ĐỨC TÔNG SƯ MINH-TRÍ NGƯỜI LÀNG TÂN-MỸ SA-ĐÉC-VỊ KHAI SÁNG TỊNH-ĐỘ CƯ-SĨ PHẬT-HỘI VIỆT-NAM---
Đất Sa-Đéc xưa nay xuất phát lắm bậc chân tu gương mẩu, từng đem đạo pháp ban rải khắp đất nước, gieo duyên, kết phước với tất cả mọi người, giúp đỡ họ, trên con đường tu học, hiểu rõ sự nhiệm mầu của trời đất, hầu trở nên tận thiện, tận mỹ.
Con người nhờ đạo đức mà ăn ở hiền lương. Ai ai cũng giữ bổn phận mình lo trao giồi đức hạnh, cân phân được sự tội phước, quả báo, thì không bao giờ dám làm những việc tội lỗi trái với lương tâm. Nếu được như vậy, nhà ngủ không cần đóng cửa, ngoài đường chẳng kẻ lượm của rơi. Dân tộc thấm nhuần đạo đức, quốc gia sẽ trở nên thiên đường tại thế.
Nhưng đời mạt pháp, nhân loại đảo điên, tranh đua hơn thiệt lấy giả làm chân, tạo cho mình cái hư danh ảo mộng mà không hay, cho là vĩnh viễn. Vì thế, các bậc Tông-Sư trải qua bao thế hệ xuống trần mượn xác để phổ độ nhân sinh trong kỳ ba, Ngươn-hạ. Mỗi vị đều chủ trương một pháp môn tu hành riêng biệt theo tông phái của mình, tùy căn cơ hoàn cảnh hạp ở đâu phải quay về đấy. Nhưng trăm sông ngàn rạch cũng về bể cả. Chỉ có chân lý là duy nhất làm kim chỉ nam hướng dẫn nhân loại đi lần đến chỗ giải thoát, đó là điều quan trọng.
Di ảnh ông Nguyễn-Văn-Bồng (đạo hiệu là Minh-Trí) trong lúc còn ở tại cư gia.
Chúng tôi đến Sa-Đéc may mắn được biết thêm một vị khai sáng mối đạo Tịnh-Độ Cư-Sĩ ở tỉnh này. Với óc sưu tầm, chúng tôi tìm hiểu qua quá trình của Đức Tông-Sư Minh-Trí và việc tu hành ra sao, để hiến quí bạn đọc qua những dòng tiểu sử như sau:
THUỞ THIẾU NIÊN VÀ THỜI TU TRÌĐức Minh-Trí sinh trưởng tại xã Tân-Mỹ, tổng An-Thạnh-Thượng (Rạch-Vông), tỉnh Sa-Đéc. Ngài sinh năm Bính-Tuất 1886, quí danh là Nguyễn-Văn-Bồng, thứ bảy, con của đức ông Nguyễn-Văn-Bình và Nguyễn-Thị-An. Thiếu thời cha mẹ mất sớm. Ngài được chị nuôi dưỡng và cho theo học chữ Nho tại Trường làng. Nhờ đó Ngài nghiên cứu sâu xa Phật-pháp và tinh-thông y-đạo.
Năm Ất-Tỵ 1905, Ngài vâng lịnh anh chị mà lập gia đình, nhưng không hề xao lãng con đường tự tu tự giác, tự ngộ, tự độ. Phương châm của Ngài là lấy sự giáo hóa của Phật làm sự giáo hóa cho mình. Tôn chỉ của Ngài là từ bi bác ái, tự giác nhi giác tha, tự độ nhi độ nhân.
Năm 29 tuổi (Ất-Mão 1915), sau khi lãnh ngộ đạo mầu của Đức Bổn-Sư Thích-Ca, Đức Minh-Trí ly hương, lội suối, trèo non, chu du khắp miền năm non bảy núi để tìm thầy học đạo. Sau cùng, Ngài khoát nhiên, tâm linh trực giác thấu suốt chân lý: khi mê thì nhờ thầy độ, khi ngộ tới mình tự độ lấy. Từ đấy, Ngài quyết tâm dấn thân truyền đạo, lập ra Lục-Phương-Tông, truyền bá pháp môn Lục-phương lễ bái để người đời tu tập.
HÀNH TRẠNGNăm Kỷ-Vị 1919, Đức Minh-Trí ly gia cắt ái, giã từ hương thôn ấp, lê gót khắp đó đây, mượn khoa Y-đạo, trước là cứu độ đồng bào, sau nữa truyền bá giáo lý để dìu dắt thiện nam tín nữ trên đường giải thoát, cầu vãng sanh cực lạc.
Khắp miền Hậu-giang, đồng bào Phật tử đều xưng tụng Ngài là bậc minh-triết, song song với việc truyền đạo.
Ngài còn đóng góp công quả trong những hoạt động xã hội, như xây cầu tại làng Tân-Mỹ 1926, đắp đường dọc theo Kinh Thầy Lâm 1828, đắp con đường từ Gò Dầu đến làng Tân-Khánh-Tây 1929, dựng nhiều trạm cứu tế về khoa Nam-dược. Việc làm của Ngài được tiếng vang trong tỉnh. Hương-chức Hội-tề sở tại gởi giấy lên tỉnh Sa-Đéc Quan-Chánh Tham-Biện lấy làm khen ngợi và khích lệ tinh thần cao đẹp của Ngài đối với đồng bào trong thôn ấp.
Trong khoảng thời gian hơn 10 năm từ 1920-1930, Ngài đã lập nhiều công quả với đời, dẫn dắt đa số người tu hành theo Tông phái của Ngài chủ trương.
THÀNH LẬP TỊNH-ĐỘ CƯ-SĨ PHẬT-HỘINgài nhận thấy số người giác ngộ tu càng ngày càng thêm đông, cho đó là một đại cơ duyên trong thời kỳ phổ độ. Đức Minh-Trí qui kết một số đệ tử tại Chợ-Lớn vào năm 1933 để xin phép nhà cầm quyền Pháp thành lập một Hội Phật-giáo lấy tên là Tịnh-Độ Cư-Sĩ Phật-Hội Việt-Nam, tại chùa Hưng-Long, tọa lạc trên đường Minh-Mạng, Chợ-Lớn, làm Hội-quán tạm tại đây ngày 25-7-1934.
Cố Tôn Sư Minh-Trí, người sáng lập Tịnh-Độ Cư-Sĩ Phật-Học Hội Việt-Nam
Lúc bấy giờ danh nghĩa đã có, đạo hạnh được tín đồ mến phục nên toàn thể tín đồ suy tôn Ngài là Tôn sư trong một phiên Đại hội bất thường. Từ đấy, Ngài gánh trách nhiệm lớn đối với Phật-pháp, âm thầm đi đó đi đây khắp miền Lục tỉnh, hoằng pháp độ nhân và mở phòng thuốc Nam trị bịnh cho bá tánh.
Không quản gian lao khổ nhọc, dù gặp bao sự thử thách dèm siểm của thế nhân, Đức Minh-Trí vẫn giữ một lòng son sắt, không thối chí ngã lòng, trì tâm chí nguyện, tận lực độ đời giác ngộ.
Cao cả thay! Giữa cõi đời vật chất xa hoa, con người tranh nhau vì miếng ăn, chỗ đứng, nơi ngồi, chạy theo danh, lợi, tình, tiền, không nghĩ gì đến vấn đề đạo đức, Đức Minh-Trí lăn mình trong nhân thế, lẩn lộn với tất cả mọi giới để độ người là một việc khó khăn. Chẳng qua nhờ đức độ, và đạo hạnh, thể hiện lòng bác ái, những ai có duyên lành, sẽ được Ngài tiếp nhận. Đầu tiên trong giới văn nghệ sĩ, Đức Minh-Trí độ được một số anh chị em nghệ sĩ hữu danh quy y thọ phái, cô Bảy Phùng-Há, Năm Châu, Năm Phi, Bảy Nhiêu, Huỳnh-Thủ-Trung (Tư-Chơi), Ba Vân và nhiều anh chị em nghệ sĩ khác. Riêng về giới công chức, Ngài cũng độ được nhiều vị Đốc-Phủ-Sứ, Đốc-Học, Giáo-chức, quân nhân tu theo đường lối của Ngài.
Ngài lái con thuyền Phật-pháp vượt trùng dương khắp miền Nam, đâu đâu cũng có dấu chân Ngài, và chư môn đệ tử theo thầy thọ phái quy y rất đông.
Năm Đinh-Hợi 1947, Đức Minh-Trí, 61 tuổi, vì chiến cuộc bất an, Ngài dời về Sa-Đéc, rồi lên ở hẳn tại Sài-Gòn.
Chính năm này, ngày mùng 7 tháng 4 âm lịch, Ngài vào Phú-Định để dự Đại-hội Thường-niên. Tối lại, Ngài về Sài-Gòn an nghỉ. Kế khuya bữa đó (rạng ngày mùng 8 tháng tư âm lịch) xảy vụ ám sát ông Hội-Trưởng Lâm-Văn-Hậu.
Năm 62 tuổi (Mậu-Tý 1948), Hội-quán tại Chùa Hưng-Long ở Phú-Định bị thiêu hủy. Ngài bàn tính với ông tân Hội-Trưởng Lê-Văn-Hơn dời văn phòng, tạm làm việc giáo hội về nhà của ông Hơn. Sau sẽ lo xây cất Hội-quán tại Đô-Thành.
Năm 63 tuổi (Kỷ-Sửu 1949), khởi công xây cất Hội-quán Trung-ương Tân-Long-Hưng-Tự. Từ đấy, hoạt động giáo sự ngày càng thêm rộng lớn. Khách thập phương thường tới lui xin qui y thọ giáo.
CANH TÂN GIÁO-PHÁPNăm Tân-Mão 1951, Đức Minh-Trí cải cách giáo pháp nâng cao trình độ tu học của hội viên và hàng thiện tín bằng chủ trương "Phước-Huệ song tu", bải bỏ danh nghĩa Lục-Phương Tông. Giáo lý của Ngài đề xướng là tu thanh tịnh ở nội tâm, và làm các phương tiện phước đức, không có hình thức bên ngoài. Tuy nhiên, Tịnh-độ cư-sĩ là một Giáo lý phương tiện của Đức Thích-Ca Mâu-Ni bắt nguồn từ khi Đức Phật còn tại thế.
Liên-Hoa-Cương bên trong thờ Đức Tôn-Sư Minh-Trí, ngoài là ngôi mộ của Ngài tại Phú-Định, Chợ-Lớn.
Con đường Phước-Huệ song tu của Ngài là dẫn độ thích hợp cho người cư sĩ tu tại gia. Nghĩa là người cư sĩ phải luôn luôn giữ tâm từ bi cứu nhân độ thế, tạo phước cho muôn loài, đồng thời trau dồi đạo hạnh để tinh tiến trên đường giải thoát. Thực hiện chủ trương trên đây, tại mỗi Chùa, chi hội đều có tổ chức Ban Phước-Thiện xã hội phụ trách một phòng thuốc Nam, đón rước cứu chữa tất cả bịnh nhân, không phân biệt sang hèn chủng tộc, cũng không hề thu nhận tiền bạc của bịnh nhân.
Trong huấn từ chúc ngôn của Đức Tôn-sư Minh-Trí ngày 8 tháng 4 năm Mậu-Tuất 1958, Ngài dạy: "Tinh tiến thực hành Phước-Huệ song tu là lên đường giải thoát. Tinh-tiến thực hành Phước-Huệ song tu là đường về Cực-Lạc".
Giác hạnh viên mãn, khuya ngày 22 rạng 23 tháng 8 năm Mậu-Tuất 1958, đúng 23 giờ, Ngài viên tịch, hưởng thọ 73 tuổi.
Trong suốt cuộc đời hành đạo, Ngài đã mở lối cho chúng sanh tự bỏ bờ mê tìm về bến giác trong thời mạt pháp. Du Ngài đã viên tịch, nhưng đến nay mối đạo vẩn được bành trướng có nhiều tỉnh, thị xã hiện nay đang xúc tiến xây cất kiến thiết tại các ngôi chùa Tịnh-Độ Cư-Sĩ cho khang trang lộng lẩy hơn xưa. Chúng tôi có dịp đi qua Kiến-Hòa (Bến Tre), ở Bãi Dâu Vũng-Tàu, thấy xây cất các ngôi chùa gần xong, bổn đạo tận tâm tích cực lo việc Phật sự để noi theo đường lối tu hành của Đức Tôn-Sư như lúc Ngài còn sống. Tỉnh nào cũng có phòng phước thiện hốt thuốc Nam, phòng châm cứu, chữa mắt miễn phí cho đồng bào. Chính tại Giáo-hội Trung-ương, đường Nguyễn-Tri-Phương, Chợ-Lớn, mỗi ngày có hàng trăm người đến hốt thuốc xin chửa bịnh, việc làm trên đây đáng được khích lệ, để nói lên sự chủ trương của Tịnh-độ Cư-sĩ do Đức Tôn-Sư Minh-Trí lãnh đạo ngày nay đâm chồi nẫy lộc khắp cả Nam, Trung hướng về đạo của Ngài lo tu hành và giúp đời bằng mọi phương tiện, nói đến Sa-Đéc mà không giới thiệu cho độc giả biết nơi xuất xứ và đường lối tu hành của Đức Tôn-Sư là một điều thiếu sót lắm vậy.