PHẦN THỨ TƯ:SINH-HOẠT TÔN-GIÁO - và-CHÙA, ĐÌNH, CỔ-KINH- &-LÀNG TÒNG-SƠN-QUÊ-HƯƠNG ĐỨC PHẬT THẦY TÂY-AN-(ĐOÀN-MINH-HUYÊN)-ĐẤNG KHAI SÁNG GIÁO-PHÁI BỬU-SƠN KỲ-HƯƠNG--
Miền Nam nước Việt là mảnh đất nhiệm mầu của đức tin. Lòng người thuần phác ngưỡng vọng về các bậc cao tăng đại đức, là những vị có công khai sáng giềng mối đạo pháp để hưng hóa nền đạo đức nhân loại nói chung và dân Việt nói riêng.
Nổi bật trong quá trình lịch sử Đạo giáo như Đức Phật Thầy Tây-An làng Tòng-Sơn Sa-Đéc, Đức Minh-Đăng-Quang ở Vĩnh-Long, Đức Thầy Huỳnh-Giáo-Chủ ở làng Hòa-Hảo, Đức Tông Sư Minh-Trí làng Tân-Mỹ Sa-Đéc. Toàn cõi miền Nam đất Việt đều nghe danh biết tiếng các Ngài có nhiều môn đệ rải rác khắp nơi trên lãnh thổ.
Chúng tôi có bổn phận thiêng liêng, không nại khó nhọc, tìm đến tận nơi phát tích, truy nguyên nguồn cội tiền nhân, tuyên dương công nghiệp của các Ngài, hầu làm sáng tỏ thêm nền đạo pháp nước nhà trong muôn một.
Ở đây chúng tôi chân thành, nguyện ghi lại cuộc đời Đức Phật Thầy Tây-An, bậc khai sáng Phật-Giáo Bửu-Sơn Kỳ-Hương lưu truyền đến hôm nay. Hầu hết ở miền Hậu-Giang, đa số đồng bào Phật tử có thọ phái của Ngài. Họ rất trung thành với đạo pháp.
Trên tinh thần vô tư của nhà cầm bút, chúng tôi không đề cao một giáo phái nào cả, chỉ trình bày những tài liệu đã thâu thập được cống hiến bạn đọc hiểu qua tiểu sử của Đức Phật-Thầy dưới đây:
TIỂU SỬ ĐỨC PHẬT TÂY-AN
Ngược dòng giáo-sử, vào năm Kỷ-Dậu 1849, giữa lúc tình thế nước nhà rối rắm, bên ngoài thì giặc Pháp gây áp lực nặng nề toan xâm chiếm Việt-Nam, bên trong thì vừa chấm dứt cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn giữa Chúa Gia-Long và nhà Tây-Sơn. Thêm vào đó, giặc Thổ hưởng ứng theo Vua Chân-Lạp nổi dậy khắp thôn quê của miền Nam nước Việt.
Kể từ năm 1087 đến 1856, suốt năm mươi năm, dân chúng khổ sở triền miên. Chẳng những chiến tranh gây ra lắm cảnh chết chóc, đói khổ thê lương còn thêm nạn cường hào ác bá gieo bao gánh nặng trên vai người dân vô tội. Phật-giáo đã suy tàn, mất dần tín ngưỡng, chùa chiền bị loạn lạc nhiễu nhương tàn phá, thêm thiên tai, hạn hán mất mùa, ách dịch hoành hành cùng khắp nông thôn.
Trong cơn thế nước lâm nguy, dân chúng quá đau khổ vì chiến tranh và bịnh tật đó, bỗng giữa mùa thu năm Kỷ-Dậu, một vị Hoạt Phật ra đời cứu thế độ nhân, và khai sáng Giáo-Phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương. Vị cứu tinh đó là Đức Phật Thầy Tây-An.
Đây là ngôi mộ cửa Đức Phật Thầy Tây-An (Đoàn-Minh-Huyên)
nằm trên sườn núi Sam, phía sau chùa Tây-An (Châu-Đốc)
Lúc bấy giờ, Ngài đã nổi tiếng là một bậc thời y. Ngài đã cứu hàng ngàn người mắc phải bịnh thiên thời, trong cơn thập tử nhất sanh. Phương pháp trị bịnh của Ngài rất giản dị, ít tốn kém. Ngài chỉ dùng toàn nước lả, tro nhang hoặc giấy vàng xé nhỏ. Ngài lại còn cứu căn bịnh chung là tam độc và tứ khổ của người đời bằng giáo lý: tôn thờ tứ đại trọng ân để dìu dắt cho người tu sĩ tại gia trao đổi thuyết học Phật tu Nhơn. Đó là điều chính yếu của Phật-Giáo Bửu-Sơn Kỳ-Hương.
Đức Phật Thầy Tây-An sanh trưởng tại làng Tòng-Sơn, tổng An-Thạnh-Thượng, tỉnh Sa-Đéc. Ngài sanh vào giờ ngọ, ngày rằm tháng 10 năm Đinh-Mão 1807, đời Vua Gia-Long thứ 6. Quý danh Ngài là Đoàn-Minh-Huyên. Đạo hiệu là Giác-Minh.
Theo kệ giảng thì Ngài thừa lịnh cõi Tây-phương lâm phàm để chu du độ thế cứu dân. Bởi sứ mạng thiêng liêng cao cả đó, nên Đức Phật-Thầy đã phải rời làng Tòng-Sơn ngược dòng Cai-Tàu-Thượng. Ngài bơi bằng một thanh tre và chiếc xuồng bần, đến rạch Trà-Bư, làng An-Thạnh-Trung. Sau cùng Ngài đến rạch Xẻo-Môn, làng Kiến-Thạnh (nay là Long-Kiến) thuộc Cù-Lao Ông Chưởng tỉnh Long-Xuyên. Khi đến đó, Ngài ở tại Cóc ông Đạo-Kiến, hiện nay là địa điểm Ngôi Chùa Tây-An Cổ-Tự.
Trong thời gian lưu trú tại đây, Ngài đã cứu rất nhiều ác bịnh nan-y và thu nhận một số đông môn đệ. Vì lẽ đó nên có người ác tâm ganh hiền ghét ngỏ, tố cáo Ngài là Gian-Đạo-Sĩ đang huy động số đông người toan âm muu khởi loạn. Nhà cầm quyền lúc bấy giờ mới cho điệu Ngài về tỉnh đường Châu-Đốc. Qua nhiều cuộc thẩm vấn và họ đã dùng đủ mọi cách để thử Ngài. Cuối cùng Triều-Đình mới ra lịnh trả tự do và đồng thời cho phép Ngài được hoằng dương Giáo pháp. Muốn tránh sự hoài nghi của nhà đương cuộc, cũng là để làm đúng theo luật pháp lúc bấy giờ: các nhà tu Phật phải trụ trì tại những chùa có thờ tượng cốt. Thế nên Đức Phật-Thầy mới chọn nơi tu tịnh cất một ngôi chùa để tu hành và chửa bịnh cho bá gia. Cách thờ phượng vẫn đúng theo các ngôi chùa trong nước, và cũng từ đó, Ngài phát huy sâu rộng giáo lý Bửu-Sơn Kỳ-Hương. Người tín-đồ quy-y nhập đạo chỉ được Ngài cấp cho một Lòng-phái bằng giấy vàng, có in bốn chữ Bửu-Sơn Kỳ-Hương chữ Hán màu son.
Kể từ năm Kỷ-Dậu 1849 đến năm Kỷ-Dậu 1969 thì Tông phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương đã trưởng thành theo thế cuộc thăng trầm đúng 120 năm.
Mặc dầu Đức Phật Thầy đứng ra tu bổ ngôi Tây-An-Tự, nhưng với tính cách là ngôi chùa công, phải chịu dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền đương thời. Ngài không được tự do trang trí nơi thờ phượng cho đúng theo pháp môn hành đạo của Ngài. Phải chăng vì thế mà Ngài tìm nơi núi rừng xa vắng mà lập thêm hai ngôi chùa khác. Một ngôi chùa ở Thái-Sơn (Nhà-Bàn), một ở Láng-Linh. Nhưng ở đây Ngài xưng danh là Trại-Ruộng chớ không gọi là chùa. Hai nơi này cách thờ phượng của Ngài đúng như ngôi Tây-An Cổ-Tự tại Cù-Lao ông Chưởng.
Về phương pháp hành đạo, Ngài dạy các môn nhân đệ tử phải lo tròn Hiếu-Nghĩa Tứ-Ân: Ân Tổ-tiên, Ân Đất-nước, Ân Tam-bảo, Ân Đồng-bào nhân-loại. Nếu là hạng người xuất gia còn thêm Ân Đàn-Na thí chủ. Đức Phật-Thầy khai thị pháp môn học Phật tu Nhơn tu rộng độ. Giáo lý của Ngài là Siêu đẳng Quy nguyên, theo chân truyền của Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Ngài dạy môn đệ giữ Bát-chánh, hành Bát-nhẩn, trừ thập-ác huyễn-thân. Nên nỗ lực giúp đời bằng mọi phương tiện theo sức mình, và lắng lòng thanh tịnh chuyên trì niệm Phật là căn bản.
Suốt thời gian 7 năm truyền đạo từ năm Kỷ-Dậu 1849 đến năm Bính-Thìn 1856 thì Ngài viên tịch vào giờ ngọ, ngày 12 tháng 8 tại chùa Tây-An-Tự (núi Sam). Ngài hưởng thọ được 50 tuổi. Ngoài công nghiệp hoằng dương đạo pháp, Ngài còn lưu lại cho hậu thế những nơi di tích:
1.- Chùa Tây-An Cổ-Tự ở xã Kiến-An, Cù-Lao ông Chưởng (khi xưa là Cốc của ông Đạo Kiến).
2.- Tây-An-Tự, núi Sam Châu-Đốc (khi xưa chùa này của phái Thiền-Lâm không nhớ rõ hiệu. Đức Phật-Thầy về ở đã tu bổ thêm và đặt tên như vậy).
3.- Thới-Sơn-Tự ở xã Thái-Sơn núi Két (khi xưa là trại gổ thường gọi là Lâm-Vồ).
4.- Phước-Điền-Tự ở xã Thái-Sơn, An-Giang (khi xưa là Trại-Ruộng Phước-Điền, ruộng năm giây).
5.- Bửu-Hương-Các ở xã Thanh-Mỹ-Tây An-Giang (khi xưa là Trại-Ruộng Láng-Linh).
6.- Phi-Lai-Tự ở gần núi Voi Thất-Sơn (khi xưa là Trại-Rẫy, Đức Phật-Thầy để cho 12 ông đạo làm rẫy).
Ngoài ra còn 12 vị Đại đệ tử đã từng theo Ngài trên bước đường cứu đời hành đạo như: Đức Cố Quản Trần-Văn-Thành, ông Đạo Xuyến, ông Đạo Sang, ông Đạo Lập, ông Đạo Chợ, ông Đạo Sĩ, ông Đạo Ớt, ông Đạo Ngoạn, ông Đạo Kiết, ông Đạo Đọt, ông Tăng Chủ, ông Bình Tây và thêm những nhân vật liệt sĩ anh hùng có liên hệ đến môn phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương trong hàng ngũ kháng Pháp như: ông Cử-Đa, ông Nguyễn-Trung-Trực, ông Ba-Thới, cậu Hai-Lảnh, bà Năm-Chòm-Dầu v.v... Chư Đại đệ tử này đã tiếp nối giữ gìn và chấn hưng nền đạo sau ngày Đức Phật-Thầy viên tịch.
Cách nay 12 năm, người mà tín đồ xem là hóa thân của Đức Phật-Thầy Tây-An theo Ngài mà truyền đạo là Đức Phật-Trùm, tức là ông Đạo Đèn, quý danh là Ta Pol. Ngài ra đời vào năm Mậu-Thân 1868 tại núi Tà-Lơn, xã Lương-Phi, quận Tri-Tôn, Thất-Sơn. Ngài độ đời được 7 năm thì viên tịch vào ngày 13 tháng 3 năm Ất-Hợi 1875 cũng tại núi Tà-Lơn. Hiện giờ quí vị tín hữu trong hệ phái của Ngài có cất ngôi Viên-Tự, danh xưng là Bửu-Linh-Đài để làm Phủ thờ.
Đến năm Mậu-Dần 1878, Đức Bổn-Sư ra đời truyền đạo. Ngài tánh Ngô tự Lợi, còn gọi là cậu Năm-Hữu hay Năm-Thiếp. Ngài hoằng dương mối đạo Tứ-Ân Hiếu-Nghĩa tại núi Tượng, thuộc xã Ba-Chúc, vùng Thất-Sơn. Ngài dạy đạo và cứu đời được 12 năm, viên tịch vào ngày 13 tháng 10 năm Canh Dần 1890. Ngoài công nghiệp truyền bá giáo lý Tứ-Ân Hiếu-Nghĩa cứu độ tai ách cho dân chúng ra, Ngài còn lưu lại cho đời những kinh sấm để cho tín đồ làm phương châm hành đạo như: Một bộ kinh cúng dường Tứ-Ân Hiếu-Nghĩa 9 quyển, một quyển kinh Thiên đồ, một bộ Bửu-Trường sanh, một bộ Bàn Đào và nhiều sấm giảng quan yếu, luận về đời Mạt Pháp Hạ Ngươn và những chứng tích giáo sử như: Chùa Phi-Lai, Chùa Tam-Bửu, Miễu Thanh-Lương, Miễu Sơn-Thần, với những ngôi Chùa Miễu khác quanh núi Dài và núi Tượng, mà hiện giờ bá gia vẫn còn sùng kính, bốn mùa khói hương chẳng dứt.
Cách 11 năm sau, một vị Siêu nhân khác xuất hiện, người đời gọi ông là ông Sư Vãi Bán Khoai. Ngài quý danh là Mỹ ra đời độ nhân cứu nạn vào năm Tân-Sửu 1901 tại xã Vĩnh-Gia thuộc Kinh Vĩnh-Tế, Châu-Đốc. Ngài truyền giáo chữa bịnh cứu đời được hai năm, rồi bỗng nhiên mất dạng vào năm Nhâm Dần 1902. Ngài lưu lại cho hậu thế hai quyển Sấm giảng người đời với nội dung cải dữ làm lành, hiếu nghĩa cha mẹ anh em, trung với đất nước và biết thương yêu đồng bào nhân loại.
Từ ông Sư Vãi biệt dạng, một khoảng cách 37 năm, đến ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão 1939, khởi đầu cho cuộc nạn dân ách nước to lớn, một vị Hoạt-Phật ra đời cứu độ sanh linh, hoằng dương giáo pháp Bửu-Sơn Kỳ-Hương với một danh xưng khác, tộc danh là Huỳnh-Phú-Sổ, sanh trưởng tại xã Hòa-Hảo quận Tân-Châu, Châu-Đốc. Ngài xiểng dương sâu rộng vào đại chúng thuyết học Phật Tu Nhơn và sùng kính tứ đại trọng ân, làm nòng cốt cho nền đạo Phật-Giáo Hòa-Hảo. Ngài cứu đời và truyền đạo được 9 năm rồi vắng mặt vào ngày 25 tháng 2 năm Đinh-Hợi 1947. Đức Huỳnh Giáo chủ còn lưu lại 4 quyển sấm giảng và một quyển thi văn giáo lý để cho tín đồ làm kim chỉ nam mà sửa mình tu học.
Hiện giờ tín đồ xem những sấm giảng giáo lý này là Kinh nhựt tụng.
Tóm lại, quá trình phát triển Giáo hệ Bửu-Sơn Kỳ-Hương có thể chia làm ba thời kỳ: thời kỳ thành lập, do đó Đức Phật-Thầy khai sáng Giáo hệ Bửu-Sơn Kỳ-Hương cho đến ngày Đức Phật Trùm viên tịch. Thời kỳ củng cố, kể từ Đức Bổn Sư ra đời cho đến năm 1890 là năm Ngài viên tịch. Thời kỳ phổ biến kể từ ngày ông Sư Vãi ra đời cho đến năm 1939 Đức Huỳnh Giáo-chủ lâm phàm khai sáng nên đạo Phật-giáo Hòa-Hảo. Xét thấy rằng từ năm Kỷ-Dậu 1849 đến năm Kỷ-Mão 1947, tất cả là 98 năm. Trong thời gian đó, có 4 vị Giáo chủ kế tiếp ra đời, sự hoạt nhiên tỏ ngộ cũng như nhau, đồng nhất thể, cứu thế độ nhơn, cùng dìu dắt người đời với giáo lý học Phật tu nhơn và tôn thờ tứ đại trọng ân làm căn bản truyền đạo. Tuy thời kỳ biến động theo hoàn cảnh khó khăn của đất nước để tùy duyên hóa độ cho phù hợp với nhân sanh, nhưng nền đạo đâu có biến dạng thay hình. Trọng tâm vẫn giữ bốn chữ Bửu-Sơn Kỳ-Hương là phương châm truyền đạo. Như thế, những người đời sau không e ngại phải sai lầm trên tinh thần tín ngưỡng vậy.
Trích theo tài liệu của Hội đồng liên phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương đã đăng trong tập chí Xuân Đạo 1970.
ĐỨC TÔNG SƯ MINH-TRÍ
NGƯỜI LÀNG TÂN-MỸ SA-ĐÉC
VỊ KHAI SÁNG TỊNH-ĐỘ CƯ-SĨ PHẬT-HỘI VIỆT-NAM
Đất Sa-Đéc xưa nay xuất phát lắm bậc chân tu gương mẩu, từng đem đạo pháp ban rải khắp đất nước, gieo duyên, kết phước với tất cả mọi người, giúp đỡ họ, trên con đường tu học, hiểu rõ sự nhiệm mầu của trời đất, hầu trở nên tận thiện, tận mỹ.
Con người nhờ đạo đức mà ăn ở hiền lương. Ai ai cũng giữ bổn phận mình lo trao giồi đức hạnh, cân phân được sự tội phước, quả báo, thì không bao giờ dám làm những việc tội lỗi trái với lương tâm. Nếu được như vậy, nhà ngủ không cần đóng cửa, ngoài đường chẳng kẻ lượm của rơi. Dân tộc thấm nhuần đạo đức, quốc gia sẽ trở nên thiên đường tại thế.
Nhưng đời mạt pháp, nhân loại đảo điên, tranh đua hơn thiệt lấy giả làm chân, tạo cho mình cái hư danh ảo mộng mà không hay, cho là vĩnh viễn. Vì thế, các bậc Tông-Sư trải qua bao thế hệ xuống trần mượn xác để phổ độ nhân sinh trong kỳ ba, Ngươn-hạ. Mỗi vị đều chủ trương một pháp môn tu hành riêng biệt theo tông phái của mình, tùy căn cơ hoàn cảnh hạp ở đâu phải quay về đấy. Nhưng trăm sông ngàn rạch cũng về bể cả. Chỉ có chân lý là duy nhất làm kim chỉ nam hướng dẫn nhân loại đi lần đến chỗ giải thoát, đó là điều quan trọng.
Di ảnh ông Nguyễn-Văn-Bồng (đạo hiệu là Minh-Trí) trong lúc còn ở tại cư gia.
Chúng tôi đến Sa-Đéc may mắn được biết thêm một vị khai sáng mối đạo Tịnh-Độ Cư-Sĩ ở tỉnh này. Với óc sưu tầm, chúng tôi tìm hiểu qua quá trình của Đức Tông-Sư Minh-Trí và việc tu hành ra sao, để hiến quí bạn đọc qua những dòng tiểu sử như sau:
THUỞ THIẾU NIÊN VÀ THỜI TU TRÌ
Đức Minh-Trí sinh trưởng tại xã Tân-Mỹ, tổng An-Thạnh-Thượng (Rạch-Vông), tỉnh Sa-Đéc. Ngài sinh năm Bính-Tuất 1886, quí danh là Nguyễn-Văn-Bồng, thứ bảy, con của đức ông Nguyễn-Văn-Bình và Nguyễn-Thị-An. Thiếu thời cha mẹ mất sớm. Ngài được chị nuôi dưỡng và cho theo học chữ Nho tại Trường làng. Nhờ đó Ngài nghiên cứu sâu xa Phật-pháp và tinh-thông y-đạo.
Năm Ất-Tỵ 1905, Ngài vâng lịnh anh chị mà lập gia đình, nhưng không hề xao lãng con đường tự tu tự giác, tự ngộ, tự độ. Phương châm của Ngài là lấy sự giáo hóa của Phật làm sự giáo hóa cho mình. Tôn chỉ của Ngài là từ bi bác ái, tự giác nhi giác tha, tự độ nhi độ nhân.
Năm 29 tuổi (Ất-Mão 1915), sau khi lãnh ngộ đạo mầu của Đức Bổn-Sư Thích-Ca, Đức Minh-Trí ly hương, lội suối, trèo non, chu du khắp miền năm non bảy núi để tìm thầy học đạo. Sau cùng, Ngài khoát nhiên, tâm linh trực giác thấu suốt chân lý: khi mê thì nhờ thầy độ, khi ngộ tới mình tự độ lấy. Từ đấy, Ngài quyết tâm dấn thân truyền đạo, lập ra Lục-Phương-Tông, truyền bá pháp môn Lục-phương lễ bái để người đời tu tập.
HÀNH TRẠNG
Năm Kỷ-Vị 1919, Đức Minh-Trí ly gia cắt ái, giã từ hương thôn ấp, lê gót khắp đó đây, mượn khoa Y-đạo, trước là cứu độ đồng bào, sau nữa truyền bá giáo lý để dìu dắt thiện nam tín nữ trên đường giải thoát, cầu vãng sanh cực lạc.
Khắp miền Hậu-giang, đồng bào Phật tử đều xưng tụng Ngài là bậc minh-triết, song song với việc truyền đạo.
Ngài còn đóng góp công quả trong những hoạt động xã hội, như xây cầu tại làng Tân-Mỹ 1926, đắp đường dọc theo Kinh Thầy Lâm 1828, đắp con đường từ Gò Dầu đến làng Tân-Khánh-Tây 1929, dựng nhiều trạm cứu tế về khoa Nam-dược. Việc làm của Ngài được tiếng vang trong tỉnh. Hương-chức Hội-tề sở tại gởi giấy lên tỉnh Sa-Đéc Quan-Chánh Tham-Biện lấy làm khen ngợi và khích lệ tinh thần cao đẹp của Ngài đối với đồng bào trong thôn ấp.
Trong khoảng thời gian hơn 10 năm từ 1920-1930, Ngài đã lập nhiều công quả với đời, dẫn dắt đa số người tu hành theo Tông phái của Ngài chủ trương.
THÀNH LẬP TỊNH-ĐỘ CƯ-SĨ PHẬT-HỘI
Ngài nhận thấy số người giác ngộ tu càng ngày càng thêm đông, cho đó là một đại cơ duyên trong thời kỳ phổ độ. Đức Minh-Trí qui kết một số đệ tử tại Chợ-Lớn vào năm 1933 để xin phép nhà cầm quyền Pháp thành lập một Hội Phật-giáo lấy tên là Tịnh-Độ Cư-Sĩ Phật-Hội Việt-Nam, tại chùa Hưng-Long, tọa lạc trên đường Minh-Mạng, Chợ-Lớn, làm Hội-quán tạm tại đây ngày 25-7-1934.
Cố Tôn Sư Minh-Trí, người sáng lập Tịnh-Độ Cư-Sĩ Phật-Học Hội Việt-Nam
Lúc bấy giờ danh nghĩa đã có, đạo hạnh được tín đồ mến phục nên toàn thể tín đồ suy tôn Ngài là Tôn sư trong một phiên Đại hội bất thường. Từ đấy, Ngài gánh trách nhiệm lớn đối với Phật-pháp, âm thầm đi đó đi đây khắp miền Lục tỉnh, hoằng pháp độ nhân và mở phòng thuốc Nam trị bịnh cho bá tánh.
Không quản gian lao khổ nhọc, dù gặp bao sự thử thách dèm siểm của thế nhân, Đức Minh-Trí vẫn giữ một lòng son sắt, không thối chí ngã lòng, trì tâm chí nguyện, tận lực độ đời giác ngộ.
Cao cả thay! Giữa cõi đời vật chất xa hoa, con người tranh nhau vì miếng ăn, chỗ đứng, nơi ngồi, chạy theo danh, lợi, tình, tiền, không nghĩ gì đến vấn đề đạo đức, Đức Minh-Trí lăn mình trong nhân thế, lẩn lộn với tất cả mọi giới để độ người là một việc khó khăn. Chẳng qua nhờ đức độ, và đạo hạnh, thể hiện lòng bác ái, những ai có duyên lành, sẽ được Ngài tiếp nhận. Đầu tiên trong giới văn nghệ sĩ, Đức Minh-Trí độ được một số anh chị em nghệ sĩ hữu danh quy y thọ phái, cô Bảy Phùng-Há, Năm Châu, Năm Phi, Bảy Nhiêu, Huỳnh-Thủ-Trung (Tư-Chơi), Ba Vân và nhiều anh chị em nghệ sĩ khác. Riêng về giới công chức, Ngài cũng độ được nhiều vị Đốc-Phủ-Sứ, Đốc-Học, Giáo-chức, quân nhân tu theo đường lối của Ngài.
Ngài lái con thuyền Phật-pháp vượt trùng dương khắp miền Nam, đâu đâu cũng có dấu chân Ngài, và chư môn đệ tử theo thầy thọ phái quy y rất đông.
Năm Đinh-Hợi 1947, Đức Minh-Trí, 61 tuổi, vì chiến cuộc bất an, Ngài dời về Sa-Đéc, rồi lên ở hẳn tại Sài-Gòn.
Chính năm này, ngày mùng 7 tháng 4 âm lịch, Ngài vào Phú-Định để dự Đại-hội Thường-niên. Tối lại, Ngài về Sài-Gòn an nghỉ. Kế khuya bữa đó (rạng ngày mùng 8 tháng tư âm lịch) xảy vụ ám sát ông Hội-Trưởng Lâm-Văn-Hậu.
Năm 62 tuổi (Mậu-Tý 1948), Hội-quán tại Chùa Hưng-Long ở Phú-Định bị thiêu hủy. Ngài bàn tính với ông tân Hội-Trưởng Lê-Văn-Hơn dời văn phòng, tạm làm việc giáo hội về nhà của ông Hơn. Sau sẽ lo xây cất Hội-quán tại Đô-Thành.
Năm 63 tuổi (Kỷ-Sửu 1949), khởi công xây cất Hội-quán Trung-ương Tân-Long-Hưng-Tự. Từ đấy, hoạt động giáo sự ngày càng thêm rộng lớn. Khách thập phương thường tới lui xin qui y thọ giáo.
CANH TÂN GIÁO-PHÁP
Năm Tân-Mão 1951, Đức Minh-Trí cải cách giáo pháp nâng cao trình độ tu học của hội viên và hàng thiện tín bằng chủ trương "Phước-Huệ song tu", bải bỏ danh nghĩa Lục-Phương Tông. Giáo lý của Ngài đề xướng là tu thanh tịnh ở nội tâm, và làm các phương tiện phước đức, không có hình thức bên ngoài. Tuy nhiên, Tịnh-độ cư-sĩ là một Giáo lý phương tiện của Đức Thích-Ca Mâu-Ni bắt nguồn từ khi Đức Phật còn tại thế.
Miền Nam nước Việt là mảnh đất nhiệm mầu của đức tin. Lòng người thuần phác ngưỡng vọng về các bậc cao tăng đại đức, là những vị có công khai sáng giềng mối đạo pháp để hưng hóa nền đạo đức nhân loại nói chung và dân Việt nói riêng.
Nổi bật trong quá trình lịch sử Đạo giáo như Đức Phật Thầy Tây-An làng Tòng-Sơn Sa-Đéc, Đức Minh-Đăng-Quang ở Vĩnh-Long, Đức Thầy Huỳnh-Giáo-Chủ ở làng Hòa-Hảo, Đức Tông Sư Minh-Trí làng Tân-Mỹ Sa-Đéc. Toàn cõi miền Nam đất Việt đều nghe danh biết tiếng các Ngài có nhiều môn đệ rải rác khắp nơi trên lãnh thổ.
Chúng tôi có bổn phận thiêng liêng, không nại khó nhọc, tìm đến tận nơi phát tích, truy nguyên nguồn cội tiền nhân, tuyên dương công nghiệp của các Ngài, hầu làm sáng tỏ thêm nền đạo pháp nước nhà trong muôn một.
Ở đây chúng tôi chân thành, nguyện ghi lại cuộc đời Đức Phật Thầy Tây-An, bậc khai sáng Phật-Giáo Bửu-Sơn Kỳ-Hương lưu truyền đến hôm nay. Hầu hết ở miền Hậu-Giang, đa số đồng bào Phật tử có thọ phái của Ngài. Họ rất trung thành với đạo pháp.
Trên tinh thần vô tư của nhà cầm bút, chúng tôi không đề cao một giáo phái nào cả, chỉ trình bày những tài liệu đã thâu thập được cống hiến bạn đọc hiểu qua tiểu sử của Đức Phật-Thầy dưới đây:
TIỂU SỬ ĐỨC PHẬT TÂY-AN
Ngược dòng giáo-sử, vào năm Kỷ-Dậu 1849, giữa lúc tình thế nước nhà rối rắm, bên ngoài thì giặc Pháp gây áp lực nặng nề toan xâm chiếm Việt-Nam, bên trong thì vừa chấm dứt cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn giữa Chúa Gia-Long và nhà Tây-Sơn. Thêm vào đó, giặc Thổ hưởng ứng theo Vua Chân-Lạp nổi dậy khắp thôn quê của miền Nam nước Việt.
Kể từ năm 1087 đến 1856, suốt năm mươi năm, dân chúng khổ sở triền miên. Chẳng những chiến tranh gây ra lắm cảnh chết chóc, đói khổ thê lương còn thêm nạn cường hào ác bá gieo bao gánh nặng trên vai người dân vô tội. Phật-giáo đã suy tàn, mất dần tín ngưỡng, chùa chiền bị loạn lạc nhiễu nhương tàn phá, thêm thiên tai, hạn hán mất mùa, ách dịch hoành hành cùng khắp nông thôn.
Trong cơn thế nước lâm nguy, dân chúng quá đau khổ vì chiến tranh và bịnh tật đó, bỗng giữa mùa thu năm Kỷ-Dậu, một vị Hoạt Phật ra đời cứu thế độ nhân, và khai sáng Giáo-Phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương. Vị cứu tinh đó là Đức Phật Thầy Tây-An.
Đây là ngôi mộ cửa Đức Phật Thầy Tây-An (Đoàn-Minh-Huyên)
nằm trên sườn núi Sam, phía sau chùa Tây-An (Châu-Đốc)
Lúc bấy giờ, Ngài đã nổi tiếng là một bậc thời y. Ngài đã cứu hàng ngàn người mắc phải bịnh thiên thời, trong cơn thập tử nhất sanh. Phương pháp trị bịnh của Ngài rất giản dị, ít tốn kém. Ngài chỉ dùng toàn nước lả, tro nhang hoặc giấy vàng xé nhỏ. Ngài lại còn cứu căn bịnh chung là tam độc và tứ khổ của người đời bằng giáo lý: tôn thờ tứ đại trọng ân để dìu dắt cho người tu sĩ tại gia trao đổi thuyết học Phật tu Nhơn. Đó là điều chính yếu của Phật-Giáo Bửu-Sơn Kỳ-Hương.
Đức Phật Thầy Tây-An sanh trưởng tại làng Tòng-Sơn, tổng An-Thạnh-Thượng, tỉnh Sa-Đéc. Ngài sanh vào giờ ngọ, ngày rằm tháng 10 năm Đinh-Mão 1807, đời Vua Gia-Long thứ 6. Quý danh Ngài là Đoàn-Minh-Huyên. Đạo hiệu là Giác-Minh.
Theo kệ giảng thì Ngài thừa lịnh cõi Tây-phương lâm phàm để chu du độ thế cứu dân. Bởi sứ mạng thiêng liêng cao cả đó, nên Đức Phật-Thầy đã phải rời làng Tòng-Sơn ngược dòng Cai-Tàu-Thượng. Ngài bơi bằng một thanh tre và chiếc xuồng bần, đến rạch Trà-Bư, làng An-Thạnh-Trung. Sau cùng Ngài đến rạch Xẻo-Môn, làng Kiến-Thạnh (nay là Long-Kiến) thuộc Cù-Lao Ông Chưởng tỉnh Long-Xuyên. Khi đến đó, Ngài ở tại Cóc ông Đạo-Kiến, hiện nay là địa điểm Ngôi Chùa Tây-An Cổ-Tự.
Trong thời gian lưu trú tại đây, Ngài đã cứu rất nhiều ác bịnh nan-y và thu nhận một số đông môn đệ. Vì lẽ đó nên có người ác tâm ganh hiền ghét ngỏ, tố cáo Ngài là Gian-Đạo-Sĩ đang huy động số đông người toan âm muu khởi loạn. Nhà cầm quyền lúc bấy giờ mới cho điệu Ngài về tỉnh đường Châu-Đốc. Qua nhiều cuộc thẩm vấn và họ đã dùng đủ mọi cách để thử Ngài. Cuối cùng Triều-Đình mới ra lịnh trả tự do và đồng thời cho phép Ngài được hoằng dương Giáo pháp. Muốn tránh sự hoài nghi của nhà đương cuộc, cũng là để làm đúng theo luật pháp lúc bấy giờ: các nhà tu Phật phải trụ trì tại những chùa có thờ tượng cốt. Thế nên Đức Phật-Thầy mới chọn nơi tu tịnh cất một ngôi chùa để tu hành và chửa bịnh cho bá gia. Cách thờ phượng vẫn đúng theo các ngôi chùa trong nước, và cũng từ đó, Ngài phát huy sâu rộng giáo lý Bửu-Sơn Kỳ-Hương. Người tín-đồ quy-y nhập đạo chỉ được Ngài cấp cho một Lòng-phái bằng giấy vàng, có in bốn chữ Bửu-Sơn Kỳ-Hương chữ Hán màu son.
Kể từ năm Kỷ-Dậu 1849 đến năm Kỷ-Dậu 1969 thì Tông phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương đã trưởng thành theo thế cuộc thăng trầm đúng 120 năm.
Mặc dầu Đức Phật Thầy đứng ra tu bổ ngôi Tây-An-Tự, nhưng với tính cách là ngôi chùa công, phải chịu dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền đương thời. Ngài không được tự do trang trí nơi thờ phượng cho đúng theo pháp môn hành đạo của Ngài. Phải chăng vì thế mà Ngài tìm nơi núi rừng xa vắng mà lập thêm hai ngôi chùa khác. Một ngôi chùa ở Thái-Sơn (Nhà-Bàn), một ở Láng-Linh. Nhưng ở đây Ngài xưng danh là Trại-Ruộng chớ không gọi là chùa. Hai nơi này cách thờ phượng của Ngài đúng như ngôi Tây-An Cổ-Tự tại Cù-Lao ông Chưởng.
Về phương pháp hành đạo, Ngài dạy các môn nhân đệ tử phải lo tròn Hiếu-Nghĩa Tứ-Ân: Ân Tổ-tiên, Ân Đất-nước, Ân Tam-bảo, Ân Đồng-bào nhân-loại. Nếu là hạng người xuất gia còn thêm Ân Đàn-Na thí chủ. Đức Phật-Thầy khai thị pháp môn học Phật tu Nhơn tu rộng độ. Giáo lý của Ngài là Siêu đẳng Quy nguyên, theo chân truyền của Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Ngài dạy môn đệ giữ Bát-chánh, hành Bát-nhẩn, trừ thập-ác huyễn-thân. Nên nỗ lực giúp đời bằng mọi phương tiện theo sức mình, và lắng lòng thanh tịnh chuyên trì niệm Phật là căn bản.
Suốt thời gian 7 năm truyền đạo từ năm Kỷ-Dậu 1849 đến năm Bính-Thìn 1856 thì Ngài viên tịch vào giờ ngọ, ngày 12 tháng 8 tại chùa Tây-An-Tự (núi Sam). Ngài hưởng thọ được 50 tuổi. Ngoài công nghiệp hoằng dương đạo pháp, Ngài còn lưu lại cho hậu thế những nơi di tích:
1.- Chùa Tây-An Cổ-Tự ở xã Kiến-An, Cù-Lao ông Chưởng (khi xưa là Cốc của ông Đạo Kiến).
2.- Tây-An-Tự, núi Sam Châu-Đốc (khi xưa chùa này của phái Thiền-Lâm không nhớ rõ hiệu. Đức Phật-Thầy về ở đã tu bổ thêm và đặt tên như vậy).
3.- Thới-Sơn-Tự ở xã Thái-Sơn núi Két (khi xưa là trại gổ thường gọi là Lâm-Vồ).
4.- Phước-Điền-Tự ở xã Thái-Sơn, An-Giang (khi xưa là Trại-Ruộng Phước-Điền, ruộng năm giây).
5.- Bửu-Hương-Các ở xã Thanh-Mỹ-Tây An-Giang (khi xưa là Trại-Ruộng Láng-Linh).
6.- Phi-Lai-Tự ở gần núi Voi Thất-Sơn (khi xưa là Trại-Rẫy, Đức Phật-Thầy để cho 12 ông đạo làm rẫy).
Ngoài ra còn 12 vị Đại đệ tử đã từng theo Ngài trên bước đường cứu đời hành đạo như: Đức Cố Quản Trần-Văn-Thành, ông Đạo Xuyến, ông Đạo Sang, ông Đạo Lập, ông Đạo Chợ, ông Đạo Sĩ, ông Đạo Ớt, ông Đạo Ngoạn, ông Đạo Kiết, ông Đạo Đọt, ông Tăng Chủ, ông Bình Tây và thêm những nhân vật liệt sĩ anh hùng có liên hệ đến môn phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương trong hàng ngũ kháng Pháp như: ông Cử-Đa, ông Nguyễn-Trung-Trực, ông Ba-Thới, cậu Hai-Lảnh, bà Năm-Chòm-Dầu v.v... Chư Đại đệ tử này đã tiếp nối giữ gìn và chấn hưng nền đạo sau ngày Đức Phật-Thầy viên tịch.
Cách nay 12 năm, người mà tín đồ xem là hóa thân của Đức Phật-Thầy Tây-An theo Ngài mà truyền đạo là Đức Phật-Trùm, tức là ông Đạo Đèn, quý danh là Ta Pol. Ngài ra đời vào năm Mậu-Thân 1868 tại núi Tà-Lơn, xã Lương-Phi, quận Tri-Tôn, Thất-Sơn. Ngài độ đời được 7 năm thì viên tịch vào ngày 13 tháng 3 năm Ất-Hợi 1875 cũng tại núi Tà-Lơn. Hiện giờ quí vị tín hữu trong hệ phái của Ngài có cất ngôi Viên-Tự, danh xưng là Bửu-Linh-Đài để làm Phủ thờ.
Đến năm Mậu-Dần 1878, Đức Bổn-Sư ra đời truyền đạo. Ngài tánh Ngô tự Lợi, còn gọi là cậu Năm-Hữu hay Năm-Thiếp. Ngài hoằng dương mối đạo Tứ-Ân Hiếu-Nghĩa tại núi Tượng, thuộc xã Ba-Chúc, vùng Thất-Sơn. Ngài dạy đạo và cứu đời được 12 năm, viên tịch vào ngày 13 tháng 10 năm Canh Dần 1890. Ngoài công nghiệp truyền bá giáo lý Tứ-Ân Hiếu-Nghĩa cứu độ tai ách cho dân chúng ra, Ngài còn lưu lại cho đời những kinh sấm để cho tín đồ làm phương châm hành đạo như: Một bộ kinh cúng dường Tứ-Ân Hiếu-Nghĩa 9 quyển, một quyển kinh Thiên đồ, một bộ Bửu-Trường sanh, một bộ Bàn Đào và nhiều sấm giảng quan yếu, luận về đời Mạt Pháp Hạ Ngươn và những chứng tích giáo sử như: Chùa Phi-Lai, Chùa Tam-Bửu, Miễu Thanh-Lương, Miễu Sơn-Thần, với những ngôi Chùa Miễu khác quanh núi Dài và núi Tượng, mà hiện giờ bá gia vẫn còn sùng kính, bốn mùa khói hương chẳng dứt.
Cách 11 năm sau, một vị Siêu nhân khác xuất hiện, người đời gọi ông là ông Sư Vãi Bán Khoai. Ngài quý danh là Mỹ ra đời độ nhân cứu nạn vào năm Tân-Sửu 1901 tại xã Vĩnh-Gia thuộc Kinh Vĩnh-Tế, Châu-Đốc. Ngài truyền giáo chữa bịnh cứu đời được hai năm, rồi bỗng nhiên mất dạng vào năm Nhâm Dần 1902. Ngài lưu lại cho hậu thế hai quyển Sấm giảng người đời với nội dung cải dữ làm lành, hiếu nghĩa cha mẹ anh em, trung với đất nước và biết thương yêu đồng bào nhân loại.
Từ ông Sư Vãi biệt dạng, một khoảng cách 37 năm, đến ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão 1939, khởi đầu cho cuộc nạn dân ách nước to lớn, một vị Hoạt-Phật ra đời cứu độ sanh linh, hoằng dương giáo pháp Bửu-Sơn Kỳ-Hương với một danh xưng khác, tộc danh là Huỳnh-Phú-Sổ, sanh trưởng tại xã Hòa-Hảo quận Tân-Châu, Châu-Đốc. Ngài xiểng dương sâu rộng vào đại chúng thuyết học Phật Tu Nhơn và sùng kính tứ đại trọng ân, làm nòng cốt cho nền đạo Phật-Giáo Hòa-Hảo. Ngài cứu đời và truyền đạo được 9 năm rồi vắng mặt vào ngày 25 tháng 2 năm Đinh-Hợi 1947. Đức Huỳnh Giáo chủ còn lưu lại 4 quyển sấm giảng và một quyển thi văn giáo lý để cho tín đồ làm kim chỉ nam mà sửa mình tu học.
Hiện giờ tín đồ xem những sấm giảng giáo lý này là Kinh nhựt tụng.
Tóm lại, quá trình phát triển Giáo hệ Bửu-Sơn Kỳ-Hương có thể chia làm ba thời kỳ: thời kỳ thành lập, do đó Đức Phật-Thầy khai sáng Giáo hệ Bửu-Sơn Kỳ-Hương cho đến ngày Đức Phật Trùm viên tịch. Thời kỳ củng cố, kể từ Đức Bổn Sư ra đời cho đến năm 1890 là năm Ngài viên tịch. Thời kỳ phổ biến kể từ ngày ông Sư Vãi ra đời cho đến năm 1939 Đức Huỳnh Giáo-chủ lâm phàm khai sáng nên đạo Phật-giáo Hòa-Hảo. Xét thấy rằng từ năm Kỷ-Dậu 1849 đến năm Kỷ-Mão 1947, tất cả là 98 năm. Trong thời gian đó, có 4 vị Giáo chủ kế tiếp ra đời, sự hoạt nhiên tỏ ngộ cũng như nhau, đồng nhất thể, cứu thế độ nhơn, cùng dìu dắt người đời với giáo lý học Phật tu nhơn và tôn thờ tứ đại trọng ân làm căn bản truyền đạo. Tuy thời kỳ biến động theo hoàn cảnh khó khăn của đất nước để tùy duyên hóa độ cho phù hợp với nhân sanh, nhưng nền đạo đâu có biến dạng thay hình. Trọng tâm vẫn giữ bốn chữ Bửu-Sơn Kỳ-Hương là phương châm truyền đạo. Như thế, những người đời sau không e ngại phải sai lầm trên tinh thần tín ngưỡng vậy.
Trích theo tài liệu của Hội đồng liên phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương đã đăng trong tập chí Xuân Đạo 1970.