CHƯƠNG 11
NƠI ĐÂY TỪNG LÀ một căn biệt thự, có lẽ là một nơi nguy nga tráng lệ hơn hết thảy.
Giờ đây nó thật cũ kĩ, đổ nát và có lẽ không còn cứu vãn được nữa.
Căn biệt thự tồn tại từ thời đại đồng tiền được giao dịch tự do, không phải nộp thuế thu nhập, thiên hạ vừa có cuộc sống đáng mơ ước vừa giản dị hơn hiện nay nhiều, và ai cũng sống rất biết thân biết phận. “Toàn cầu hóa” là một thuật ngữ rất đỗi xa lạ, và thông tin lan truyền chậm hơn nhiều, nên hầu hết mọi người đều sống trong cảnh “ngu si hưởng thái bình.”
Đàn ông là trụ cột gia đình. Họ đi làm về, dành thời gian cho gia đình, hít thuốc lá, uống bia, nghe các chương trình radio và về sau là các chương trình truyền hình như bao người khác trên đất nước, rồi đi ngủ và thức dậy bắt đầu vòng lặp mới, trong khi người phụ nữ làm công việc nội trợ.
John Baron nhìn ra nơi từng là khi đất phía sau nhà với cảnh quan tuyệt đẹp của mình, nhưng giờ chỉ là một đống đất với cỏ dại phủ trên.
Anh là một người đàn ông cao lớn, cao trên mét chín, bờ vai rộng và vòng eo nhỏ. Anh có thể chất mạnh mẽ, tràn đầy sung mãn. Tuy nhiên, ở tuổi 37, anh đã cảm thấy sự suy yếu manh nha ở một số cơ cũng như xương khớp khô cứng.
Mái tóc màu muối tiêu của anh đã dài, không được cắt tỉa bởi những tay kéo chuyên nghiệp.
Quần áo của anh là một mớ hỗn độn những món đồ cũ: áo khoác tuxedo bạc màu, quần vải thô, áo polo trắng, và một chiếc thắt lưng da cũ giữ chiếc quần chẽn. Trên chân anh mang đôi ủng lao động. Khuôn mặt phong trần và đẹp trai của anh có phần dạn dày sương gió.
Anh không quan tâm đến ngoại hình của mình.
Anh sống một mình. Chẳng thể khỏe mẽ với ai.
Ngôi nhà tổ tiên anh rộng hơn 2.300 mét vuông, với hơn một nửa là các khu nhà phụ và các công trình kiến trúc khác. Đó là ngôi nhà lớn nhất trong vùng, có lẽ là lớn nhất trong toàn bộ Khối thịnh vượng chung Pennsylvania. Khu đất này từng có diện tích hàng trăm nghìn mét vuông, nằm trên điểm cao nhất của thị trấn cùng tên.
Một nơi phù hợp để nhà Baron nhìn đời bằng nửa con mắt.
Anh đã sống ở đây từ khi sinh ra. Là đứa con duy nhất của Benjamin và Dorothy Baron, cặp vợ chồng cuối cùng cư trú ở đây. Con trai họ chưa lấy vợ.
John Baron từng là một vận động viên cừ khôi, hết sức thông minh và dễ mến. Tương lai của anh dường như được đảm bảo trước - rất chắc chắn và quả khiến người khác phải ganh tị.
Cho đến khi cha mẹ anh qua đời trong cùng một đêm, họ trở thành nạn nhân của một vụ tai nạn khủng khiếp, hoặc một nguyên do khác, bồi thẩm đoàn vẫn chưa đưa ra phán quyết cuối cùng. Hai ông bà bỏ John lại, khi đó anh mới mười chín tuổi, làm người thừa kế duy nhất của họ. Dù biết gia đình mình không còn giàu nứt vách nhưng anh vẫn tin rằng mình dư dả của ăn của để.
Nhưng rồi luật sư và kế toán gặp anh và thông báo rằng khối tài sản để lại là thấp hơn khoản nợ rất nhiều theo tỉ lệ hai mươi trên một. Đời cha ông ăn mặn, giờ đã đến lúc đời con khát nước.
Vậy đó, trong nhiều thập kỉ qua, Baron đã bán đi nhiều phần tài sản còn lại của gia đình và cố gắng thương lượng một cách khéo léo nhất có thể trong một trận chiến tuyệt vọng để giữ lại ngôi nhà. Tuy nhiên, khối bất động sản bị chôn vùi dưới một khoản thế chấp lớn đến mức giờ đây phần lớn thu nhập của anh chỉ đủ để trả lãi. Giống như cha ông mình, anh đã bán thêm đất xung quanh khu bất động sản. Từ hàng trăm mẫu đất đã bị thu gọn xuống còn vài chục mẫu. Các tòa nhà phụ phần lớn đã đổ nát. Còn căn biệt thự là một đống tồi tàn hoang phế. Một khi anh qua đời, không vợ không con, hiển nhiên ngân hàng sẽ lao vào, bán đứt nó, và điều phải đến sẽ đến, một thứ gì đó hiện đại và mới mẻ sẽ thế chỗ nơi này, nếu khi đó Thị trấn Baron vẫn còn tồn tại.
Ngay cả nghĩa trang gia đình, nằm cách xa ngôi nhà và được bao quanh bởi bức tường gạch cao sáu mét, có thể cũng bị đào lên và chuyển đí.
Qua cửa sổ phòng làm việc của mình, anh nhìn mảnh đất thưở ấu thơ anh đã vui vẻ chạy nhảy. Hồi đó anh rất dai sức, nhưng anh chẳng bao giờ có thể chạy cho bằng hết diện tích khu đất của gia đình. Cảm giác đó vừa dễ chịu vừa hổ thẹn.
Anh nhìn qua vai mình về phía những bức tường sách. Anh đã đọc tất cả chúng và đã cố gắng giữ được bao nhiêu thì giữ. Những tập sách hiếm nhất đã được bán từ lâu để thanh toán các hóa đơn. Giữ sách lại cũng chẳng ích gì nếu anh không có tủ sách hoặc chẳng còn nhà cửa để chứa chúng.
Anh đứng dậy, đi đến bàn làm việc và ngồi xuống ghế. Nó kêu cót cét và rên rỉ dưới sức nặng của anh. Mọi thứ trong ngôi nhà này đều rạn nứt và rên siết khi bị chạm vào.
Rạn nứt và rên siết như cái số kiếp của ta vậy .
Nhìn trước ngó sau, đó là một kiếp sống lầm than. Một kiếp sống sẽ dày vò anh cho đến tận hơi thở cuối cùng.
Anh đã đi từ trường về nhà để lo liệu công việc sau khi bố mẹ qua đời. Rồi anh quay lại trường đại học bằng học bổng thể thao và gặp phải chấn thương ở cơ xoay vai. Đó là hồi chuông báo tử cho một vận động viên ném bóng chày. Trong năm học tiếp theo học bổng thể thao của anh bị thu hồi, và khi không có tiền để tiếp tục trang trải, anh phải bỏ học mà không có bằng tốt nghiệp. Nhiều lần cố gắng khởi nghiệp đều thất bại vì thiếu vốn. Có vẻ như những người đã sống quá lâu dưới sự thống trị của nhà Baron giờ đây nghĩ rằng thật khoái trá khi có thể từ chối ban phát bất kì trợ giúp nào cho người cuối cùng trong dòng họ đó.
Mặc dù những người khác đã điều hành suốt nhiều năm, khi khu mỏ và nhà máy cuối cùng đóng cửa, những nhân viên bị sa thải hay đúng hơn là toàn bộ thị trấn, chỉ đổ lỗi cho một người duy nhất về tình cảnh sa sút của họ. Tuy khi đó mới chỉ ở độ tuổi đôi mươi, John Baron đã phải gánh chịu tất cả sự phẫn nộ của thị trấn. Thậm chí mọi người đã lưu truyền một bản kiến nghị đổi tên thị trấn. Bản kiến nghị đó thất bại, có lẽ do cư dân ở đây muốn giữ lại cái tên này để tiếp tục đổ lỗi cho gia đình Baron về những vấn đề họ gặp phải.
John Baron trở thành một kẻ lạc loài. Lẽ ra anh phải chuyển đi. Chỉ cần rời khỏi căn nhà, thị trấn và cuộc sống khốn khổ này làm lại cuộc đời. Tuy nhiên, anh không bỏ đi. Anh không chắc đó là cứng đầu, mất trí hay cả hai gộp lại. Một điều gì đó trong đầu đã ngăn cản anh từ bỏ tất cả và bắt đầu lại ở một nơi khác. Anh nhận ra con người luôn có những suy nghĩ không thể khác cự.
Cuối cùng, anh đã bán đủ số tài sản và trả đủ số hóa đơn để tiếp tục sống ở đây, không có bất kì tiện nghi nào, mà thực sự chỉ để sống qua ngày. Mọi tham vọng cải thiện cuộc sống tốt hơn đã tan biến theo năm tháng.
Khi nhìn đăm đăm vào màn đêm, anh thức tỉnh rằng mình đã hoàn toàn phá hỏng mọi khởi đầu của một cuộc sống đầy hứa hẹn.
Và thị trấn này sẽ tàn phai cùng anh.
Những ngôi nhà và công ty từng đông đúc giờ trống rỗng. Những nhà máy và hầm mỏ sừng sững mà tổ tiên anh đã dựng nên không còn nữa. Thị trấn Baron từng tồn tại như một phần của giấc mơ thịnh vượng của John Baron Đệ nhất. Giờ đây giấc mơ đó trở thành một cơn ác mộng. Của tất cả mọi người.
Từ giá phơi quần áo trên cao của mình, Baron thường dõi theo những chiếc xe tang từ từ tiến vào một trong những nghĩa trang trong thị trấn. Nghĩa trang của nhiều nhà thờ trong vùng đã hết chỗ từ lâu. Anh biết những vụ tử vong do sốc thuốc xảy ra như cơm bữa. Khi không còn hi vọng, mọi người tìm đến kim tiêm và nàng tiên nâu như lối thoát khiến họ quên đi thực tại rằng cuộc sống đã trở nên tuyệt vọng đến mức nào.
Thế nhưng anh cũng nhìn thấy những chiếc xe tải chuyển nhà đến rồi đi, mang theo những gia đình mới cùng những niềm hi vọng mới. Anh không chắc liệu họ chỉ ngẫu nhiên chọn lấy nơi heo hút này hay không. Anh không biết liệu thị trấn này có phù hợp để khởi đầu một cuộc sống mới không nữa.
Có khi câu trả lời là có.
Mặc dù mọi chuyện hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát bản thân, anh tự nhận lỗi lầm của gia đình khiến thị trấn này sa sút như là lỗi lầm của chính anh. Sẽ luôn như vậy. Dù thế nào đi nữa, thị trấn này khiến anh không bao giờ quên rằng anh đã thực sự làm họ thất vọng.
Anh đứng dậy từ phía sau bàn làm việc.
Chưa đến lúc đi ngủ. Anh có một nơi cần phải đến. Việc này thực ra gần như đã trở thành một nghi thức đối với anh.
Anh ra khỏi nhà bằng cửa bếp, xuống hầm để xe chứa được đến sáu chiếc nhưng chỉ đậu duy nhất một chiếc trong suốt ba thập kỉ qua.
Đó là một chiếc Suburban năm 1968 màu xanh lam nhạt của người làm vườn cũ. Baron đã phải cho nghỉ việc tất cả số gia nhân ít ỏi còn lại sau cái chết của cha mẹ mình, nhưng anh vẫn để lại người làm vườn, bởi vì có rất nhiều đất đai cần được chăm sóc. Tuy nhiên, sau khi mảnh đất được bán đi, điều đó đã thay đổi. Người làm vườn, khi ấy đã gần chín mươi tuổi, để lại chiếc xe tải của mình cho Baron và chết trong một viện dưỡng lão gần đó, vài năm sau cái chết của vợ ông ta.
Thật may mắn khi Baron từng là một kĩ thuật viên thời đại học, với một bộ não thiên bẩm giúp anh có thể nắm vững cách thức hoạt động của bất kì loại máy cơ khí nào. Anh đã cố gắng tận dụng hết khả năng của chiếc Suburrban trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, sau năm thập kỉ, anh không chắc chiếc xe còn trụ được bao lâu nữa.
Hay chính bản thân mày còn trụ được bao năm nữa .
Anh leo lên chiếc Suburban và lái xe ra khỏi garage. Cánh cửa cuốn không còn hoạt động, vì vậy anh để chúng mở sẵn, chìa khóa xe tải đặt dưới tấm che nắng.
Anh đi xuống đồi, băng qua những khu dân cư mọc lên từ vùng đất của nhà Baron và đó là nơi có góc nhìn đẹp nhất của thị trấn, chỉ sau chỗ của anh. Ít nhất thì những ngôi nhà đó vẫn có người ở.
Anh đã tiến đến đường chính và tăng tốc.
Anh có tiền trong túi. Anh định sẽ tiêu chúng.
Quán bar Mercury hẳn là nơi duy nhất trong thị trấn mà anh cảm thấy mình có thể có được chút bình yên.
Anh tấp vào một bãi đậu xe trên phố và bước ra.
Anh để lại chiếc áo khoác tuxedo trong xe tải. Anh biết rằng mình vốn là đối tượng dễ bị kiếm chuyện ở cái thị trấn này, vì lẽ đó anh nên tránh ăn bận quá cầu kì.
Anh là người gia tộc Baron. Người cuối cùng.
Và nếu sức khỏe vẫn ổn, anh có thể phải chịu đựng cuộc sống giày vò này thêm ba mươi năm nữa. Không có gì là khi anh cần một hai hay thậm chí là ba li scotch pha soda.
Nhưng tối nay, John Baron của hiện tại sẽ không không được uống rượu trong yên bình.