thể coi là cần thiết, bởi vì tất cả cái tổng thể này diễn lại một phần một hệ thống diễn đạt, gần như là đã được áp đặt về mặt văn hóa. Không nên coi đó là những lối rườm rà, đặc trưng trong thể truyền khẩu; ở đấy, hơn thế nữa, còn có một sự tích tụ thêm ý nghĩa, không chỉ bằng phối âm, mà, thử dùng một lối hình dung khác, nó giống như trong các giấc mơ của chúng ta mà chúng ta không thể phân tích riêng rẽ từng cái, trong khi có thể giải đoán chúng trên một tổng thể những pha lặp lại và những biến thể cho phép nhận ra những hằng số và những điểm mạnh, và đặc biệt những gì tư duy lý trí của chúng ta vẫn che giấu chúng ta.
Càng có nhiều bản văn (đương nhiên phải hiểu biết ngữ cảnh, và nhất là, cung cách của các bản văn đó), chúng ta càng dễ xác định ranh giới và mô tả thế giới mơ tưởng, các hình thức và các ý nghĩa của nó. Đã tích góp được một số lớn các truyện kể (các truyện kể huyền thoại và các chuyện đời, như các bạn sẽ thấy sau đây), tôi không ngần ngại trích dẫn thật nhiều, nhất là các văn bản này, vốn tuyệt vời, chẳng còn cách nào để phổ biến chúng nữa.
Nàng mồ côi. Nàng sống với Mẹ Rú. Cả hai rất nghèo. Hôm đó, Mẹ Rú đi ra rẫy; nàng ở nhà. Các cô gái trong làng rủ nàng cùng đi hái lá chàm. - “Em không muốn đi đâu, em không có gùi! - Thì mang một trong những cái gùi của chúng mình vậy. - Em không có bầu nước... - Nước à, chúng mình có đây!” Vậy là nàng đi hái lá chàm. Đến nơi nàng hỏi mượn một cái gùi để đựng các cành lá hái được; các bạn chế nàng: “Mày tưởng mày là bà hoàng đấy à! Mày cưỡi voi mà đến đây đấy chắc?” Nàng hái những lá to, rồi khâu lại với nhau để làm thành một chiếc rổ. Trong khi đó, các cô gái khác đã hái lá đầy gùi và chuẩn bị đi về. - “Cho em uống nước với! - Chúng tao phải vội về; mày về nhà mày mà uống nước!” Nàng không nói gì nữa và tiếp tục hái lá chàm. Nàng chỉ có một mình. Nàng khát. Có một ít nước đọng trong một hốc cây; nước này bẩn lắm, đầy trứng muỗi và trứng cóc. Mặc kệ, nàng lấy một chiếc lá, cuốn lại làm chén và uống, rồi ra về. Về nhà, nàng phơi lá chàm ra nong, nấu cơm rồi ăn cùng Mẹ Rú. Nàng không rời Mẹ Rú nữa, Mẹ đi đâu nàng cũng đi theo.
Hôm đó, nàng bắt chấy cho Mẹ, Mẹ thiu thiu ngủ; đầu Mẹ đong đưa trên đôi vú nàng. Sữa ứa ra và chảy dài trên vai Mẹ; Mẹ choàng thức dậy, lấy ngón tay thấm vào, liếm thử. Ngọt lịm. - “Cháu có thai à? - Là nước mắt đấy, Mẹ ạ.” [Nàng có thai thật, sinh ra một con cóc; khi muốn, “cậu bé” ấy có thể hiện lên thành người, cậu ta làm nên những điều kỳ diệu và cuối cùng cưới con gái của lãnh chúa] (Hj. 32).
Xét về bên ngoài, đây không phải là một cô gái-làng lạc trong rừng. Cây chàm, được trồng, không ai đi hái trong rừng, mà là ở gần làng. Nữ nhân vật chính, không phải bị lạc trong rừng, rất khác với các cô gái khác trong làng; đấy là một con người ở bên lề, sống với bà “Mẹ Rú” nọ, khiến nàng trở thành đồng dạng với nhân vật Drit (mà chúng ta sẽ gặp lại), họ sống ở giữa làng và rừng. Tuy nhiên, điểm nhấn ở đây là việc hoài thai “hoang”, nếu có thể nói như vậy, của cô gái trẻ sau khi uống nước có trứng cóc. Hơn nữa, cái gốc cây nọ là gốc cây Lagerstroemia , một loại cây lớn trong rừng rậm - và chắc chắn là người ta không hái lá chàm dưới gốc nó. Dẫu khung cảnh câu chuyện có rõ ràng đến đâu đi nữa - các cô gái trẻ trong một đám cây chàm - chính cái từ bé nhỏ trol ( lagerstroemia ) đã để lộ khung cảnh huyền thoại hóa, là chìa khóa của giấc mơ. Nhân đây xin nói qua, khó mà giải thích các huyền thoại nếu không vận đến khoa ngữ văn. Đúng là cô gái đã mang thai trong rừng, tức là trong cái thế giới ở ngoài kia. Và đấy là một tiêu bản của văn học Giarai. Sau đây là một ví dụ khác:
Có hai chị em. Cô chị rủ em đi hái bông vải trong vườn. Hái xong, cô chị ngồi xuống, uống nước, rồi soi thủng đáy trái bầu. Cô em khát, cầm lấy bầu; chẳng còn nước. Cô thấy trong một cái bộng ở gốc cây trol có nước, cô lấy một cái lá, múc lấy nước và uống. Hai chị em đi về nhà. Hôm sau, bà mẹ bảo cô bắt chấy cho bà. Sữa chảy xuống trên vai bà. - “Bé, con đã lỡ ăn nằm với ai thế? một cậu con trai Lào, một người khách lạ? - Ôi mẹ ơi, không có ai đâu; con chỉ đi ra ngoài với bố thôi [lối nói ở đây nước đôi; trong một dị bản, bà mẹ kết tội con đã loạn luân]. Khi đi hái bông vải, con đã uống nước đọng, chỉ có vậy thôi.”
Bị bố mẹ đuổi, cô gái lang thang trong rừng. Cô gặp Mẹ Rú và cháu của Mẹ là Drit đang đi đào củ rừng. Cô xin được ở với họ. Cô kể cho họ nghe chuyện của cô. - “Này cô bé, con có muốn lấy Drit không? Anh ấy không muốn con đâu! Con có thai mà chẳng có chồng.” Cô và Drit yêu nhau, họ cưới nhau. Họ đi vào rừng đào củ. Trời nóng quá, họ ngủ thiếp đi, trong mơ họ nghe thấy: “Đừng giết chết đứa con của cô gái! Nó sẽ làm cho các ngươi giàu có đấy”. Họ thức giấc; cô gái thấy đau đẻ, cô sinh ra một con khỉ cái [đứa con đó về sau sẽ trở thành một cô gái xinh đẹp lấy chồng giàu có] (Hj. 47).
Cũng như câu chuyện trước, rất giống với chuyện này, tôi chỉ dịch đoạn mở đầu, rất thích hợp với chủ đề của chúng ta. Rất nhiều văn bản, ở nhiều tộc người Đông Dương, nhấn mạnh đến trường hợp một người đàn bà thụ thai sau khi uống nước hay ăn một loại quả gì đó; điều đó tất phải khiến ta chú ý. Nếu trong câu chuyện đã kể, chính đứa con (trai hay gái, chẳng có gì quan trọng) khiến thính giả bị hấp dẫn vì những kỳ tích của nó, thì ở đây cái không nói ra (hay cái ít được nói đến) khiến tôi lưu tâm. Theo tôi, hình ảnh người con gái mang thai trong rừng, trong ngữ cảnh xã hội-dân tộc học ở đó người đàn bà muốn (hoặc có thể) làm mọi thứ mà không cần có người đàn ông, dường như là dấu hiệu của một sự thông đồng (nếu không nói là một sự đồng tính 1 ) giữa người đàn bà (trong huyền thoại) và “tự nhiên”, một mối liên hệ gần như là sinh học, đến mức gợi đến hình ảnh loạn luân - như chúng ta sẽ thấy trong trường hợp một người bị ám thấy mình làm tình với em gái hay người họ hàng gái gần gũi của mình. Thậm chí ta có thể tự hỏi, nhất là từ Hj. 47, phải chăng lối biểu hiện cô gái mang thai trong rừng (hay “chửa hoang”) là một cách để che giấu một sản phẩm loạn luân, cũng một thể như lối điều chỉnh-bằng-ngụy-trang nơi những ảo ảnh trong các giấc mơ của chúng ta, nhất là khi tội loạn luân, bị coi là kinh tởm một cách chính thức trong xã hội truyền thống, thì lại được tôn vinh trong huyền thoại. Trong phân tích chúng ta đang thực hiện đây, chính cái mẫu “che giấu” này là chỗ ta phải cố vén mở cho ra.
1 Nguyên văn: connaturalité. J. Dournes ghép tiền tố con với nature, có thể dịch là đồng tính, đồng chất, đồng bản chất - ND.
Bây giờ, khi ta đã biết một con cóc cũng có thể là một anh chàng đẹp trai, và một con khỉ cái có thể là một cô gái tuyệt trần, chúng ta có thể nghe một truyện kể kỳ lạ, sẽ chẳng có nghĩa gì cả nếu đặt ngoài cái văn mạch huyền thoại vừa nói.
Chú thích về các tên riêng: Trong văn bản sau đây, cũng như trong các văn bản trước, các tên nữ nhân vật chính, em gái cô, em trai cô, không đích xác có ý nghĩa gì cả; đấy là những cặp tên đặt vào đâu cũng được, Hlui’ với Hbia cho con gái, Dam Phu với Chöhlir cho con trai; hầu như cùng những tên nhân vật ấy cứ trở đi trở lại trong các truyện kể này. Dịch chúng ra bằng một tên riêng sẽ là một thứ “dịch-quá”. Đây là những hình mẫu người, không được xác định một cách cá thể: Nàng, Chàng, cậu em... dịch như vậy sẽ có thể cho thấy rõ hơn là từ truyện này sang truyện khác vẫn chính là một tính cách huyền thoại ấy. Ngược lại. Mẹ Rú (dịch tên ya’ pum ) và Drit (“thằng Côi”) là các tên có ý nghĩa của những nhân vật được điển hình hóa một cách cá thể; cách dịch cần phải làm nổi bật điều đó lên. Còn tất cả các cô gái-làng, một phía, và phần lớn các cô gái-rừng phía khác, là phóng chiếu, trên khung cảnh của huyền thoại, của một điển hình hư cấu (“cô gái-làng”, “cô gái-rừng”). Nhưng chỉ có một Drit, một Mẹ Rú, họ không hề được ghép đôi với ai khác thành cặp cả.
Người chồng ra đi về phía biển, sau khi đã căn dặn vợ không được ra khỏi nhà và giao cho cậu em trai mình phải coi chừng chị dâu.
Hôm đó, dân làng đi vào rừng sâu để hái hoa [nyèc, người ta bảo tôi đấy là một loại hoa ăn được, nay đã biến mất]. Được dân làng rủ, mãi sau nàng mới ra đi, nên không theo kịp họ. Trong rừng, nàng nhìn thấy những bông hoa rất đẹp trên một thân cây cao. “Cô gái nào hái được hoa kia cho ta, ta sẽ kết làm bạn, chàng trai nào hái được hoa kia cho ta, ta lấy làm chồng!” Ngay lập tức Khỉ xuất hiện và hỏi: “Cô vừa nói gì đó? - Chẳng nói gì cả! - Có đấy, ta nghe rồi mà. - À, ta nói cô gái hái được hoa kia cho ta, ta sẽ kết làm bạn. - Còn câu khác nữa.- Chàng trai nào hái được hoa kia cho ta, ta sẽ lấy làm chồng. - Vậy thì hãy lấy ta! - Thế thì hái cái hoa kia cho ta đi! Hãy cầm hoa bên tay trái, leo bằng tay phải!” Khỉ mang hoa xuống cho Nàng.
Gần như ngày nào Nàng cũng tới dưới gốc cây nọ. Trông thấy Nàng, Khỉ hát: “Ta hái hoa cho Nàng, ta hái quả cho Nàng!”. Cậu em chồng, lén đi theo Nàng, khám phá ra cái vụ nọ; cậu thấy Nàng mang cơm và thịt gà ra cho Khỉ. Thịt gà, Nàng cho Khỉ, còn Nàng chỉ ăn xương. Cậu ta bảo Nàng dệt cho cậu ta một chiếc khố. Trong khi đó, cậu đóng một chiếc váy, hái trái bầu độn vào ngực giả làm vú, rồi mang cơm và thịt gà vào rừng cho Khỉ, Khỉ vẫn quen thói hát vang như mọi ngày. “Chúng mình làm tình đi, Khỉ rủ rê. - Anh không thấy em đã mang bầu sao? - Thế à! Thế thì chúng mình bắt chấy cho nhau đi!” Cậu lấy vừng rắc lên đầu Khỉ, nhặt lấy các hạt vừng ấy mà cắn; rồi cậu rút gươm ra, định chém nó. Khỉ thoát được. Cậu ta bèn đặt bẫy, dùng chuối làm mồi; Khi sa bẫy, bị giết chết.
Nàng đi tìm Khỉ, gọi mãi. Cậu em chồng chỉ cho Nàng thấy cái xác Khỉ, rồi đốt một đống lửa lớn, ném cái xác vào đó. Nàng nhảy vào lửa. Cậu giữ Nàng lại, Nàng trở về nhà và nằm vùi. Ở nơi xa, anh chồng thấy chiếc vòng của mình lỏng ra, cứ như nó bỗng trở nên rộng quá. “Chắc là có ai ở nhà bị ốm rồi đây...” Anh vội trở về, hỏi vợ có chuyện gì vậy. “Cậu em trai anh bị điên, nó tấn công em!” Anh ta rút gươm ra, đuổi theo người em, chỉ kịp chém đứt cái đuôi tóc của em. Nhiều ngày sau, anh chồng không còn gì ăn; cậu em rán thịt cho anh ăn. “Mùi thơm ghê! - Anh nếm thử đi, thịt chồn hương đó - Thịt chồn ngon quá! - Không phải thịt chồn hương đâu, thịt Khỉ đấy, nó đã làm tình với vợ anh, em không kìm được, em đã giết chết nó”. Điên giận, anh chồng đánh vợ; Nàng chạy vào trong rừng, anh ta đuổi theo, chạy như điên. Mỗi người chạy một ngả; cũng có lúc họ gặp nhau, nhưng họ không nhận ra nhau. Nàng biến mất tăm.
Anh ta gặp một con nai cái, xin cưới nó. “Làm sao cưới một con thú được? - Mặc kệ! Ta cứ cưới ngươi.” Anh ta dắt nai cái về nhà. Người em giết chết nai cái. Anh chồng lại chạy trốn vào rừng, gặp một con cóc, muốn cưới nó làm vợ, đưa nó về nhà; cậu em giết cóc và ăn thịt luôn. “Em không muốn làm em rể một con cóc!” Anh chồng buồn tình, lại chạy trốn vào rừng, gặp một con cua cái, xin cưới nó; họ sống chung cùng nhau. Một thời gian sau, cua kẹp bộ hạ của anh chàng; anh ta lăn ra chết (Hj. 77).
Từ tình yêu điên dại đối với một con “thú” cho đến hình ảnh cuối cùng người đàn bà hoạn chồng và bữa ăn “thịt người”, thật là một đề tài hấp dẫn cho một “nhà phân tâm học các chuyện thần tiên” (kiểu B. Bettelheim)! Dẫu các hoang tưởng của loài người có đại đồng đến bao nhiêu, tôi vẫn trụ lại trong khung cảnh rừng núi Đông Dương và trong văn cảnh huyền thoại.
Trước hết tôi muốn lưu ý rằng, trong bản ghi lại huyền thoại này do một người Giarai đánh máy, từ Kra, “khỉ”, tự nhiên và ngay từ đầu, đã được đánh chữ hoa. Đối với thính giả, Kra không phải là một con khỉ, mà là Khỉ, nhân vật nước đôi trong rừng, cũng như Nai cái, Cóc và Cua về sau (theo thứ tự nhỏ dần) - và xin nhắc lại Khỉ trong Hj. 47. Rõ ràng đây là chuyện “tình yêu với cõi ngoài kia” chứ không phải chuyện thú dâm.
Nữ nhân vật chính vẫn là một cô gái-làng, “lạc” trong rừng - lạc theo nghĩa đạo đức - xã hội mà cậu em chồng có thể gán cho Nàng, lạ là cậu em lại đóng vai kiểm duyệt xã hội, vai trò thông thường được gán cho người anh, trong khi (trong các huyền thoại) người em thường đóng vai phản bác; ở con gái (trong đời thường), thì các vai trò ấy lại đảo ngược lại, cô em, vì là người thừa kế chính tài sản và truyền thống, nên không rời bỏ ngôi nhà bố mẹ, các cô chị thường tách ra hộ mới, nhưng vẫn theo chế độ phụ cư (ở nhà vợ). Các kiểu hành xử ấy có thể tóm tắt như sau:
Trong xã hội, người con trai không đáng kể. Trong huyền thoại, người con gái lại ở ngoài kia:
Khi cô gái-làng phản bác, cô không xa cô gái-rừng; đấy có thể là trường hợp nữ nhân vật ở Hj. 77 . Trong truyện kể này, từ hüt , “điên” (xem quyển III), được dùng trong hai trường hợp: khi nữ nhân vật chính tố cáo người em chồng của mình và khi người chồng mất trí chạy trốn vào rừng; từ đó không bao giờ được dùng để nói về Nàng, và, tất nhiên, Nàng được cảm tình của người nghe. Cậu em, “người canh giữ” chị dâu không phải là một ông Joseph đối với vợ ngài Putiphar; khi một người đàn ông nhờ một người đàn bà dệt khố cho mình ấy là họ đã cưới nhau hoặc họ là nhân tình của nhau - và đấy chính là điều không nói ra cần phải nghiên cứu. Rốt cục, cậu em ấy chẳng phải đức độ như cậu ta làm ra vẻ; vả chăng câu chuyện không quan tâm đến cậu ấy, không nhắc đến cậu ấy nữa.
Chồng Nàng đi vắng, anh ta nhốt vợ trong nhà (phương cách cổ điển của người đi săn, xem quyển II); cậu em chồng muốn được Nàng yêu, hay ít ra chiếm đoạt Nàng (công thức của huyền thoại Giarai). Nghe theo tiếng gọi của ngoài kia và của rừng, thì cũng là một cả thôi, Nàng phải lòng một hữu thể ảo, nhưng đối với Nàng lại là thực - trạng thái khiến Nàng gần với những người “bị ám” đem lòng yêu những cô gái-rừng (quyển III), ở đây giới tính bị đảo ngược. Nàng say đắm đến mức lao vào lửa hay đâm vào rừng sâu; truyện không nói Nàng chết trong rừng, trong khi ta lại chứng kiến cái chết của người chồng, anh ta không chịu nổi thử thách. Một lần nữa, người đàn bà trong rừng lại thắng. Có thể Nàng đã trở thành một trong những cô gái-rừng mà chúng ta sẽ còn gặp lại.