BẢO-TIỀN VỚI NGÔI MIẾU THỜ CÁC QUAN -ĐẠI-THẦN NHÀ NGUYỄN--
Chúng tôi còn thấy bên cạnh nền Bảo-Tiền có ngôi miếu nhỏ bằng cây lá, thượng lầu hạ hiên, giữa thờ một bài vị lớn khắc chữ Nho sơn son thép vàng, lâu ngày rất cũ kỷ. Trước có đặt bộ lư đồng và cặp chưn đèn. Hai bên vách có hai bàn thờ nhỏ, thờ tả ban và hữu ban, do ông Nguyễn-Văn-Tý dựng lên để tưởng niệm người xưa đi lại trên mãnh đất lịch sử này.
Chúng tôi đến trước linh vị công thần, đốt hương chiêm ngưỡng sùng mộ bậc tiền nhân. Quay gót trở ra, rảo bước vòng quanh theo nền Bảo xem tỉ mỉ, còn thấy những tảng đá chôn vùi sâu dưới lòng đất, bị nước mưa xói lòi lên một màu đen xám. Theo sự suy đoán của chúng tôi, ngày xưa vua Gia-Long xây đắp Bảo-Tiền, Bảo-Hậu, các cửa vô đều làm bằng đá xanh và hồ ô-dước rất kiên-cố. Thời gian trôi qua, vật đổi sao dời, cảnh hư hoại, sụp đổ dưới lòng đất mẹ, biết đâu dưới lòng đất còn rất nhiều vật cổ của ngày xưa không ai tìm kiếm.
NHỮNG VIỆC LINH-THIÊNG XẢY RA TẠI BẢO-TIỀNTheo lời ông Nguyễn-Văn-Tý kể lại, đồng bào quanh vùng xã Long-Thắng trong những năm gần đây, đã chứng kiến những việc kỳ dị ở Bảo-Tiền như sau: Lúc nửa đêm nghe tiếng nổ từ dưới đất tung lên liên hồi như súng đại bác bắn. Nghe tiếng muôn binh rộn rịp. Đồng bào giăng câu, đặt lọp ngoài ruộng đều ngơ ngác. Sự lạ xảy ra chừng một tiếng đồng hồ rồi trở lại bình thường. Có lúc trời trong quang đảng, cây cối chung quanh lay chuyển như con trót đi, rồi một lúc sau yên lặng.
Qua các hiện tượng lạ lùng ấy, mọi người đều bàn tán cho rằng các đạo âm binh còn phưởng phất đâu đây, nên mới xuất hiện cho nhân gian biết rằng, âm dương đồng nhứt lý, hồn tử sĩ còn uất hận, khí thiêng non nước vẫn tồn tại trên đồi cây ngọn cỏ.
Nghe ông Nguyễn-Văn-Tý kể chuyện linh thiêng nơi Bảo-Tiền, chúng tôi xúc cảm bồi hồi, âm thầm mật niệm với tất lòng thành. Thổn thức trước cảnh cũ người xưa giây lâu, chúng tôi kiếu từ ra đi. Rẽ qua con rạch nhỏ, trực chỉ đến xã Phong-Hòa cách Bảo-Tiền 7 cây số, nơi đây là di-tích nền đồn thứ nhì tức là Bảo-Hậu. Bảo này nhỏ hơn Bảo-Tiền. Nhưng cảnh cũng giống như nhau nằm giữa cánh đồng xanh, cây lá phủ che rậm rạp, chim cò thường qui tụ về đây làm tổ, ít người lui tới.
Đây là ngôi thờ linh vị các công thần triều nhà Nguyễn tại Bảo-Tiền.
Cạnh bên có treo bức chân dung vị anh hùng Nguyễn-Trung-Trực.
Sở dĩ có danh từ Bảo-Tiền và Bảo-Hậu, là vì xưa kia vua Gia-Long thiết lập để bảo vệ phòng thủ cuộc tấn công của địch ở mặt tiền và mặt hậu nên gọi là Bảo-Tiền, Bảo-Hậu. Vị trí chiến thuật và chiến lược của người xưa áp dụng theo lối cổ điển, thành trì vững chắc, quân binh đều tập trung vào thành. Khi giặc đến, đem cả toàn lực ra chống ngăn và tử thủ tại thành.
Bảo-Tiền nay còn tại xã Long-Thắng. Bảo-Hậu còn tại xã Phong-Hòa. Từ Sa-Đéc đến đây gần 20 cây số là nơi di-tích lịch sử của đức Cao-Hoàng lưu dấu.
Thiết tưởng người hữu trách bảo vệ cổ tích nước nhà cần quan tâm đến các nơi này để dựng lên tấm bia, hoặc cất một ngôi đền thờ nhỏ bằng gạch ngói để thờ phụng các bậc công thần có công khai quốc, vào sanh ra tử, hy sinh cả một cuộc đời mở mang bờ cõi tranh đấu thống nhất đất nước, đem nguồn an vui hạnh phúc cho toàn dân, chuyển tiếp qua bao giai đoạn đến ngày nay. Chúng ta nên nhớ, vô cổ bất thành kim, ở đời ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng. Là người dân Việt, chúng ta có bổn phận nên bảo vẻ cảnh này cho được tồn mãi với non sông, hầu lưu lại cho thế hệ ngày sau tưởng nhớ, dấu vết công trình của tiền nhân ta đã dầy công xây dựng. Như thế, chúng ta không tủi hổ với các ngài, và hãnh diện xứng đáng là con Hồng cháu Lạc với tinh thần tồn cổ.
DI-TÍCH LỊCH-SỬ ĐỨC CAO-HOÀNGKhi chúa Nguyễn-Phúc-Ánh bị Tây-Sơn truy nã, ngài và quan quân bôn tẩu vào Nam, đã từng lê gót đó đây thâu phục nhân tài cứu khổn phò nguy trong cơn quốc nạn.
Đất Sa-Đéc ngày xua là nơi ẩn náu của nhà vua, vì nơi đây địa thế hiểm trở, sông rạch chằn-chịch, ruộng vườn giăng giăng, tài nguyên dồi dào, có phương tiện cung cấp cho quân binh ở đây lâu được, để chờ cơ hội quật khởi thế cờ, chống lại Tây-Sơn. Chúa Nguyễn đã quan sát địa hình địa vật, lấy làm đẹp dạ, thảo luận cùng các tướng lãnh đồng ý, truyền cho quân lính và dân địa phương đắp hai dãy pháo đài để ngăn phòng quân địch tiến xăm. Một dãy ở làng Long-Thắng, rạch Cái-Bàn đi vô, vị trí giữa một cánh đồng bao la chừng năm mẫu đất, chung quanh có đào hào thành kiên cố, đó là Bảo-Tiền. Một Bảo thứ nhì ở làng Phong-Hòa, tức là Bảo-Hậu. Đắp xong Bảo-Tiền và Bảo-Hậu, chúa Nguyễn truyền quân vận đá xanh xây cản trên mấy con kinh dẫn vào yếu điểm phòng thủ, để trấn áp quân Tây-Sơn tấn công theo giòng nước. Dấu tích những cản nay còn tại vàm Cái-Tắc, xã Long-Hậu và tại rạch Cái-Bàng, thuộc xã Long-Thắng.
Ngoài ra, tại xã Hòa-Long, vàm rạch Ba-Đình vẫn còn dấu tích nền của ba pháo đài với những tảng đá xanh chôn vùi dưới đất. Những di tích kể trên, mặc dầu không còn nguyên vẹn, nhưng vẫn được các vị bô lão ghi nhớ, truyền tụng trong dân gian.
Chúng tôi đã có đến viếng cảnh này trước khi bắt tay sưu khảo quyển "Sa-Đéc" ghi lại những gì đã thấy tận mắt, tường thuật phần đầu.
NỀN ĐỨC CAO-HOÀNG TẠI HỒI-OA NƯỚC XOÁY, HUYỆN VĨNH-ANTheo tài liệu của ông Nguyễn-Văn-Dần, trong quyển "Sa-Đéc nhân vật chí", nền đồn của đức Cao-Hoàng giá ngự, vuông vức độ sáu công đức, thuở ấy nền đắp rất cao, đến nay vì lâu đời quá nên cái nền đã lỳ xuống, nhưng cũng còn cao hơn mặt đất đôi chút, nước không ngập được, thành đắp bằng đất là nơi chúa Nguyễn đình trú trong vòng đồn, vị trí tại Hồi-Oa (Nước-Xoáy), thuộc về địa phận làng Tân-Long. Sau chúa Nguyễn đổi tên là Long-Hưng, xây đắp vào năm Đinh-Tỵ 1787, thuộc huyện Vĩnh-An ngày xưa.
Hướng tây, cận cái xẻo nhỏ, xuồng ghe chống vô ra được.
Hướng đông và hướng bắc đến cận ruộng tư điền. Hướng nam có Cây-Da bến Ngự và rạch Nước-Xoáy. Đến đời vua Tự-Đức, năm thứ hai 1849, vị đại thần Doãn-Mẩn có dựng bia chỗ nền đồn cũ ấy để ghi thắng tích. Nền đồn xưa này về sau nằm trong phần đất của nghiệp chủ Trương-Văn-Quãng. Ông hết lòng sùng kính để tự nhiên, không trồng trọt hoặc xây cất nhà cửa hay cho ai mướn đất ấy mà làm việc gì, có lòng bảo tồn cổ tích của người xưa lưu dấu trên mảnh đất của tiền nhân thật là cảm khái.
Đời sau, quan Tổng-Đốc An-Hà là ông Cao-Hửu-Dực, sung Kinh-lược, đi qua làng Long-Hưng, thấy di tích nền đồn, thành củ của đức Cao-Hoàng giá lâm, ông động lòng cảm khái làm bài văn trí tế: dưới đây là bản dịch của ông Hòa-Trai Nguyễn-Văn-Dần:
Những từ có giặc Tây-Sơn,
Triều Nam chúa Nguyễn gặp cơn dấy loàn.
Đời vua Thế-Tổ Cao-Hoàng,
Giá vào Sa-Đéc tại làng Long-Hưng.
Đến nơi trú tất nghỉ chưn,
Xây thành lập trận, canh tuần nghiêm trang.
Tuy là một cuộc đạn hoàng,
Một thành, một lũy trừ an, giặc tà.
Đem về một mối sơn-hà,
Cho nên chốn ấy hiệu là Long-Hưng.
Trong khi nghĩa sĩ trung thần,
Anh hùng hào kiệt bội phần thiếu chi.
Dấu xưa sự tích để ghi,
Sáu mươi năm lẻ nay thì còn đây.
Tưởng cơn gặp hội Rồng mây,
Xông pha tên đạn bấy chầy ruổi dung.
Ngày ngày chánh khí anh phong,
Tinh linh như chói hai vừng dể phai.
Ta nay (Cao-Hửu-Dực), là kẻ hậu lai,
Lòng riêng luống những cảm hoài lắm thay!
Nhơn khi công sự đến ngày,
Lưu đi kinh lược sang ngay chốn này,
Đơn thiêng một tấm đặt bày phỉ nghi.
Lễ dâng trí tế các vì,
Cúi xin cảm cách phò trì an ninh.
Cầu cho "Nhơn kiệt Địa linh",
Dân khương vật phục thái bình như xưa.
Đây là bài văn trí tế của Tổng-Đốc Cao-Hửu-Dực lưu niệm nơi mảnh đất di tích lịch sử này, ngày nay các vị bô lão thường nhắc đến. Chúng tôi cố sưu tầm để nói lên lời nói của người xưa còn phưởng phất đâu đây, để tăng thêm phần điểm tô non sông đất nước với những trang sử oai hùng của dân tộc.
LĂNG THỐNG CHẾ NGUYỄN-CÔNG-LIÊUTại Châu-Thành Sa-Đéc ngày nay có một đền thờ và Lăng của Thống-Chế Nguyễn-Công-Liêu dưới triều Gia-Long, Minh-Mang. Ông là vị võ quan có công khuông phò nhà vua, từng lập được nhiều chiến công hiển hách. Khi ông quá vãng, linh cửu đem về an táng tại xã Tân-Vĩnh-Hòa (thuộc ấp Tân-Bình), tọa lạc trên cuốc đất của ông bà Huỳnh-Thủy-Lê. Chúng tôi đến viếng lăng ngài, thấy có một đền thờ nhỏ xây bằng gạch ngói, bên trong để một phủ thờ và linh vị người quá cố, phía trước Lăng xây bằng gạch, trên núm có khắc những hàng chữ từ trên tới dưới như sau:
Đền thờ và Lăng Thống Chế Nguyễn-Công-Liêu.
Hoàng Triều Trung-Liệt công thần
Hoài viên tướng quân
Thần Sách quân Tã Dinh
Vũ Vệ Khâm-Sai Cai-Cơ Hầu-Tước
Sanh năm Canh-Thìn tháng 9 ngày mồng một
từ trần năm Giáp-Tuất 1874 tháng Chạp
Ngày 29 giờ Mùi.
Ngôi mộ này trước kia bằng đất quanh năm không cỏ mộc. Ngài ứng mộng cho bà Hồ-Thị-Huẩn một vị chân tu ngụ tại cuộc đất này, bảo xây lại và cất đền thờ cho khang trang, để bá tánh đến chiêm ngưỡng, và ngài còn cho biết trước nơi cuộc đất thiêng này trong tương lai sẽ có nhiều đoàn thể Tôn giáo qui tụ về đây, bà Hồ-Thị- Huẩn hết lòng tin tưởng đến oai linh của Ngài, bỏ tiền ra làm mộ và xây cất đền thờ và hoàng thành vào năm 1938, nay bà Huẩn đã quá vãng.
Hằng năm vào ngày 29 tháng chạp là ngày giỗ ông, các bô lão trong làng đến tham dự đông đảo để tưởng niệm vị công thần oai linh hiển hách.
Chúng tôi đến đây được nghe người cháu của bà Hồ-Thị-Huẩn thuật lại mọi sự việc như trên, đều ứng hiện theo sự mách bảo trước của vị Công-Thần Nguyễn-Công-Liêu.
Ngày nay đã có mặt các cơ sở đạo giáo qui tụ về cuộc đất này. Trụ sở giáo hội Phật-giáo Hòa-Hảo, Tịnh xá Du Tăng Khất Sĩ, nhà giảng Tin-Lành, Đình-Thần, Chùa Sư-nữ Hải-Huệ v.v... Một cuộc đất nhỏ này mà quy tụ được một số đạo giáo tín đồ về đây lo việc tu hành thật là hiếm có.
TIỀN ĐỒN ĐÔNG-KHẨU-ĐẠONhư chúng tôi đã trình bày ở phần lịch sử Sa-Đéc, xưa kia vùng đất Sa-Đéc sáp nhập vào lãnh thổ nước ta từ thời chúa Võ-Vương Nguyễn-Phúc-Khoát. Do sách lược phòng thủ của Nguyễn-Cư-Trinh đề ra, bấy giờ Sa-Đéc được đặt làm Đông-Khẩu-Đạo, để ngăn ngừa người Chân-Lạp và Xiêm-La đánh phá.
Từ năm Đinh-Sửu 1757, tiền đồn Đông-Khẩu-Đạo thiết lập ở bờ phía Nam sông Sa-Đéc, thuộc huyện Vĩnh-An. Đến thời Gia-Long, tiền đồn Đông-Khẩu-Đạo này bãi bỏ.
GÁC BẢO ĐẤT XƯATrong việc phòng thủ vùng Sa-Đéc, ngoài các đồn, thành lớn lao, còn có các bảo đất được đắp lên ở nhiều nơi. Nhất là từ đời Thiệu-Trị, miền Hậu-Giang thường bị người Chân-Lạp và Xiêm-La quấy rối, nên sự thiết lập đồn, bảo, đã là một công tác đặt lên hàng đầu của chánh quyền thời ấy.
Những Bảo đất có tiếng, còn ghi trong sử sách:
1.- Bảo-đất Giang-Nông: Châu vi 43 trượng, cao 5 thước ở huyện Vĩnh-An: đắp năm Thiệu-Trị thứ hai (1842).
2.- Bảo-đất Vĩnh-Thành: Châu vi 38 trượng, cao 4 thước ở huyện Vĩnh-An: đắp năm Thiệu-Trị thứ hai (1842).
3, - Bảo-đất Vĩnh-Thành: Châu vi 23 trượng, cao 4 thước ở huyện hạt Vĩnh-An: đắp năm Thiệu-Trị thứ hai (1842).
CÁC CHỢ XƯA CÓ TIẾNGTrong "Đại-Nam Nhất thống chí", đặc biệt ghi về các chợ xưa ở Sa-Đéc rất đáng được nhắc nhở, đã có từ thời Gia-Long:
1.- Chợ VĨNH-PHƯỚC, tục dành Chợ Sa-Đéc, ở phía đông huyện-lỵ Vĩnh-An. Chợ quán dọc theo bờ sông, liên tiếp nối dài 5 dặm, ở dưới sông có những bè bằng tre kết, đậu khít nhau giăng hàng (tức nhà bè) hoặc bán tơ lụa và đồ khí dụng hoặc bán dầu rái, than củi, mây, tre, muối, mắm. Còn trên bờ, phố xá cũng có bán đủ các hàng hóa tốt đẹp, ấy là một thắng địa phồn hoa vậy.
2. CHỢ TÂN-PHÚ-ĐÔNG )
3. CHỢ HÒA-AN )
4. CHỢ TÂN-THUẬN ) đều ở huyện Vĩnh-An
5. CHỢ MỸ-AN )
6. CHỢ LONG-HẬU cũng ở huyện Vĩnh-An, vốn là sở tại thủ Sở Cường-Oai cũ. Nơi đây thì phố xá hơi đông.
7. CHỢ NHA-MÂN, ở huyện An-Xuyên.
Xem qua các chợ xưa trên đây, chúng ta hẳn có ý niệm về sự phồn thạnh của Sa-Đéc xa xưa, càng tăng thêm lòng cảm cựu. Và thời gần đây, trong quyển "Sa-Đéc nhân-vật chí" ghi về các chợ hệ trọng trong tỉnh Sa-Đéc như sau:
TỔNG AN-TRUNG ) - Chợ Sa-Đéc, làng Tân-Phú-Đông
) - Chợ Vĩnh-Phước, làng Vĩnh-Phước
TỔNG AN-THẠNH-HẠ ) - Chợ Tân-Qui, làng Tân-Qui-Đông
) - Chợ Cồn
TỔNG PHONG-THẠNH ) - Chợ Mới, làng Mỹ-Ngãi
) - Chợ Cao-Lãnh, làng Mỹ-Trà
TỔNG AN-THẠNH-THƯỢNG ) - Chợ Cái-Tàu-Thượng, làng Hội-An
) - Chợ Đất-Sét, làng Mỹ-An-Hưng
TỔNG AN-TỊNH ) - Chợ Tân-Thuận, làng Tân-Thuận
TỔNG AN-THỚI ) - Chợ Lai-Vung, làng Tân-Lộc
) - Chợ Long-Hậu, làng Long-Hậu
TỔNG AN-MỸ ) - Chợ Cái-Tàu-Hạ, làng Phú-Hựu
) - Chợ Nha-Mân, làng Phú-Nhuận
) - Chợ Dinh, làng Tân-Hựu
TỔNG PHONG- NẨM ) - Chợ Mỹ-Tho, làng Mỹ-Tho
) - Chợ Mỹ-Xương, làng Mỹ-Xương
) - Chợ Cái-Sao, làng Mỹ-Lòng