← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ NHÌ: DANH NHÂN LỊCH-SỬ và-NHÂN-VẬT CẬN-ĐẠI

DANH-NHÂN LỊCH-SỬ

CHƯỞNG-THỦY-DINH QUẬN-CÔNG TỐNG-PHƯỚC-HÒA SA CƠ BỊ TÂY SƠN BẮT TAI BA-VÁT, TỰ-VẬN ĐỂ BẢO TOÀN DANH TIẾT

Anh em đều vinh hiển, ngàn thu hương hỏa sùng phụng, nơi đền đài miếu mạo Vĩnh-Long, Sa-Đéc, thật chẳng ai bằng gia đình Tống-Quốc-Công. Dân chúng Vĩnh-Long không ai là chẳng biết miếu thờ Tống-Quốc-Công (Phước-Hiệp), còn tại Sa-Đéc, thì ngôi đình thờ Tống-Quận-Cộng (Phước-Hòa) cũng nguy nga tráng lệ không kém. (Trước kia có đền thờ riêng, sau này Chánh phủ Pháp dỡ đi để cất bót cảnh sát ở đó, nên nay Tống-Quận-Công thờ chung với đình Thần làng Vĩnh Phước).

Tống-Phước-Hòa là em ruột Hữu-Phủ Quốc-Công Tống-Phước-Hiệp(1), đã từng vào sanh ra tử theo phò Chúa Định-Vương Nguyễn-Phúc-Thuần lúc chống Tây-Sơn. Xuất thân là Cai-cơ trong quân ngũ của anh tại Long-Hồ-dinh, nhưng ông tuyệt nhiên không cậy oai thế của anh mình mà tự kiêu tự mãn. Lúc nào ông cũng nhún nhường, tháo vát mọi trọng trách một cách mẫn cán, liêm-chính. Trong quân cũng như ngoài dân chúng, người người đều mến chuộng tài đức của ông.

Mùa xuân năm Bính-Thân (1776), Tây-Sơn kéo vào hạ thành Gia-Định. Ông vâng lịnh anh đi cứu viện, một lòng quyết tử, làm trọn nhiệm vụ, đánh Tây-Sơn khôi phục đất đai đã mất. Do công lao ấy, ông được thăng Chưởng-Thủy-Dinh, tước Quận-Công. Rồi cùng anh đóng quân tại Long-Hồ.

Năm sau, Đinh-Dậu (1777), Tây-Sơn lại kéo vào đánh chiếm Gia-Định. Bấy giờ ông đang cùng Tống-Phước-Thiêm trấn giữ Long-Hồ, lập tức điều động binh-sĩ ứng chiến.

Tây-Sơn dũng mãnh tiến chiếm nhiều nơi trọng yếu. Chúa Nguyễn và các quan hầu cận liệu thế không xong, lui về Ba-Vát (Bến-Tre) cố thủ. Ông hay tin, lòng càng hăm-hở quyết tử chiến, một mình đem binh chống cự. Dũng-cảm chiến đấu, binh-sĩ dưới sự chỉ huy của ông thảy đều hăng hái tranh phong cùng địch, thắng luôn nhiều trận.

Tây-Sơn bèn dùng mưu, một mặt cầm cự ngăn ông tại Ba-Vát, một mặt đổ binh đánh tập hậu, bắt sống được Tân-Chánh-Vương (tức Đông-Cung Nguyễn-Phúc-Dương) giải về Gia-Định hành quyết. Ông căm hờn than dài: Chúa nhục thì kẻ làm tôi nên liều chết! Ông càng thúc quân đánh mạnh hơn lên. Nhưng dầu anh dũng đến thế nào, sức côi thế yếu, ông cũng đành ngậm hận mà thôi. Liệu bề khó thắng nổi trong tình thế nguy nan, ông liền đánh một trận cuối cùng cực kỳ dữ-dội, rồi trở gươm tự sát nơi chiến trường Ba-Vát.

Chẳng những các chiến hữu của ông đều cảm phục thương tiếc, mà tất cả tướng sĩ Tây-Sơn cũng nhiệt lòng khen ngợi ý chí trung liệt của ông.

Về sau, gồm thu non sông về một mối, vua Gia-Long nhớ công ơn, truy phong ông chức Chưởng-Dinh-Quận-Công. Năm Canh-Ngọ 1810, nhà vua lại cho thờ ông tại Miếu-Trung-Tiết Công Thần ở Huế.

Nay tại làng Vĩnh-Phước trong Châu-Thành Sa-Đéc, hãy còn ngôi đình thờ ông, xây cất cực kỳ tráng lệ. Tục gọi "Miếu Quan Thượng-Đẳng", cũng là Đình Thần làng Vĩnh-Phước như kể trên.

Ông Nguyễn-Đăng-Khoa có thơ vịnh:

Quốc-Công trọng tước dấy lòng trung,

Tay đỡ thành Nam chống thế công.

Đất trổ anh tài trong nước lửa,

Trời theo gương Tống chói non sông.

Oai danh thơm nực ngoài ba cõi,

Oanh liệt còn vang thấu cửu trùng.

Công đức đã đầy trong võ-trụ,

Hiền thần chẳng nhọc, Đế-vương phong.

KINH-MÔN QUẬN-CÔNG NGUYỄN-VĂN-NHƠN (1753 - 1822)

Nguyễn-Văn-Nhơn, người huyện Vĩnh-An (vùng Sa-Đéc), thuộc tỉnh An-Giang xưa. Ông là con của Trần-Quốc tướng quân Minh-Đức Hầu Nguyễn-Quang và Thị-Áo.

Xuất thân, ông ứng nghĩa đầu quân, theo Tống-Phước-Hiệp và Nguyễn-Khoa-Thuyên, làm chức Đội-Trưởng, khi ấy mới 22 tuổi. Sau đó, theo Tống-Phước-Hòa đi đóng giữ ở nhiều nơi, được thăng Cai-Đội.

Đinh-Dậu 1777, mùa đông, Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh khởi binh tại huyện Long-Xuyên (Cà-Mau), ông theo Dương-Công-Trừng đóng giữ ở Sa-Đéc. Rồi được thăng Cai-Cơ trong năm Mậu-Tuất 1778.

Nhâm-Dần 1872, ông bị Tây-Sơn bắt tại Thủ-Thiêm. Mãi đến 3 năm sau ông mới trốn được, lại tìm sang Xiêm theo Nguyễn-Vương đang nấu mình nơi đó. Dọc đường, gặp Nguyễn-Trần-Thái từ Xiêm trở về, ông cùng Nguyễn-Trần-Thái khởi binh chiếm giữ huyện Long-Xuyên (Cà-Mau) rồi thẳng qua Vọng-Các yết kiến Nguyễn-Vương lấy lại được Gia-Định, công lao rất dày.

Năm Ất-Mão 1795, làm Lưu-Thủ Trấn-Biên (Biên-Hòa). Lúc nhỏ gặp buổi loạn lạc nên ông không được học hành. Bấy giờ tuổi trên 40, ông mới gia công đọc sách.

Năm Đinh-Tị 1797, về giữ Gia-Định, lãnh việc vận lương và kiêm việc Hộ-bộ.

Năm Nhâm-Tuất 1802, Nguyễn-Vương vừa lên ngôi tức vua Gia-Long, phong ông làm Chưởng-Chấn Võ-Quân tước Nhơn-Quận-Công. Cuối năm ấy, bình xong Bắc-Hà, ông dâng sớ điều trần 14 khoản:

1 - Định lại các thứ thuế

2 - Cầu người hiền

3 - Lập hương học

4 - Cử người hiếu liêm

5 - Cải cách phong tục

6 - Định phép khoa cử

7 - Sửa đổi hình phạt

8 - Định sắc phục kẻ trên người dưới

9 - Đặc phép cho nghiêm việc quan lại

10 - Phát chẩn cho dân nghèo

11 - Tiêu biểu người trinh-tiết

12 - Thẩm định phép tắc

13 - Lập đồn trại ở các nơi

14 - Bỏ những thuế tạp

Lại xin đặt thêm một đạo quân Trấp-võ và Tứ-dinh để tăng cường quân-lực. Và điều trần việc học ở Gia-Định, xin định nội qui học đường, mỗi xã lựa một người làm trưởng giáo. Lời sớ trần tình:

"Trị nước cốt chinh phục được lòng dân: hành chính không gì bằng giáo dục. Trước kia vận Trời biết loạn, đất Gia-Định phải bỏ việc học hành. Nay non sông mới xây dựng lại, bờ cõi thanh bình thì chính lúc phải nên dạy cho dân học.

"Vậy xin đặt ra phép dạy, mỗi làng phải chọn lấy một người có đức hạnh, văn học, tha hẳn cho quân dịch "để cho dạy dỗ con em trong làng".

"Cấm hẳn không cho rượu chè, cờ bạc, hát xướng, hễ phạm các điều ấy, các quan sở tại phải trừng trị. Như vậy thì rồi tất sẽ gây nên được nhiều nhân tài ra giúp nước và cũng không phụ lòng giáo hóa của Thánh-Thượng."

Vua Gia-Long khen phải, tỏ lòng ưu ái ông hơn, mọi việc trong Nam tin cậy nơi ông mà ủy thác cho.

Đến năm Mậu-Thìn 1808, ông nghiễm-nhiên là Tổng-Trấn Gia-Định, kiêm lãnh hai trấn Bình-Thuận và Hà-Tiên, uy thế lẫy lừng. Ông chính là vị Tổng-Trấn đầu tiên ở miền Nam này.

Sang đời Minh-Mạng, năm Tân-Tị 1821, ông về kinh, sung chức Tổng-Tài ở Quốc-Sử Quán. Năm sau, Nhâm-Ngọ 1822, mùa xuân, ông mất, thọ 70 tuổi. Được truy tặng Dục-Vận-Đồng-Đức Công-Thần, đặt tiến Trụ-Quốc Thượng Tướng-Quân, Thượng-Trụ-Quốc, Thái-Bảo Quận-Công.

Khi ông qua đời, vua Minh-Mạng truyền chỉ bải chầu 3 ngày sai các quan ra làm lễ điếu. Nhà vua cũng bổn thân ngự ra dinh ông ban rượu tế, trước khi đưa linh cửu về Gia-Định. Lại ban cho ông một đôi liểng điếu.

"Vọng-Các hiệu tùng long, trực bá đau tầm huyền nhật nguyệt.

Xuân thành bi khử hạc, do lưu Chính khí tác sơn-hà."

Nghĩa:

"Theo vua nơi Vọng-Các, lòng son treo rạng cùng trời đất,

Bỏ mình chốn Phú-Xuân, khí chính còn lưu với núi sông."

Nhà vua lại cấp 100 mẫu ruộng ở xã Thanh-Thủy, Phú-Vinh tại Huế, cho con cháu làm tự điền.

Năm Giáp-Thân 1824, được vua cho thờ vào Thế-Miếu và Miếu Trung-Hưng Công-Thần.

Tân-Mão 1831, truy tặng là Tráng-Võ Tướng-Quân, Hửu-Quân Đô-Thống-Phủ, tước Kinh-Môn Quận-Công, thụy là Mục-Hiến.

Đốc Phủ-Sứ Nguyễn-Đăng-Khoa đề vịnh:

Cần-Vương giữ vẹn tiết trung thần,

Lửa đỏ đành đem gởi chút thân.

Gia-Định cao thăng ngôi Tổng-Trấn,

Nam-kỳ thống lãnh chức trung quân.

Kỳ nam đáng đứng trong trời đất,

Liệt sĩ hầu lên nẻo thánh thần.

Nuốt đạn vùa tên không kể mạng,

Non sông âu cũng nhứt công ân.

Kinh-Môn Quận-Công Nguyễn-Văn-Nhơn có ba người con trai là: Nguyễn-Văn-Đức, Nguyễn-Văn-Thiện và Nguyễn-Văn-Giai và sáu người con gái: Nguyễn-Thị-Nghi, Nguyễn-Thị-Huê, Nguyễn-Thị-Nhâm, Nguyễn-Thị-Thức, Nguyễn-Thị-Đáng và Nguyễn-Thị-Đơn.

Nội tổ của ông là Nguyễn-Văn-Trân, cũng được nhà vua truy tặng tước là Cương-Nghị-Hầu, thân-phụ ông là Nguyễn-Văn-Quang, truy tặng tước là Minh-Đức-Hầu.

ÔNG NGUYỄN-VĂN-MẬU GIÚP CHÚA NGUYỄN-PHÚC-ÁNH

Trên bước đường gian nan tẩu quốc khi thất thế về nương náu tại làng Tân-Long (Nước-Xoáy Hồi-Oa), Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh đã gặp một vị ân-nhân tận tình phụng dưỡng Chúa, khiến cảm khích đến tôn xưng người ấy là ông Bỏ của mình, tức coi như là cha ruột.

Ông Bỏ của Chúa Nguyễn, chính tên là Nguyễn-Văn-Mậu kêu là Hậu, quê quán làng Tân-Long (nay là Long-Hưng) làm tri-thâu (thâu các sắc thuế) trong làng và làm đến chức Trùm-Cả.

Khoảng năm Đinh-Vị 1787, Chúa Tây-Sơn là Nguyễn-Lữ đã chiếm Gia-Định và tóm thâu nhiều nơi trong Nam. Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh từ nước Xiêm trở về, dung thân tạm nơi một góc trời Nước-Xoáy.

Ông Nguyễn-Văn-Mậu vốn là nhà hào-phú trong làng, tuổi cao đức cả tính hiền lành, hay giúp kẻ hoạn nạn, trợ kẻ khó nghèo. Trong làng, người người thảy đều mến lòng bạc-ái của ông.

Ngày kia, có người đến to nhỏ cùng ông một chuyện quan trọng: Thưa ông Trùm-Cả, ông có hay chuyện quan trọng mới xảy ra trong làng ta chăng?

Ông Trùm-Mậu ngạc nhiên:

- Chuyện chi quan trọng vậy chú em?

- Thưa ông, có một vị quý nhơn dẫn lính đến ngụ nơi làng ta. Ông liệu sao? Không khéo làng ta sẽ mắc họa binh đao chớ chẳng không.

- Chà, có chuyện như thế sao? Vị quý nhơn hiện giờ ngụ ở nhà nào? Để ta coi thử diện mạo người rồi sẽ liệu. Ông Trùm-Mậu bèn theo gót người làng, đến tận nơi trú ngụ của Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh mà xem xét vị quý nhơn ấy ra sao. Thoạt trông thấy vị thiếu niên mặc y phục theo trong hoàng-phái, dáng nho nhã, nét cương nghị trầm hùng biểu lộ trên gương mặt rắn rỏi, quả cảm. Ông Mậu khen thầm: "Đây là một vị chơn chúa đang lúc phong trần, mai sau thành vân đắc lộ quyết chẳng ai hơn nổi đâu".

Bèn ra mắt, bái kiến Chúa Nguyễn, Nguyễn-Vương kính ông tuổi tác, vội vàng nghiêng mình đáp lễ, ân cần hỏi:

- Lão trượng là ai?

Ông Mậu tỏ thật tên họ và chức nghiệp. Nguyễn-Vương cảm khái:

- Chúng tôi truân chuyên lưu lạc đến đây, chắc đòng bào cảm thông mà giúp đỡ cho tôi chớ?

Ông Mậu khẳng khái:

- Vâng. Chúa đang bước long đong, phận tôi con đâu dám chẳng hết lòng.

Từ hôm ấy, ông Mậu xuất tài sản châu cấp cho binh sĩ của Nguyễn-Vương, và vận động người trong làng sốt sắng ủng hộ cho.

Mỗi ngày, tại nhà ông, nấu sẵn cơm cháo, cho ghe chở nườm nượp ra đến Vàm Nước-Xoáy, cách nhà ông độ 3 cây số tiếp tế quân đội Nguyễn-Vương. Ròng rã ba tháng, ông tận tình giúp đỡ đủ mọi mặt, nhờ đó binh sĩ Nguyễn-Vương thắng nổi Tây-Sơn.

Nguyễn-Vương niệm ơn ông, lại xét ông là bậc trưởng thượng, trung can nghĩa khí, lòng dạ đáng thương, bèn cung kính tôn ông làm Bỏ của Ngài, tức là coi ông như cha nuôi. Ông Mậu thấy thế cả kinh: "Xin Chúa thượng chớ quá hạ mình. Kẻ hạ dân không dám vọng tưởng đến như thế".

Nguyễn-Vương cảm động: "Bỏ chớ ngại, xét ra xứng đáng cho tôi kính là Bỏ, xin đừng từ chối mà phụ lòng tôi mến chuộng, cảm đức của Bỏ".

Ông nghe câu nói đầy ân hậu, lòng càng cảm thương; càng dốc lòng lo cho Nguyễn-Vương.

Trong quận, ai nấy cũng đều tôn xưng kính trọng ông. Ông chẳng biết lấy chi đáp lại cho cân, nên nguyện xin dâng người con gái út của ông cho Nguyễn-Vương dùng làm Tấn-Nhân hầu hạ Chúa. Nhưng nàng phản đối ý cha, giả điên cho đến chết (Xin xem chuyện con gái ông Bỏ Hậu).

Về sau, Nguyễn-Vương thống nhất sơn hà, lên ngôi Hoàng-Đế, tức vua Gia-Long. Nhà vua vẫn niệm ơn ông Bỏ Hậu. Sắc phong tước Đức-Hầu. Khi vua Gia-Long mới lên ngôi, có người trong Nam nghe được tin ấy, chạy bay đến nhà ông Mậu mà to chuyện:

- Mừng cho ông sắp vinh hiển to rồi.

Ông nghiêm trang:

- Chuyện chi đáng mừng?

- Ông chưa hay gì sao? Đương kiêm Hoàng-Đế chính là người đã tâng trọng ông làm Bỏ khi trước đó.

- Thật chăng?

- Ông cứ cho người dọ hỏi thì biết.

Ông nghe tin ấy, lòng cũng mừng cho Nguyễn-Vương đã đắc vận. Riêng ông, ông không tin tưởng lắm rằng vua Gia-Long sẽ chẳng quên ơn ông. Đến khi có sắc chỉ của Triều-đình đưa vào tặng phong ông tước Đức-Hầu, bấy giờ ông mới biết công mình nuôi giúp chẳng uổng, mắt xanh nhận xét chẳng lầm người.

Người trong làng hết thảy đều khen phục ông tinh tường, biết chơn chúa trong cơn lưu-lạc phong trần.

Năm Gia-Long thứ 8 (1809), ông mãn phần. Vua Gia-Long thương tiếc, có chỉ truyền sai một phái đoàn trong Công-Bộ vào xây Lăng cho ông và cho người con gái của ông rất trọng hậu. Làng ấy nay hãy còn, nhưng các chữ ở mộ bia đã phai mờ.

Bà Đốc-Phủ Phải ở Chợ-Lớn mấy mươi năm trước đây, chính là chắc gái của ông Bỏ của vua Gia-Long vậy.

Nơi làng Long-Hưng, dòng dõi ông cũng còn nhiều.

Ông Hòa-Trai Nguyễn-Văn-Dần có thơ cảm đề:

Tuấn kiệt nghiêng vai đỡ lấy trời,

Anh hùng trưởng lão phải là chơi.

Đất Nam thượng phụ không hai mặt,

Cõi Việt họ hầu biết mấy mươi.

Khương Tử ngồi câu trong mỏi mắt,

Vỏ-Hầu xếp quạt cũng hao hơi.

Cần-Vương tầm nhựt người trên trước,

Âu phải liều thân giúp với đời.

CÁC VÕ TƯỚNG QUÊ Ở SA-ĐÉC PHỤ TÁ NHÀ NGUYỄN-PHÚC

Bên cạnh hai nhân vật ưu tú của Sa-Đéc ngày xưa là cụ Tống-Phước-Hòa và Nguyễn-Văn-Nhơn, mà chúng tôi đã trình bày, hãy còn khá nhiều võ tướng khác, tên tuổi ghi chép ở bộ "Đại-Nam Nhất Thống-Chí", phần tỉnh An-Giang, khu vực 2 huyện Vĩnh-An và An-Xuyên tức vùng Sa-Đéc khi xưa. Đáng kể gồm có:

NGUYỄN-VĂN- BẾ

Người huyện Vĩnh-An. Ông Nguyễn-Văn-Bế thường theo Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh sống cuộc đời lưu vong ở Vọng-Các (Xiêm), được phong chức Tổng Nhung Cai-Cơ.

Những khi Nguyễn-Vương kéo binh trở về, giao chiến với Tây-Sơn, ông đảm nhận sứ mạng giao liên giữa Nguyễn-Vương với vua quan Xiêm. Ngoài ra ông còn có công đi cầu viện và khéo tổ chức dân quân ủng hộ Nguyễn-Vương.

Khi ông mất, Nguyễn-Vương truy tặng ông chức Chưởng-Cơ, liệt thờ vào hai miếu Hiển-Trung và Trung-Hưng.

HOÀNG-PHƯỚC-BỬU

Người huyện An-Xuyên, ông tận tụy với Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh, gian lao nguy hiểm chẳng quản gì thân. Ông được Nguyễn-Vương tín nhiệm. Lúc Nguyễn-Vương lưu vong nơi Vọng-Các, ông vẫn theo bảo giá, làm đến chức Trung-Đồn Uy-Vũ Vệ-Úy.

Trung thành với Nguyễn-Vương, ông xông pha ngoài tiền tuyến dự trăm trận, đối đầu với Tây-Sơn ở nhiều nơi. Đến năm Tân-Dậu (1801), ông tùng chinh ở Qui-Nhơn, tử trận nơi Thạch-Cốc, được truy tặng chức Chưởng-Cơ.

Năm Gia-Long thứ ba (1804), nhà vua cho liệt thờ ông vào các miếu Chiến-Trung, Hiển-Trung và Bảo-Trung.

Năm Gia-Long thứ chín (1810), lại được liệt thờ vào miếu Trung-Hưng công-thần.

NGUYỄN-VĂN-TRỌNG

Người huyện An-Xuyên. Ông nổi tiếng hào hùng, tinh thông võ-nghệ. Gặp thời loạn, ông dốc lòng theo đường binh-nghiệp, cứu loạn, an dân, bèn quyết định phụ tá Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh.

Khi mới đầu quân, ông đã được trọng dụng, phong chức Khâm-Sai Cai-Cơ, theo Tổng-Nhung Nguyên-Thuyên và tiên phong Nguyễn-Văn-Thành điều khiển quân sĩ, giao phong cùng Tây-Sơn trên khắp mặt chiến trường. Dần dần làm đến chức Tiên-phong đinh Lượng Vỏ-vệ Chính-vệ.

Năm Canh-Thân 1800, ông tùng-chinh ở Qui-Nhơn, tử trận tại Tự-Sơn.

Đến năm Gia-Long thứ hai 1803, được truy tặng Chưởng-Cơ, liệt thờ vào miếu Bảo-Trung. Năm thứ 9 (1810), liệt thờ vào miếu Trung-Hưng Công-Thần.

NGUYỄN-VĂN-ĐỊNH

Người huyện An-Xuyên. Làm đến Cai-Cơ. Từng theo Nguyễn-Vương sống cuộc đời lưu vong ở Vọng-Các. Từ năm Đinh-Vị 1787, ông bảo giá Nguyễn-Vương từ Xiêm trở về, rồi xông pha trận mạc chẳng quản gì thân. Đến khi tùng chinh ở Quảng-Nam tử trận tại đây. Được truy tặng Chưởng-Cơ, liệt thờ nơi miếu Hiển-Trung và miếu Trung-Hưng.

NGUYỄN-VĂN-TUYÊN

Người huyện Vĩnh-An, đầu quân dưới cờ Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh, ông chống nhau với Tây-Sơn quyết liệt, có nhiều chiến-công, làm đến Vệ-Úy trong đoàn quân Chấn-Vỏ.

Đến khi Nguyễn-Vương khôi phuc xong Gia-Định, thẳng ra Phú-Xuân, ông từng cùng với ông Lê-Văn-Duyệt đánh dẹp ở nhiều nơi, trổ tài cứu loạn an dân. Nhất là khi đánh dẹp ở Quảng-Ngãi, ông đem lại an ninh cho dân chúng, khiến nhân dân xưng phục cảm mộ ân uy. Ông mất trong trận công phá Qui-Nhơn, được truy tặng Chưởng-Cơ.

NGUYỄN-VĂN-YẾN

Người huyện An-Xuyên, làm đến Vệ-Úy Lượng-Vỏ. Ông tính cương trực khảng khái, xông trận rất dũng cảm. Các thuộc hạ của ông thảy đều kính mến ông, sẵn sàng tuân theo lịnh ông điều khiển, trên dưới một lòng.

Năm Canh-Thân 1800, tùng chinh ở Qui-Nhơn, ông tử-trận tại Thị-Dả, được liệt thờ vào miếu Hiển-Trung và miếu Trung-Hưng.

NGUYỄN-THỊ-DUNG NGƯỜI ĐÀN-BÀ HÁO NGHĨA NHẤT Ở SA-ĐÉC TRONG ĐỜI VUA THIỆU-TRỊ

Sa-Đéc xưa kia, có một "ông Bỏ" của vua Gia-Long (2) đáng ngợi về mặt háo nghĩa bao nhiêu, thì đến đời Thiệu-Trị, còn có một bà Nguyễn-Thị-Dung cũng nổi tiếng là người đàn bà háo nghĩa vào bậc nhất. Sách "Đại-Nam Nhất-Thống-Chí" vẫn nêu tên bà để biểu dương cùng hậu thế.

Bà Nguyễn-Thị-Dung, người huyện An-Xuyên, vốn nhà giàu có. Vào cuối đời Minh-Mạng, nhận thấy đất nước có nhiều biến loạn, dân gian khổ sở vì lo âu, chiến cuộc lan tràn khắp nơi, bà tỉnh ngộ về cuộc đời phù hoa, giả tạm, vạn vật vô thường, nên bà sinh lòng mộ đạo Phật, phát Bồ-đề-tâm, trì hạnh bố-thí, sẵn lòng lạc quyên, chẩn tế bất cứ ở nơi nào cần đến sự hổ trợ của bà. Do công đức ấy, bà được nhân dân mến phục.

Đầu năm Thiệu-Trị (1841), có việc động binh ở vùng An-Giang, Châu-Đốc, dân chúng quanh vùng lâm vào cảnh khốn khó. Bà ra tay cứu tế, hết lòng giúp đỡ kẻ nghèo khổ qua cơn tai trời ách nước.

Quân-đội của triều đình lúc bấy giờ đang cần quân nhu, lương thực, bà biết tin, sẵn sàng xuất lúa quyên trợ. Nhờ sự tán trợ của bà, chẳng những dân chúng đội ơn cứu nạn, mà triều-đình cũng cảm kích nghĩa cử của bà, nhất là rất khen ngợi nhiệt tâm của bà đối với quân đội.

Để tưởng thưởng lòng từ bi của bà đối với đồng bào, khích lệ lòng yêu nước của bà đối với quân đội bằng cách nhiệt liệt tiếp tế mọi thứ nhu yếu phẩm, quan lại địa phương và thượng cấp trong quân đội dâng sớ về triều tâu rõ nghĩa cử của bà. Tiếp được tờ trình, triều thần họp nhau bàn định và đưa ý kiến lên vua, xin phong tặng cho bà. Vua Thiệu-Trị chấp thuận, sắc tặng cho bà một tấm biểng chạm bốn chữ vàng "Lạc quyên nghĩa phụ".

Được đề cao sự háo nghĩa như thế, chẳng những đẹp riêng thân danh bà, mà lại còn làm đẹp mắt giới nữ lưu. Hơn nữa, danh thơm chung muôn thuở cho xứ sở Sa-Đéc mến yêu của bà và của thế hệ sau và mãi mãi.

HỒ-TRỌNG-ĐÍNH

Ngày nay, du khách viếng Sa-Đéc, ắt chẳng khỏi bồi hồi khi nhìn sang vùng Cao-Lãnh. Đất Cao-Lãnh trước vẫn là một quận thuộc tỉnh Sa-Đéc, một vùng thuộc Long-Hồ-Dinh. Và nơi ấy có miếu Văn-Thánh là di tích đáng ca tụng. Một khi du khách quan chiêm Văn-Thánh miếu ở làng Mỹ-Trà (Cao-Lãnh), tự nhiên chẳng khỏi bàng hoàng đặt câu hỏi: Ai đã xướng xuất việc xây cất Văn-Thánh miếu? Ngược dòng thời gian, tra cứu sử liệu, chúng ta sẽ không quên cảm niệm vị Tri-Phủ Tân-Thành, dưới thời Tự-Đức, tên là Hồ-Trọng-Đính. Chính là người đã đề xướng việc xây cất miếu Văn-Thánh, làm đẹp mắt Sa-Đéc thuở nào.

Hồ-Trọng-Đính quê ở làng Quỳnh-Đôi, tỉnh Nghệ-An. Ông thi đổ Cử-nhân, nổi tiếng văn học.

Khoảng năm Đinh-Tỵ 1857, ông được triều đình bổ vào Nam làm Tri-phủ Tân-Thành. Trấn nhậm một nơi văn hiến, ông tỏ lòng sốt sắng lo việc chính trị, giáo dục. Rãnh việc vua quan, ông thường nhóm sĩ phu trong vùng đàm đạo văn chương, thảo luận việc mở mang trong xứ.

Nhờ công đôn đốc của ông, đến khoa Mậu Ngọ (1858), người trong phủ Tân-Thành (Sa-Đéc) đổ được một Cử-nhân, hai Tú-tài. Ông hân hoan bàn tính với các thân hào nhân sĩ về việc đề cao đạo học, khích lệ sĩ phu chung lo việc xây dựng nền văn hóa trong xứ, hầu cho nho phong sĩ khí càng ngày càng cao rạng. Bấy giờ, có vị giáo thọ là Nguyễn-Thục-Trinh tán đồng ý kiến ấy, cùng nhau chung lo việc xây cất Văn-Thánh miếu.

Đầu tiên, miếu Văn-Thánh Sa-Đéc tọa lạc trên một số ruộng ở phía đông Phủ- Thành, thuộc làng Mỹ-Trà, tổng Phong-Thạnh, cách chợ Cao-Lãnh chừng 1200 thước, xưa thuộc về huyện Vĩnh-An, phủ Tân-Thành.

Tri-phủ Hồ-Trọng-Đính lại xướng lập nên hội Tư-văn, cữ chức Hội-trưởng, câu đương v.v... Khởi công xây cất Văn-Thánh miếu vào ngày mồng 4 tháng 6 đến ngày 28 tháng 10 thì hoàn thành.

Từ ấy lễ nhạc có tôn chủ, chiêm ngưỡng có cung tường, xứ Sa-Đéc được một thời nổi danh Văn-hiến. Do công đức ấy, dân chúng Sa-Đéc đều tỏ lòng cảm phục Tri-Phủ Hồ-Trọng.

Đến sau, Tri-phủ Hồ-Trọng-Đính có sắc chỉ thăng chức Giám-Sát Ngự-Sử và phải hồi kinh. Dân chúng càng nồng nàn tỏ lòng luyến tiếc bậc minh quan ấy.

Di tích Văn-Thánh miếu Sa-Đéc nay hãy còn. Chúng tôi đã ghi rõ chi tiết ở phần Di Tích, kể từ Tri-phủ Hồ-Trọng-Đính chủ trương lập miếu đến nay đã trên một trăm năm.

Điều nên nói thêm: Khoảng năm Tự-Đức thứ 31 (Mậu-Dân 1878), vì Văn-Thánh miếu trải cơn binh lửa, bị tàn phá. Bấy giờ, trong làng Mỹ-Trà, có ông Ban-Biện suất đội chủ trương là Phạm-Văn-Khanh, tình nguyện xuất của riêng mua cây gỗ sửa sang lại Văn miếu, để cung tiếng một tòa; còn ngói gạch vật liệu thì do người trong hội đóng góp chung lo. Ban biện Khanh bèn dời Văn miếu về cận Trường-Giang Cao-Lãnh.

Đến gần đây, sửa sang Văn miếu lại lần nữa, chính do công lao các ông: Nguyễn-Quang-Diêu, Huỳnh-Kinh-Ngưu, Nguyễn-Khắc-Niệm v.v...

Bao giờ người đời còn nhắc nhở đến Văn-Thánh miếu Sa-Đéc, hẳn là tên tuổi của vị Tri-Phủ Tân-Thành Hồ-Trọng-Đính cũng đã gắn liền vào việc chấn hưng văn hóa ấy.

Chú thích:

(1) Tiểu-sử cụ Tống-Phước-Hiệp, xin xem quyển "Vĩnh-Long Xưa và Nay".

[2] Xin xem ở phần giai-thoại, chúng tôi đã ghi rõ.