Hạnh phúc
Mặt trời lên cao, những cái bóng ngả dài trên cát xám, trên lớp bụi của con đường. Các cồn cát dừng lại trước biển. Những cây con mập bự run rẩy trong gió. Trong bầu trời xanh ngắt, lạnh lẽo, không một bóng chim, không một gợn mây. Mặt trời vẫn có đây. Nhưng ánh sáng buổi ban mai hơi lay động một chút như không lấy gì làm chắc chắn lắm.
Dọc theo con đường, men những cồn cát xám, Lalla bước chậm rãi. Thỉnh thoảng cô dừng lại, nhìn một vật gì đó dưới đất. Hoặc cô ngắt một chiếc lá, vò nó trong các ngón tay để nghe cái mùi dìu dịu, cay cay của nhựa cây. Cây có màu lục sẫm, chúng lấp lánh, chúng giống như những loài tảo. Đôi khi có một con ong đất lớn màu vàng ánh trên một lùm cây độc cần, và Lalla chạy đuổi theo nó. Nhưng cô vẫn không đến gần quá bởi phần nào cô vẫn sợ. Khi con côn trùng bay lên, cô chạy theo nó, hai bàn tay giơ thẳng ra như thật sự muốn bắt nó. Nhưng đúng là cô chỉ đùa thôi.
Quanh quẩn nơi đây chỉ có điều này: ánh sáng tít tắp của bầu trời. Những cồn cát lung linh trong cơn gầm gào của biển mà người ta không trông thấy được, nhưng vẫn nghe ra. Những cây con mập bự lấp lánh chất muối trông như một thứ mồ hôi. Đây đó có những con côn trùng, một con bọ rùa xanh xao, một loài ong vò vẽ với thân hình thắt lại như bị cắt làm đôi, một con rết để lại những dấu vết mỏng mảnh của nó trong bụi; và những con ruồi dẹp, màu kim loại, đang bay vo ve tìm kiếm chân và mặt của cô bé để hút chất muối.
Lalla biết rõ tất cả những con đường, tất cả những chỗ trũng của các cồn cát. Cô có thể nhắm mắt mà đi khắp mọi nơi, và cô biết ngay tức khắc mình đang ở đâu, chỉ cần đôi bàn chân trần của cô chạm vào đất. Gió lượn từng hồi qua các cồn cát, ném những nắm lá kim vào da thịt cô bé, làm rối tung mái tóc đen của cô. Lớp áo dài của Lalla dán chặt vào làn da ướt đẫm của cô, cô phải kéo lần vải mới tách nó ra được.
Lalla biết rõ tất cả những con đường, chúng chạy tới những nơi xa tít mù dài theo những cồn cát xám, giữa các bụi rậm, chúng tạo thành một đường cong và vòng lại phía sau, chúng không hề dẫn dắt về đâu. Thế mà mỗi lần đi ở đây, cô lại thấy có cái gì mới mẻ. Hôm nay chính con ong đất vàng đã dẫn cô đi thật xa, khỏi những ngôi nhà của dân chài và khỏi đầm nước mặn. Một hồi sau, giữa các bụi rậm, bỗng hiện ra một khung kim loại han gỉ đang giơ cao móng vuốt và cặp sừng đầy dọa nạt của nó. Tiếp theo, trong Lớp cát của con đường, cô trông thấy một cái vỏ đồ hộp bằng kim loại trắng, không nhãn hiệu, với hai cái lỗ ở hai bên nắp.
Lalla tiếp tục vừa bước thật chậm vừa chăm chú nhìn cát xám khiến hai mắt cô hơi khó chịu. Cô rình rập mọi thứ trên mặt đất, không nghĩ tới điều gì khác, không nhìn trời. Cô dừng bước dưới một cây thông tán lọng, tránh khỏi ánh nắng, và cô nhắm mắt một lúc.
Cô chập hai bàn tay quanh gối, cô vừa lắc lư từ trước ra sau rồi hai bên, vừa hát nho nhỏ một bài hát bằng tiếng Pháp, một bài hát chỉ vỏn vẹn như thế này:
"Địa Trung H-a-a-ả-i..."
Lalla không biết điều đó có nghĩa gì. Đó là một bài hát mà hôm nọ cô nghe qua máy thu thanh, và cô chỉ còn nhớ cái từ đó, mà cô rất thích. Thế rồi thỉnh thoảng, khi cô cảm thấy thoải mái, khi không phải làm gì, hoặc trái lại khi thấy hơi buồn mà không hiểu tại sao, cô hát cái từ đó lên, đôi lúc là hát nho nhỏ đủ cho cô nghe, cô hát êm đềm đến nỗi hầu như chính cô cũng không nghe ra, hoặc cô hát thật lớn giọng, gần như đinh tai nhức óc, để đánh thức những âm vang hoặc xua đuổi cái sợ.
Bây giờ thì cô đang hát cái từ đó, giọng nhỏ nhẹ, bởi cô đang hạnh phúc. Những con kiến đỏ đầu đen to tướng đang bò trên tán lá thông, ngập ngừng, rồi bò lên các cành nhỏ. Lalla xua chúng bằng một cành cây khô. Cô nghe ra mùi của cây theo gió bay đến, hòa lẫn với mùi hăng của biển. Cát tung lên từng hồi trong bầu trời, tạo thành vòi rồng lắc lư qua lại, giữ thế quân bình trên chóp những cồn cát, sau đó cùng lúc vỡ tan đồng thời ném ra hàng nghìn lá kim vào chân và vào mặt cô bé.
Lalla vẫn đứng dưới bóng cây thông lớn cho tới khi mặt trời đã lên cao trong bầu trời. Sau đó cô quay bước trở lại: đi về phía thành phố, không vội vàng gì. Cô nhận ra những dấu chân của chính cô trên cát. Những dấu chân dường như nhỏ và hẹp hơn đôi bàn chân của cô, nhưng khi quay bước trở lại, cô xác nhận đúng đó là những dấu chân của mình. Cô nhún vai và bắt đầu chạy. Gai nhọn của mây cây cúc gai đâm vào ngón chân của cô. Thỉnh thoảng cô phải dừng lại, sau khi đi khập khiễng vài bước, để rút gai ra khỏi ngón chân cái
Luôn luôn có những con kiến bất luận người ta dừng bước ở đâu. Dường như chúng bò ra từ những hòn sỏi và chạy trên cát xám nóng bỏng dưới ánh mặt trời, như thể chúng là điệp viên không bằng. Nhưng Lalla vẫn rất thích chúng. Cô cũng thích những con rết chậm chạp, những con bọ da nâu ánh vàng, những con bọ hung, những con bọ hươu, những con bọ mật sọc đen, những con bọ rùa, những con cào cào trông giống như mẩu củi cháy. Những con bọ ngựa to trông dễ sợ, và Lalla vẫn đợi cho chúng bay đi, hoặc cô vừa tránh chúng vừa nhìn chúng không rời mắt, trong khi chúng vừa xoay quanh thân mình vừa quờ quờ những cái càng.
Có cả những con thằn lằn màu xám và màu lục. Chúng vẫy đuôi để chạy nhanh hơn, lẩn trốn về phía các cồn cát. Thỉnh thoảng Lalla bắt được một con, và cô đùa nghịch bằng cách nắm nó bằng đuôi cho đến khi cái đuôi đứt ra. Cô nhìn khúc đuôi đó vặn vẹo một mình trong bụi. Hôm nọ, một đứa con trai đã nói với cô rằng nếu chờ đợi thì người ta sẽ thấy chân và đầu mọc lại nơi cái đuôi của con thằn lằn, nhưng Lalla không tin vào điều đó lắm.
Nhất là có những con ruồi. Lalla thích chúng lắm, mặc dù chúng hay vo ve và hay chích. Cô không hiểu rõ tại sao cô lại thích chúng, nhưng mà cô thì như vậy đó. Có thể do những cái chân thật thanh mảnh của chúng, đôi cánh trong suốt của chúng, hoặc bởi vì chúng biết bay nhanh, tới trước, ra sau, hay bay ngoằn ngoèo, và Lalla nghĩ chúng phải cừ lắm mới bay được như thế.
Cô ngả lưng lên cát, và những con ruồi dẹp lần lượt đậu trên mặt cô, trên hai bàn tay của cô, trên đôi chân trần của cô. Chúng không đến cùng lúc bởi lúc đầu chúng hơi sợ Lalla. Nhưng chúng thích hút mồ hôi mặn trên da, và chẳng bao lâu sau chúng trở nên dạn dĩ. Khi chúng di chuyển trên những cái chân nhẹ bẫng, Lalla bắt đầu cười, nhưng không lớn tiếng lắm, để khỏi làm chúng sợ. Đôi khi một con ruồi dẹp chích vào má Lalla, và cô khẽ kêu lên giận dữ.
Lalla đùa khá lâu với những con ruồi. Đó là những con ruồi dẹp sống trong đám tảo giạt vào bờ biển. Nhưng cũng có những con ruồi đen trong các ngôi nhà trong thành phố, trên những tấm vải đánh xi, trên những bức vách bằng các tông, trên những mặt kính. Có những tòa nhà ở hãng nước đá với đàn ruồi xanh to tướng, bay trên thùng rác gây nên những âm thanh rền rĩ.
Lalla chợt đứng dậy. Cô chạy thật nhanh về phía cồn cát. Cô leo lên dọc cát đang sụt lở dưới đôi bàn chân trần. Mấy cây cúc gai đâm vào các ngón chân nhưng cô mặc kệ. Cô muốn leo lên cao trên các cồn cát để nhìn biển, leo càng nhanh càng tốt.
Trên cao, gió thổi lồng lộng vào mặt cô, và Lalla suýt ngã ngửa ra sau. Gió biển lạnh, làm hai cánh mũi cô sít lại và làm rát mắt cô, biển thì bao la, màu xanh xám, lốm đốm bọt, nó gầm gào trong âm thầm, những đợt sóng ngắn của nó tràn vào bãi cát nơi phản chiếu màu xanh sẫm của bầu trời rộng lớn.
Lalla nghiêng người về phía trước, ngược chiều gió. Cái áo dài (thật ra là một cái áo sơ mi con trai bằng vải trúc bâu mà cô của Lalla đã cắt tay) dán sát vào bụng và hai bắp đùi của cô, như thể cô mới vừa ở dưới nước lên. Tiếng gió và tiếng sóng biển rít trong tai cô, khi thì ở bên trái, khi thì ở bên phải, hòa lẫn với tiếng phần phật nho nhỏ do lọn tóc quất vào hai bên thái dương. Thỉnh thoảng gió ném một nắm cát vào mặt Lalla. Cô phải nhắm mắt lại để khỏi dặm. Nhưng gió vẫn làm cô chảy nước mắt, và trong miệng cô những hạt cát lạo xạo giữa hai hàm răng.
Sau đó, khi đã đủ say với gió và biển, Lalla bước trở xuống bức thành của những cồn cát. Cô ngồi xổm một hồi dưới chân cồn cát để lấy lại hơi thở. Gió không đến từ bên kia những cồn cát. Nó thổi ở bên trên, nó thổi về phía nội địa, tới tận các ngọn đồi màu lam lãng đãng sương mù. Gió không chờ không đợi. Nó làm điều nó thích và Lalla sung sướng khi gió ở đó, ngay cả khi nó làm cho mắt và tai cô cay xè, ngay cả khi nó ném những nắm cát vào mặt cô. Cô thường nghĩ tới nó, và biển nữa, khi cô đang ở trong căn nhà tối tăm ở cư xá, và khi không khí trở nên ngột ngạt khó chịu; cô nghĩ tới gió, nó lớn lao, trong suốt, không ngớt chồm lên trên mặt biển, trong khoảnh khắc đã vượt qua sa mạc, tới tận những rừng thông bá hương, và nó nhảy múa ở đó, dưới chân những ngọn núi giữa chim và hoa. Gió không chờ không đợi. Nó vượt qua các ngọn núi, nó quét cát, bụi, tro, nó lật nhào những tấm các tông, đôi khi nó vào tận thành phố của những tấm ván và các tông quét hắc ín, nó đùa nghịch bằng cách tháo tung mấy mái nhà và mấy bức vách. Nhưng điều đó cũng không hề hấn gì. Lalla nghĩ nó đẹp đẽ, trong như nước, nhanh như sấm sét và mạnh mẽ đến độ có thể phá hủy mọi thành phó trên thế giới nếu nó muốn, ngay cả những thành phố có những tòa nhà cao ngất và trắng toát với cửa sổ to bằng kính.
Lalla biết đọc tên nó, cô tự học được điều đó, khi cô còn nhỏ và khi cô nghe nó đến giữa những tấm ván của căn nhà vào ban đêm. Nó tên là uôôôôô, thế đấy, vừa đọc vừa rít lên.
Xa hơn một chút trong các bụi rậm, Lalla gặp lại nó. Nó vạch đám cỏ vàng như một bàn tay lướt qua.
Một con chim bồ cắt gần như bất động ở phía trên đồng cỏ, hai cánh màu đồng sải trong gió. Lalla nhìn, cô thán phục nó bởi nó biết bay trong gió. Con chim bồ cắt chỉ hơi chuyển động ở đầu các lông cánh, hơi xòe đuôi theo hình cánh quạt, và nó bay lượn không cần cố gắng với cái bóng có hình chữ thập rung rinh trên đám cỏ vàng. Thỉnh thoảng nó cất lên những tiếng rên rỉ, nó chỉ nói cắt! cắt! và Lalla đáp lại nó.
Rồi thoắt một cái nó nhào xuống về phía mặt đất, đôi cánh nó khép lại, lướt trên cỏ một hồi lâu, giống như một con cá lướt dưới đáy biển, nơi các loài tảo đang lay động. Cứ thế mà nó mất hút ngoài xa giữa những lá cỏ ngả nghiêng. Lalla rên rỉ và than thở cũng vô ích, cắt! cắt! con chim không trở lại nữa.
Nhưng nó vẫn còn rất lâu trong đôi mắt cô, cái bóng hình mũi tên lướt sát đám cỏ vàng như một cái vạch, không gây tiếng động, trong sự hồi hộp của cô.
Lalla vẫn nằm bất động, đầu ngửa ra sau, hai mắt mở to hướng về bầu trời trắng, nhìn những vòng tròn di động tại chỗ, cắt nhau, như khi người ta ném hòn sỏi vào bể nước. Không có côn trùng, không có chim chóc, hay một con vật gì thuộc giống loài này, và tuy thế, người ta lại trông thấy hàng nghìn cái chấm đang động đậy trong bầu trời, như thể trên cao kia có vô số giống kiến, bọ đầu dài và ruồi. Chúng không bay trong không khí trắng lóa; chúng đang hối hả đi về khắp mọi ngả, vội vã bồn chồn, như thể chúng không biết thoát về đâu. Có thể đó là những khuôn mặt của tất cả những con người kia đang sống trong các thành phố, những thành phố lớn đến độ người ta không bao giờ rời khỏi được, những nơi có lắm xe, lắm người, những nơi người ta không thể nào gặp hai lần cùng một khuôn mặt. Đâu đó, chính ông lão Naman đã kể khi ông đồng thời nhắc tới những cái tên kỳ lạ. Algésừas, Madrid (ông nói: Madris), Marseille, Lyon, Paris, Genève.
Không phải lúc nào Lalla cũng trông thấy những khuôn mặt đó. Chỉ có một số ngày, khi gió nổi lên xua mây về phía những ngọn núi, và khi không khí trắng lóa rung vang trong ánh nắng mặt trời; lúc đó người ta có thể trông thấy họ, những con người-côn trùng, họ nhúc nhích, đi đứng, chạy nhảy, khiêu vũ, ở trên cao kia, khó mà trông thấy được, giống như những con muỗi li ti.
Sau đó, biển lại gọi cô. Lalla chạy băng qua các bụi rậm tới tận những cồn cát xám. Những cồn cát trông giống con bò cái đang nằm, trán cúi thấp xuống, xương sống vồng lên. Lalla thích leo lên lưng chúng, bằng cách vạch một lối đi cho riêng mình, với hai bàn tay và hai bàn chân, rồi lăn tròn sang phía bên kia hướng về lớp cát của bãi biển. Sóng vỗ vào bãi biển cứng nhắc, tạo nên những âm thanh vang dậy, rồi nước rút đi và bọt nước vỡ tan trong ánh nắng. Nơi đây đầy ắp ánh sáng và tiếng động đến độ cô buộc lòng phải nhắm mắt và ngậm miệng lại. Chất muối của biển nóng bỏng trên mí mắt và môi cô, gió ập đến hàng loạt đã chặn hơi thở trong cổ họng cô. Nhưng Lalla vẫn thích được gần biển. Cô bước xuống nước, sóng vỗ vào chân, vào bụng cô, dán chặt lớp áo sơ mi màu lam vào da cô. Cô cảm thấy đôi chân lún sâu trong cát như hai cái cọc. Nhưng cô không dám ra xa hơn bởi thỉnh thoảng biển vẫn vô tình chụp lũ trẻ để rồi hai hôm sau đưa chúng lên Lớp cát cứng của bãi biển, bụng và mặt căng nước, mũi, môi, các đầu ngón tay và bộ phận sinh dục đều bị cua ăn.
Lalla đi trên cát, dọc theo mé nước. Áo cô ướt tới tận ngực đang khô đi trong gió. Mái tóc đen nhánh của cô bị gió tạt lại, hất về một bên và dưới ánh mặt trời, khuôn mặt cô rực lên một màu đồng.
Cách quãng lại có những con sứa bị mắc cạn trên cát với những sợi tua quăn lõa xõa quanh như một mái tóc. Lalla nhìn những cái lỗ hình thành trong cát mỗi khi sóng rút đi. Cô cũng chạy sau những con cua xám bé xíu đang lủi ngang chạy trốn, thân thể nhẹ hều, giống như những con nhền nhện, càng chúng giơ lên, và điều này khiến cô bật cười khoái trá. Nhưng cô không tìm cách bắt chúng như những đứa trẻ khác vẫn làm; cô để chúng thoát thân trong biển, biến mất trong bọt nước lấp lánh.
Lalla vẫn đi dọc theo bờ biển, miệng luôn hát nho nhỏ bài hát chỉ có một từ duy nhất:
"Địa Trung H-a-a-ả-i... "
Sau đó, cô đến ngồi dưới chân những cồn cát, trước bờ biển, hai cánh tay vòng quanh đầu gối và khuôn mặt giấu trong nếp áo sơ mi, để khỏi hít phải cát theo gió bay vào cô.
Cô vẫn luôn đến ngồi cùng một chỗ, nơi có cái trụ gỗ đã mục nhô lên khỏi nước, nơi trũng của sóng biển, và một cây sung to mọc trong đám sỏi giữa các cồn cát. Cô đợi Naman ông lão đánh cá.
Naman ông lão đánh cá không giống mọi người. Đó là một người đàn ông khá cao lớn, gầy guộc, với đôi vai rộng và một khuôn mặt xương xẩu với nước da màu gạch. Ông luôn đi chân trần, mặc quần dài bằng vải màu xanh lam, áo sơ mi trắng quá rộng đối với ông luôn phất phơ trong gió. Nhưng ngay cả trong bộ dạng như vậy, Lalla vẫn thấy ông thật đẹp, thật có duyên, và tim cô luôn đập hơi mạnh một chút khi biết ông sắp tới. Ông có khuôn mặt sắc nét, dạn dày với gió biển, còn làn da nơi trán và hai má của ông thì căng ra, sạm đen vì nắng biển. Tóc ông dày, cùng màu với da ông. Nhưng nhất là mắt ông nổi bật với cái màu khác thường, màu xanh lục pha với màu xám, sáng quắc và trong suốt trên khuôn mặt sạm nâu như thể chúng lưu giữ đầy đủ ánh sáng và sự trong suốt của biển cả. Chính vì để ngắm nhìn đôi mắt của ông mà Lalla thích đợi người đánh cá trên bãi biển, gần cây sung to, cũng là để nhìn ngắm nụ cười của ông khi ông trông thấy cô.
Cô đợi ông khá lâu, cô ngồi trong cát nhẹ của cồn cát, dưới bóng cây sung to. Cô hát lầm rầm, hai cánh tay che đầu để khỏi nuốt phải quá nhiều cát. Cô hát lên cái từ mà cô rất thích, nó dài và đẹp, chỉ vỏn vẹn thế này: "Địa Trung H-a-a-ả-i...".
Cô vừa đợi vừa nhìn biển đang xấu đi với màu lam xám như ánh thép, và một thứ mây nhợt nhạt che phủ đường chân trời. Đôi khi cô tưởng mình trông thấy một cái chấm đen đang nhảy múa trong những ánh phản chiếu, giữa những ngọn sóng, và cô hơi nhổm dậy bởi cô tưởng đó là con thuyền của Naman đang tới. Nhưng cái chấm đen biến mất. Đó là một ảo ảnh trên biển, cũng có thể là lung một con cá heo.
Chính Naman đã nói với cô về những con cá heo. Ông đã kể về đàn cá heo lưng đen chồm lên trong sóng biển trước mũi tàu một cách vui vẻ như để chào những người đánh cá rồi kéo nhau đi một loạt, biến mất về phía chân trời. Naman thích kể cho Lalla những câu chuyện về cá heo. Khi ông nói, ánh sáng của biển rực lên trong đôi mắt ông, và Lalla tưởng chừng thấy thấp thoáng những con vật đen nhánh qua màu sắc của đôi mống mắt. Nhưng dù cô hết sức căng mắt nhìn biển, cô cũng không thể trông thấy những con cá heo. Chắc chắn là chúng không thích đến gần bờ.
Naman kể chuyện một con cá heo đã dẫn dắt một con tàu đánh cá vào tận bờ biển vào cái ngày nó bị lạc trong giông tố. Mây kéo xuống mặt biển và phủ kín nó như một tấm màn, giông gió dữ dội đã làm gãy cột buồm con tàu. Trận bão đã cuốn con tàu của người đánh cá đi thật xa, xa đến nỗi hắn không còn biết đâu là bờ nữa. Con tàu trôi dạt trong hai ngày giữa những đợt sóng dữ đe dọa lật nhào nó. Người đánh cá nghĩ mình đã tuyệt vọng và đang lo đọc kinh cầu nguyện thì một con cá heo to xuất hiện giữa những đợt sóng biển. Nó nhảy lên quanh con tàu, nó đùa giỡn với sóng biển như loài cá heo vẫn thường làm. Rồi bỗng đâu, nó bắt đầu hướng dẫn con tàu đi. Thật khó hiểu, nhưng đó là điều mà nó đã làm, nó bơi sau con tàu, và nó đẩy con tàu về phía trước. Đôi lúc nó bỏ đi, biến mất trong sóng biển, và người đánh cá tưởng nó đã bỏ rơi mình. Nhưng rồi nó trở lại, và nó lại bắt đầu đẩy con tàu bằng cái trán của nó, và đập nước bằng cái đuôi khỏe mạnh của nó. Cứ thế mà họ đi suốt một ngày, và đến tối, khi mây tan trên bầu trời, cuối cùng người đánh cá thoáng thấy ánh sáng bờ biển. Hắn hét to và bật khóc vì vui mừng bởi hắn biết mình đã thoát nạn. Khi con tàu đó đến gần cảng, con cá heo quay đầu lại và lại lên đường hướng về biển cả, và người đánh đã nhìn nó rời xa, với cái lưng đen to mập lấp lánh trong ánh sáng buổi hoàng hôn.
Lalla rất thích câu chuyện ấy. Cô thường đưa mắt tìm kiếm trên mặt biển, hy vọng trông thấy con cá heo đen vĩ đại, nhưng Naman bảo rằng chuyện đó đã xảy ra từ lâu lắm và giờ đây con cá heo hẳn đã già.
Như mọi buổi sáng, Lalla vẫn ngồi đợi dưới bóng cây sung to. Cô nhìn ra biển màu xanh xám, nơi những ngọn sóng đang lao tới. Những đợt sóng đổ vào bờ theo một con đường xiên xiên, trước tiên chúng vỗ vào phía Đông hướng về mũi đá, rồi vào phía Tây, phía con sông. Cuối cùng chúng vỗ vào giữa. Gió lồng lên, hốt bọt nước ném ra xa, về phía những cồn cát; bọt nước trộn lẫn vào cát và bụi.
Khi mặt trời lên khá cao trên bầu trời không mây, Lalla quay bước trở về Cư xá, không chút vội vàng, bởi cô biết khi về tới nơi cô sẽ có công việc để làm. Phải đi lấy nước nơi máng nước, với cái bi đông cũ kỹ gỉ sét giữ thăng bằng trên đầu, sau đó phải ra sông giặt quần áo, nhưng mà chuyện này thì được hơn bởi cô có thể nói chuyện với mọi người và nghe họ kể đủ mọi thứ chuyện khó tin trên đời, nhất là chuyện cô gái nọ tên Ikikr, có nghĩa là hạt đậu còi, theo ngôn ngữ Berbère, do cô ta có một cái mụn cóc trên má. Nhưng có hai việc mà Lalla chẳng thích chút nào, là đi tìm cành cây con để nhóm lửa và xay lúa mì để làm bột.
Thế là cô trở về thật chậm rãi, bước chân hơi kéo lê trên đường mòn. Bây giờ cô không hát nữa, bởi đó là giờ mà cô có thể gặp mọi người trên những cồn cát, các cậu trai đi thăm bẫy chim, hoặc những người đàn ông đi làm việc. Thỉnh thoảng các cậu trai vẫn chế giễu cô, bởi cô không rành đi chân trần lắm và bởi cô không biết những tiếng thô tục. Trông thấy họ từ xa, cô liền núp sau bụi gai gần một cồn cát, đợi họ đi qua.
Còn có người đàn bà dễ sợ kia nữa. Bà ta không già nhưng rất bẩn thỉu, với mái tóc có màu đen, đỏ lẫn lộn, với quần áo bị gai cào rách. Khi bà ta tới con đường của những cồn cát, cô phải chú ý cẩn thận bởi bà ta rất hung dữ lại không thích trẻ con. Mọi người gọi bà ta là Aĩcha Kondicha, nhưng đó không phải là tên thật của bà ta. Không ai biết tên thật bà ta là gì. Người ta nói bà ta bắt cóc con nít để làm chúng đau đớn. Khi Lalla nghe tiếng bà ta bước tới trên con đường, cô trốn sau một bụi cây, và cô nín thở. Aĩcha Kondicha vừa đi qua vừa lầm bầm những câu khó hiểu. Bà ta dừng lại một hồi, ngẩng đầu lên bởi bà ta cảm thấy có ai đó. Nhưng vì bà ta gần như mù nên không thể thấy Lalla. Rồi bà ta lại đi vừa bước khập khiễng vừa hét lên những câu nguyền rủa với cái giọng gớm ghiếc.
Vài buổi sáng, trong bầu trời có một cái gì đó mà Lalla rất thích; đó là một áng mây trắng to, thon, dài bay ngang bầu trời đúng vào nơi có nhiều màu xanh nhất. Ở đầu sợi chỉ trắng người ta trông thấy một hình chữ thập nhỏ lấp lánh bạc chầm chậm lướt tới, cao đến nỗi khó lòng nhìn rõ được. Lalla ngắm nhìn hồi lâu hình chữ thập đang lướt tới trong bầu trời, đầu ngửa ra sau. Cô thích nhìn cái cách nó lướt tới trong bầu trời xanh bao la, không gây tiếng động, để lại phía sau vệt mây trắng dài kia làm nên từ những hình cầu nhỏ, trắng như bông hòa trộn vào nhau và rộng ra như một con đường, rồi gió thổi qua trên vệt mây đó và lau sạch bầu trời. Lalla nghĩ mình rất thích được ở trên cao ấy, trong cái hình chữ thập bạc đó, bay trên biển, trên các hòn đảo, cứ như vậy, tới tận những vùng đất xa xôi nhất. Cô tiếp tục nhìn bầu trời rất lâu sau khi chiếc phi cơ đã biến mất.
Cư xá xuất hiện nơi khúc quanh của con đường khi cô đã rời bước khỏi biển và cuốc bộ nửa tiếng đồng hồ hướng về dòng sông. Lalla không hiểu tại sao nơi này lại gọi là Cư xá, bởi lúc đầu chỉ có mươi túp lều bằng ván và giấy quét hắc ín ở bên kia dòng sông, và những khoảng đất trống tách biệt với thành phố. Có thể người ta nghĩ ra cái tên này để giúp mọi người quên rằng họ sống với chó và chuột, giữa bụi bặm bao quanh.
Chính đây là nơi Lalla đã tới ở khi mẹ cô chết, chuyện xảy ra lâu đến độ cô không còn nhớ rõ mình đã tới vào lúc nào nữa. Trời thật nóng bức, bởi đang là mùa hè, và gió thổi tung bụi lên những cái chòi bằng ván. Cô đã nhắm mắt theo sau người cô của mình tới tận căn lều không cửa sổ, nơi mấy người con trai của người cô đó đang sống. Lúc bấy giờ, cô muốn chạy xa khỏi nơi này, đi vào con đường dẫn về phía những ngọn núi cao, để không bao giờ trở lại nữa.
Mỗi lần từ các cồn cát trở về và trông thấy những mái nhà lợp bằng tôn múi và bằng giấy quét hắc ín, Lalla nghe tim mình thắt lại và nhớ tới ngày cô tới cư xá lần đầu. Nhưng điều đó đã xa lắm rồi, như thể tất cả những gì xảy ra trước đây đã không thực sự đến với cô, như thể đó chỉ là một câu chuyện mà cô đã nghe kể lại.
Chuyện đó cũng giống như ngày cô chào đời, trong vùng núi ở miền Nam, nơi khởi đầu của sa mạc. Thỉnh thoảng, vào mùa đông, khi không có việc gì làm ở bên ngoài, và khi gió thổi mạnh trên đồng bằng đầy bụi và muối, và rít lên qua những khe hở giữa các tấm ván trong nhà Aamma, Lalla ngồi trên nền đất, cô lắng nghe câu chuyện về sự chào đời của cô.
Câu chuyện thật dài và kỳ lạ, và Aamma không bao giờ kể cho cô nghe cùng một cách. Bằng giọng nói có phần nào như hát, và vừa lắc lư đầu như sắp ngủ, Aamma kể:
"Ngày cháu được dự kiến ra đời là lúc sắp vào hạ, trước mùa khô hạn. Hawa cảm thấy con mình sắp sửa chào đời, và vì lúc đó mọi người còn ngủ, mẹ cháu đã ra khỏi căn lều không gây tiếng động. Mẹ cháu chỉ ôm chặt bụng với một mớ khăn vải, và mẹ cháu cố hết sức bước ra ngoài, đến nơi có cây to và suối bởi mẹ cháu biết khi mặt trời ló dạng, mẹ cháu sẽ cần tới bóng mát và nước. Tập tục ở đó là như vậy, người ta luôn phải sinh nở bên một dòng suối. Thế rồi mẹ cháu bước ra tận đó, mẹ cháu nằm xuống gần một gốc cây và mẹ cháu đợi cho qua đêm. Không ai biết mẹ cháu ở bên ngoài. Mẹ cháu biết cách đi không gây tiếng động, không làm cho chó sủa. Thê nhưng ngay đến cô nằm ngủ bên mẹ cháu, cô cũng không nghe tiếng mẹ cháu rên rỉ hay ngồi dậy bước ra khỏi lều..."
"Sau đó xảy ra chuyện gì, hở cô Aamma?"
"Sau đó, trời sáng, bấy giờ những người đàn bà đã thức giấc, và người ta thấy mẹ cháu không có trong lều và người ta biết tại sao mẹ cháu bước ra ngoài. Thế là cô đi tìm mẹ cháu, về phía dòng suối, và khi cô tới nơi thì mẹ cháu đang đứng sát vào thân cây, hai tay bám chặt vào một cành cây, và mẹ cháu rên rỉ rất khẽ để khỏi đánh thức đàn ông và trẻ con..."
"Rồi chuyện gì xảy ra, hở cô Aamma?"
"Thế rồi cháu chào đời, ngay tức khắc, như vậy đó, dưới đất, giữa đám rễ cây, và cô đã lau rửa cháu trong nước suối, rồi quấn cháu trong cái áo khoác bởi cái lạnh của đêm vẫn còn. Mặt trời lên và mẹ cháu đã trở về lều để ngủ. Cô nhớ lúc đó không có vải để quấn cháu, và cháu đã ngủ trong cái áo khoác xanh của mẹ cháu. Mẹ cháu rất hài lòng vì cháu ra đời thật nhanh, nhưng mẹ cháu cũng buồn vì cha cháu đã chết, mẹ cháu nghĩ mình không đủ tiền để nuôi cháu, và mẹ cháu sợ phải buộc lòng mang con đi cho một ai khác."
Thỉnh thoảng Aamma vẫn kể câu chuyện khác đi, như thể chị không còn nhớ rõ nữa. Chẳng hạn chị nói Hawa đã không níu lấy cành cây mà bám vào sợi thừng gàu múc nước của một cái giếng, và mẹ cô đã dùng hết sức để kéo nó, hòng chống lại những cơn đau. Hoặc chị nói rằng một người chăn cừu đi ngang qua đã đỡ đẻ cho đứa bé, và đã bọc nó trong cái áo khoác len của mình. Nhưng tất cả chuyện đó thật ra có vẻ mù mờ khó hiểu, như thể nó thuộc một thế giới nào khác, ở bên kia sa mạc, nơi có một bầu trời khác, một mặt trời khác.
"Vài ngày sau mẹ cháu đã có thể một mình bước ra giếng để rửa ráy, chải tóc. Mẹ cháu địu cháu trong cùng cái áo khoác xanh đó và quấn nó quanh người. Mẹ cháu đi từng bước ngắn bởi chưa được khỏe như trước nhưng mẹ cháu rất hạnh phúc vì cháu đã ra đời, và khi người ta hỏi tên cháu thì mẹ cháu bảo rằng cháu cùng tên với mẹ, Lalla Hawa, bởi cháu là con của một nữ quý tộc."
"Cô làm ơn nói cho cháu biết về người mà người ta gọi là Al Azraq, Người Đàn Ông Xanh đi."
Nhưng Aamma lắc đầu:
"Bây giờ không được cháu à, để hôm khác."
"Làm ơn đi, cháu van cô, hãy nói về người ấy."
Nhưng Aamma lắc đầu không đáp. Chị đứng dậy và đi nhồi bánh trong cái đĩa to bằng đất ở gần cửa. Aamma như vậy đó; chị không bao giờ muốn nói nhiều quá, và chị cũng không bao giờ nói nhiều lời về Người Đàn Ông Xanh hay Moulay Ahmed ben Mohammed el Fadel, người vẫn được gọi là Ma el Aĩnine, Nước Mắt.
Điều kỳ lạ, ở đây, trong Cư xá, là mọi người đều rất nghèo, nhưng không một ai than vãn bao giờ. Cư xá chủ yếu là những túp lều bằng ván và kẽm, với mái lợp bằng những tờ giấy lớn quét hắc ín được dằn chặt bằng những hòn đá. Khi gió thổi thật mạnh trên thung lũng, người ta nghe tiếng cồm cộp của những tấm ván, tiếng leng keng của những mẩu kẽm cùng tiếng lốp đốp của tờ giấy quét hắc ín đang rách hàng loạt. Tất cả tạo thành một thứ nhạc điệu kỳ dị, nó đu đưa, nó kêu răng rắc, như thể người ta đang trong một chiếc xe buýt cà tàng trên con đường đất, hoặc như thể có hàng đống con vật và chuột đang chạy trên các mái nhà, dọc theo các khe tường
Đôi khi bão tố thật khốc liệt, nó càn quét tất cả. Hôm sau người ta phải xây dựng lại Cư xá. Nhưng mọi người vừa làm việc này vừa cười đùa, vì họ quá nghèo đến độ không sợ mất những gì đang có. Cũng có thể là họ lấy làm hài lòng vì sau trận bão, bầu trời trên đầu họ sẽ rộng hơn, xanh hơn và ánh sáng còn rực rỡ hơn. Dù sao, quanh Cư xá không có gì khác hơn ngoài mặt đất phẳng bẹt, với gió thổi tung bụi, và biển bao la đến mức người ta không thể nhìn trọn vẹn.
Lalla rất thích nhìn bầu trời. Cô thường đi về phía các cồn cát, nơi con đường cát chạy thẳng về phía trước, và cô ngả lưng ngay trên cát và trên những cây cúc gai, hai cánh tay bắt chéo. Thế rồi bầu trời rộng mở trên khuôn mặt láng mịn của cô, nó tỏa sáng như một tấm gương, yên ả, thật yên ả, không gợn mây, không bóng chim, không bóng phi cơ.
Lalla mở mắt thật to, cô để cho bầu trời nhập vào người cô. Tạo thành một cảm giác chao đưa như thể cô đang trên một con tàu, hoặc như thể cô hút quá nhiều thuốc lá khiến cô xây xẩm mặt mày. Đó là do mặt trời. Nó thiêu đốt dữ dội, dù gió biển lạnh ngắt; nó thiêu đốt dữ dội đến độ hơi nóng của nó len vào thân thể cô, lấp đầy bụng cô, phổi cô và tay chân cô. Nó gây khó chịu, khó chịu cho đôi mắt, cho cái đầu, nhưng Lalla vẫn bất động bởi cô rất thích mặt trời và bầu trời.
Khi cô nằm đó, duỗi dài trên cát, xa những đứa trẻ khác, xa khu Cư xá đầy ắp tiếng ồn và mùi, và khi bầu trời thật xanh như hôm nay, Lalla có thể nghĩ tới những gì cô yêu thích. Cô nghĩ tới người mà cô gọi là Es Ser, Bí Mật, người có cái nhìn như ánh sáng mặt trời luôn bao bọc và chở che.
Nơi đây, Cư xá, không ai biết chú, nhưng thỉnh thoảng, khi bầu trời thật đẹp và khi ánh sáng rực rỡ trên mặt biển và trên những cồn cát, thì cái tên Es Ser như xuất hiện khắp nơi, vang âm khắp nơi, tới tận vùng sâu thẳm của cô. Lalla tưởng chừng đang nghe giọng nói của chú, nghe tiếng bước nhẹ tênh của chú, cô cảm thấy trên da mặt của mình thứ lừa nóng phát ra từ cái nhìn của chú vốn trông thấy tất cả, xuyên thấu tất cả. Đó là cái nhìn đến từ bên kia những ngọn núi, bên kia vùng Draa, nơi tận cùng sa mạc, và ánh lên một thứ ánh sáng không thể tan biến được.
Không ai biết gì về chú. Khi Lalla nói về Es Ser, Naman ông lão đánh cá lắc đầu, bởi ông chưa từng nghe tên chú và không hề nhắc tới chú trong những câu chuyện của ông. Tuy nhiên đó đúng là tên thật của chú. Lalla nghĩ, bởi đó là cái tên mà cô đã nghe. Ngay cả Aamma chắc cũng không biết gì về chú. Nhưng đó là một cái tên đẹp, Lalla nghĩ, một cái tên khiến người ta dễ chịu mỗi khi nghe thấy.
Chính vì để được nghe cái tên đó, để được nhìn thấy ánh sáng trong cái nhìn của chú, mà Lalla luôn đi xa, giữa những cồn cát, nơi không còn gì khác ngoài biển, cát và bầu trời. Bởi Es Ser không thể làm cho người ta nghe ra tên chú, cũng không thể trao tặng ánh sáng trong cái nhìn của chú khi Lalla ở trong khu Cư xá bằng ván và giấy quét hắc ín. Chú là một kẻ không thích tiếng động và mùi. Chú phải một thân một mình trong gió, cô đơn như một cánh chim lơ lửng trong bầu trời.
Những người ở đây không biết tại sao cô lên đường. Có thể họ nghĩ rằng cô đi tới tận những ngôi nhà của đám người chăn cừu ờ bên kia những ngọn đồi đá. Họ không nói gì.
Mọi người đang chờ đợi. Nơi đây, Cư xá, thực ra họ không biết làm gì hơn. Họ đã dừng chân, không xa bờ biển lắm, trong những túp lều bằng ván và kẽm, họ im lìm bất động, họ nằm trong bóng tối dày kịt. Khi trời rực sáng trên sỏi và bụi, họ bước ra ngoài trong khoảnh khắc, như thể sắp có một điều gì xảy ra. Họ nói năng chút ít, các cô gái tới máy nước, các cậu con trai đi làm việc ngoài đồng, hoặc đi thơ thẩn trên các con đường của thành phố đúng nghĩa, bên kia sông, hoặc đến ngồi trên lề đường để nhìn xe hàng chạy qua.
Mỗi sáng, Lalla băng qua Cư xá. Cô đi xách mấy xô nước tại máy nước. Khi bước đi, cô nghe âm nhạc phát ra từ tất cả các máy thu thanh nối tiếp nhau từ nhà này sang nhà khác, vẫn luôn là bài hát Ai Cập bất tận ra rả qua các con hẻm của khu Cư xá. Lalla thích nghe thứ âm nhạc đó, nó rên rỉ và cò cưa một cách nhịp nhàng, nó hòa lẫn với tiếng bước của các cô gái, tiếng nước chảy từ vòi. Khi tới máy nước, cô đợi tới phiên mình, cái xô kẽm đu đưa trong tay. Cô nhìn các cô gái; một số đen như phụ nữ da đen, như Ikikr, số khác thì thật trắng với đôi mắt màu xanh, như Mariem. Có những bà lão che mạng đến lấy nước trong một cái nồi đen, rồi lặng lẽ bước đi vội vàng.
Máy nước, đó là một cái vòi bằng đồng thau gắn trên một ống chì dài, nó lắc lư và gầm gừ mỗi lần người ta mở hay khóa nó. Các cô gái rửa chân và mặt dưới vòi nước lạnh. Đôi khi họ vừa té nước trong xô vào nhau vừa hò hét inh ỏi. Luôn luôn có những con ong vò vẽ bay quanh đầu họ, vướng vào mái tóc rối của họ.
Lalla lại đặt cái xô lên đầu, rồi thận trọng bước đi thật thẳng đường để khỏi làm rơi giọt nước nào. Buổi sáng, bầu trời trong và đẹp, như thể tất cả còn mới tinh khôi. Nhưng khi mặt trời đến gần thiên đỉnh thì sương mù đùn lên gần chân trời như một vùng bụi, và bầu trời trở nên nặng nề hơn trên mặt đất.
Có một nơi Lalla rất thích tới. Phải men theo lối mòn, đi ra xa khỏi biển, hướng về miền Đông rồi đi ngược lên con suối khô. Khi nhìn thấy ngọn đồi đá, người ta tiếp tục đi trên những tảng đá đỏ theo dấu chân lũ dê cái. Mặt trời sáng rực trong bầu trời nhưng gió thì lạnh, bởi nó đến từ các vùng đất không có cây lẫn nước; đó là thứ gió đến từ tận cùng của không gian. Chính đây là nơi ở của người mà Lalla gọi là Es Ser, Bí Mật, bởi không ai biết tên chú.
Thế rồi, cô đến trước vùng cao nguyên đá trắng bao la trải ra đến tận cùng chân trời, tới tận bầu trời. Ánh sáng chói chang, gió lạnh cắt môi khiến nước mắt chảy ra. Lalla cố hết sức nhìn cho tới khi tim cô đập thình thịch trong cổ họng và hai bên thái dương, cho tới khi một bức màn đỏ đã che phủ bầu trời, rồi cô nghe ở hai bên tai của mình những giọng nói xa lạ đang cùng nhau thốt lên và lẩm nhẩm.
Rồi cô tiến vào giữa cao nguyên đá, nơi chỉ có bọ cạp và rắn. Không còn đường trên cao nguyên. Chỉ có những khối đá bị vỡ, nhọn như dao, tóe lửa dưới ánh mặt trời. Không có cây cỏ, chỉ có gió từ trung tâm của không gian thổi tới.
Chính tại nơi đây thỉnh thoảng người con trai tới gặp cô. Cô không biết chú là ai hay từ đâu tới. Có khi chú thật đáng sợ, còn những lần khác thì chú rất dịu dàng và thầm lặng, trông chú đẹp như thiên thần. Cô chỉ nhìn được đôi mắt chú, bởi mặt chú được che bằng một tấm mạng vải màu lam giống như những chiến binh sa mạc. Chú mặc một cái áo khoác rộng màu trắng lấp lánh như muối dưới ánh mặt trời. Đôi mắt chú rực lên một thứ lửa âm u và lạ kỳ trong bóng của vành khăn lam, và Lalla cảm thấy sức nóng cái nhìn của chú trên mặt và trên thân thể cô như khi người ta đến gần một lò lửa cháy rực.
Nhưng không phải Lúc nào Es Ser cũng tới. Người sa mạc chỉ tới khi nào Lalla rất muốn gặp chú, khi cô thật sự cần tới chú, khi cô cần điều đó mãnh liệt hơn cần nói hoặc cần khóc. Nhưng ngay cả khi chú không tới thì vẫn có một cái gì đó của chú phảng phất trên cao nguyên đá, có thể là cái nhìn nóng bỏng của chú đang soi sáng cảnh vật, đang lướt qua khắp chân trời. Thế là Lalla có thể đi trên khoảng rộng lởm chởm đá, không cần biết mình đi đâu cũng không tìm kiếm gì. Trên vài tảng đá, có những ký hiệu kỳ dị mà cô không hiểu, những chữ thập, những cái chấm, những cái đốm hình mặt trời và mặt trăng, những mũi tên khắc trên đá. Có thể đó là những ký hiệu ma thuật; bọn con trai trong khu Cư xá bảo vậy, và do đó chúng không thích tới tận cao nguyên trắng. Nhưng Lalla không sợ những ký hiệu, cũng không sợ sự cô đơn. Cô biết rằng người đàn ông xanh của sa mạc vẫn chở che cô bằng cái nhìn của mình, và cô không còn sợ sự im lặng lẫn sự trống trải của gió.
Đây là nơi không có bóng người, không có một ai. Chỉ có người đàn ông xanh của sa mạc đang nhìn cô không rời mắt mà không nói gì với cô. Lalla không biết chú muốn gì, chú cần gì. Cô cần chú, và chú lặng lẽ tới, với cái nhìn đầy quyền uy của chú. Cô thấy hạnh phúc khi có mặt trên cao nguyên đá, dưới ánh sáng của cái nhìn. Cô biết mình không nên nói về điều này với một ai, cả với Aamma, bởi điều này là một bí mật, là điều hệ trọng nhất đã xảy tới với cô. Đó cũng là một bí mật vì cô là người duy nhất thường tới cao nguyên đá mà không chút sợ sệt, bất chấp sự im lặng và sự trống trải của gió. Có thể chỉ có chàng trai chăn cừu, mà người ta quen gọi là chú Hartani, thỉnh thoảng cũng tới đây, nhưng chỉ khi nào có một con dê cái trong bầy chạy lạc dọc theo mấy cái thung. Chú cũng không sợ những ký hiệu trên đá, nhưng Lalla không bao giờ dám nói với chú về bí mật của cô.
Đó là tên cô đặt cho người con trai thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên cao nguyên đá. Es Ser, Bí Mật, bởi không ai biết tên chú.
Chú không nói. Nghĩa là chú không nói cùng ngôn ngữ loài người. Nhưng Lalla lại nghe giọng nói chú trong hai tai của cô, và chú nói bằng ngôn ngữ của những điều tuyệt đẹp luôn khuấy động phần bên trong cơ thể cô và khiến cô rùng mình. Có thể chú nói bằng tiếng động nhẹ tênh của gió đến từ chiều sâu không gian, hoặc với niềm im lặng giữa mỗi làn hơi gió. Có thể chú nói bằng ngôn từ của ánh sáng, bằng những từ bùng nổ thành chùm tia sáng trên cạnh đá bén ngót, những từ của cát, những từ của các hòn sỏi vỡ vụn thành bột cứng, và cả những từ của loài rắn, bọ cạp vẫn để lại dấu vết mờ nhạt trong bụi. Chú biết nói bằng tất cả những từ đó, và cái nhìn của chú nảy lên từ tảng đá này sang tảng đá khác, nhanh như một con vật, thoắt một cái đã tới chân trời, hay thẳng lên bầu trời, bay cao hơn cả loài chim.
Lalla thích tới đây, trên cao nguyên đá trắng để nghe những lời nói bí mật đó. Cô không biết gì về người con trai mà cô gọi là Es Ser, cô không biết chú là ai, từ đầu tới, nhưng cô thích gặp chú tại nơi này, bởi vì chú mang theo, trong cái nhìn và trong ngôn ngữ của chú, hơi nóng của những xứ sở của cát và cồn cát, của miền Nam, của những vùng đất không có cây và không có nước.
Ngay cả khi Es Ser không tới, cô cũng tưởng mình có thể trông thấy bằng cái nhìn của chú. Điều này thật khó hiểu bởi như thế phần nào giống như trong một giấc mơ, như thể Lalla không hẳn là chính cô, như thể cô đã bước vào thế giới từ bên kia cái nhìn của người con trai che mạng màu lam.
Rồi những điều đẹp đẽ và kỳ bí xuất hiện. Những điều mà cô chưa hề trông thấy ở đâu khác, khiến cô bối rối và lo lắng. Cô trông thấy khoảng cát rộng màu vàng và màu lưu huỳnh, bao la như biển, và những làn sóng bất động. Trên biển cát đó, không có một ai, không một bóng cây, không một bụi cỏ, chỉ có bóng của những cồn cát đang trải dài, tiếp giáp nhau, chúng tạo thành những cái hồ vào buổi hoàng hôn. nơi đây mọi thứ đều giống nhau, như thể cô đồng thời ở đây, rồi ở một nơi nào xa hơn, nơi mà cái nhìn của cô tình cờ hướng tới, rồi ở một nơi nào khác nữa kề bên giới hạn giữa đất và trời. Dưới cái nhìn của cô, những cồn cát từ từ động đậy, xòe ra những ngón tay cát của chúng. Có những con suối màu vàng trôi chảy tại chỗ, ở dưới đáy các thung lũng nóng như thiêu. Có những con sóng cứng đanh, được nung bởi ánh nắng khủng khiếp, và những bãi biển trắng xóa tạo thành một đường cong hoàn hảo, bất động trước biển cát đỏ. Ánh sáng lấp lánh và đầm đìa ở khắp mọi nơi, ánh sáng đồng thời nảy sinh từ mọi phía, ánh sáng của mặt đất, của bầu trời và của mặt trời. Bầu trời thì bất tận. Chỉ có lớp sương khô uốn lượn gần chân trời, phá vỡ những ánh phản chiếu, múa may như các tia sáng mỏng mảnh, và bụi màu đất son và màu hồng rung trong gió lạnh, bay về phía trung tâm bầu trời.
Tất cả đều kỳ lạ và xa xôi, nhưng lại có vẻ thân tình. Lalla trông thấy trước mặt cô, như bằng đôi mắt của một ai khác, vùng sa mạc bao la ngời ngời ánh sáng. Cô cảm nhận, trên làn da của mình, hơi gió từ miền Nam đang thổi tung đám mây cát, cô cảm nhận, dưới đôi bàn chân trần của mình, lớp cát nóng bỏng của xác cồn cát. Cô cảm nhận rõ nhất, trên đầu cô, cái bát ngát của bầu trời trống rồng, bầu trời không một cái bóng, nơi chỉ có một mặt trời chiếu sáng.
Bây giờ trong một hồi lâu, cô không còn là chính cô nữa, cô đã trở thành một con người nào khác, một con người của chốn nào xa lắc, một con người bị quên lãng. Cô trông thấy những hình thù khác, những bóng dáng khác, của trẻ con, của đàn ông, của đàn bà, của ngựa, của lạc đà, của những đàn dê cái, cô trông thấy hình dạng một thành phố, một đền đài bằng đá và đất sét, những thành lũy bằng bùn nơi những toán chiến binh xuất phát. Cô trông thấy, bởi đó không phải là một giấc mơ, mà là kỷ niệm của một ký ức khác, cô đã bước vào ký ức đó mà không hay biết. Cô nghe thấy những giọng nói đàn ông, những tiếng hát đàn bà, những điệu nhạc, và có thể chính cô cũng vừa nhảy múa vừa xoay tròn và giậm lên mặt đất bằng mũi và gót đôi bàn chân trần, làm vang dội những cái xuyến đồng và những cái vòng nặng nề.
Rồi tất cả đồng loạt biến mất như trong một hơi gió. Đơn giản chỉ vì cái nhìn của Es Ser đã rời bỏ cô, quay đi khỏi cao nguyên đá trắng. Lalla gặp lại cái nhìn của chính mình, cô lại nhận ra trái tim của cô, hai lá phổi của cô, làn da của cô. Cô nhận biết từng chi tiết, từng hòn đá, từng thớ nứt, từng hình vẽ bé xíu trong bụi.
Cô quay trở lại phía sau. Cô bước trở xuống về phía lòng suối khô cằn, không quên coi chừng những hòn đá sắc nhọn và bụi gai. Tới phía dưới, cô mệt nhoài vì toàn bộ thứ ánh sáng kia, vì cái rỗng không của gió không ngớt bao giờ. Cô thong thả bước trên con đường cát dẫn về Cư xá, nơi những bóng đàn ông và đàn bà vẫn còn động đậy. Cô tới máy nước và cô quỳ xuống, rửa mặt và tay như mới đi xa về.
Điều thích thú nữa là lũ ong vò vẽ. Chúng ở khắp mọi nơi trong thành phố, với cái thân dài màu vàng có sọc đen và đôi cánh trong suốt của chúng. Chúng nặng nề bay khắp nơi, không bận tâm gì tới con người. Chúng tìm thức ăn. Lalla rất thích chúng, cô thường nhìn chúng bay lơ lửng trong ánh sáng mặt trời, trên những đống rác hoặc quanh các phản thịt. Có khi chúng bay lại gần Lalla khi cô đang ăn một trái cam; chúng tìm cách đậu trên mặt cô, trên đôi bàn tay cô. Cũng có khi, một con trong bầy chích cổ hoặc cánh tay cô, làm thành một vết bỏng kéo dài nhiều tiếng đồng hồ. Nhưng chẳng hề hấn gì, dù sao Lalla vẫn rất thích những con ong vò vẽ.
Những con ruồi thì không bằng. Trước hết chúng không có cái thân dài màu vàng và đen kia, cũng không có cái dáng thật thanh mảnh kia, khi chúng đậu trên một cạnh bàn. Những con ruồi thì nhanh, thoắt một cái, chúng đã đáp xuống, thân thể dẹp lép, giương to đôi mắt xám-đỏ trên đầu.
Trong Cư xá, luôn luôn có nhiều khói vươn lên trên những túp lều ván, dọc theo con hẻm đất nện. Có những người đàn bà nấu cơm trên lò lửa bằng đất, có những ngọn lửa đốt rác, những ngọn lửa nâu hắc ín để quét lên mái.
Khi rảnh, Lalla rất thích dừng chân để nhìn lửa. Hoặc cô đi về phía các con suối khô cằn để lượm cành cây keo, cô bó chúng lại bằng một sợi dây rồi ôm bó củi về nhà Aamma. Lửa vui tươi bùng lên trong các nhánh cây, tạo nên những tiếng nổ lách tách, và làm cho nhựa sôi xèo xèo. Những ngọn lửa nhảy múa trong không khí lạnh lẽo của buổi sáng, đồng thời tạo ra một điệu nhạc vui tai. Khi nhìn vào bên trong ngọn lửa, người ta có thể thấy được thần thánh, chính Aamma bảo thế. Người ta cũng có thể thấy những phong cảnh, những thành phố, những dòng sông, tất cả những điều phi thường vẫn xuất hiện và vẫn ẩn mình, phần nào giống như những áng mây.
Tiếp theo, những con ong vò vẽ bay tới, bởi chúng nhận ra mùi thịt cừu đang nấu trong cái nồi sắt. Mấy đứa trẻ khác vẫn sợ ong vò vẽ, muốn đuổi chúng, muốn ném đá giết chúng. Nhưng Lalla thì để mặc chúng vờn quanh tóc cô, cô cố tìm hiểu xem chúng hát rầm rì những gì khi vo ve đôi cánh.
Đến giờ ăn, mặt trời lên cao trong bầu trời, nó thiêu đốt dữ dội. Sắc trắng trở nên trắng đến độ người ta không thể nhìn thẳng vào nó, những cái bóng thì đen đến độ giống như những cái lỗ trên mặt đất. Bây giờ, mấy cậu con trai của Aamma tới. Chúng gồm hai đứa, một đứa mười bốn tuổi tên Ali, đứa kia mười bảy tuổi, người ta quen gọi là chú Bareki bởi chú được ban phúc lành vào ngày chú chào đời. Aamma lo cho hai đứa ăn trước, và chúng ăn rất nhanh, hau háu, không nói lời nào. Trong lúc ăn, chúng luôn lấy mu bàn tay đuổi ong vò vẽ. Tiếp đến là chồng của Aamma làm việc tại các đồn điền cà chua ở miền Nam. Anh tên là Selim, nhưng người ta vẫn gọi anh là người Soussi bởi anh từ vùng sông Souss tới. Anh bé choắt và ốm yếu với đôi mắt đẹp màu lục, và Lalla rất thích anh, dù người ta vẫn bảo, gần như ở khắp nơi, rằng anh là kẻ lười biếng. Nhưng anh không giết ong vò vẽ, trái lại, có khi anh giữ chúng giữa ngón trỏ và ngón cái, và đùa nghịch bằng cách lấy ngòi nọc của chúng ra, sau đó anh nhẹ nhàng đặt chúng xuống đất và để chúng bay đi
Luôn luôn có những người từ nơi khác tới, và Aamma để dành một ít thịt cho họ. Đôi khi chính Naman ông lão đánh cá cũng đến ăn tại nhà Aamma. Lalla lúc nào cũng rất hài lòng khi biết ông sắp tới, bởi Naman cũng thích cô và thường kể cho cô nghe những câu chuyện hấp dẫn. Ông ăn chậm rãi, và thỉnh thoảng nói với cô về một điều gì đó thật buồn cười. Ông gọi cô là cô bé Lalla, bởi cô là con của một người đàn bà quý tộc thực sự. Khi nhìn vào đôi mắt ông, Lalla có cảm giác như trông thấy màu của biển cả, như đang vượt đại dương, như đang ở phía bên kia chân trời, trong những thành phố lớn, nơi có những ngôi nhà màu trắng, những khu vườn, những máy nước. Lalla rất thích được nghe tên các thành phố, và cô thường yêu cầu Naman nói những cái tin đó cho cô nghe, chỉ cần vậy thôi, một cách chậm rãi, để cô có thì giờ trông thấy những điều chúng che giấu:
"Algésiras"
"Granada"
"Sevilla"
"Madrid"
Hai cậu con trai của Aamma thì muốn biết nhiều hơn nữa, chúng đợi ông lão Naman ăn xong, và chúng đặt đủ thứ câu hỏi về cuộc sống nơi đó, ở bên kia biển. Chúng thì chúng muốn biết những sự việc cụ thể, nghiêm túc chứ không phải những cái tên để mơ mộng. Họ hỏi Naman về những món tiền mà người ta có thể làm ra, về công ăn việc làm, về giá cả quần áo thức ăn, xe hơi, về những rạp chiếu bóng liệu có nhiều lắm không. Ông lão Naman thì quá già, ông không biết những thứ đó, hoặc ông đã quên, lại nữa, cuộc sống dù sao đã thấy đổi kể từ cái thời ông còn sống ở đó, trước chiến tranh. Thế là mấy cậu con trai nhún vai, nhưng cũng không nói gì, bởi vì Naman có một người em trai còn ở Marseille có thể có ích cho chúng một ngày nào đó.
Nhiều hôm Naman muốn nói về những điều ông đã thấy tận mắt, và chính Lalla là người được nghe ông kể bởi chính cô là người mà ông thích hơn cả, và bởi cô không đặt ra những câu hỏi.
Ngay cả khi điều ông kể không hoàn toàn có thật, Lalla vẫn thích được nghe. Cô chăm chú lắng nghe ông khi ông nói về những thành phố lớn màu trắng bên bờ biển với những con đường có hàng cọ hai bên, với các khu vườn chạy dài tới tận ngọn đồi cao, đầy ắp những loài hoa, những cây cam, những cây lựu, và những tòa tháp cao như những ngọn núi, những đại lộ dài tưởng đến vô tận. Cô cũng thích thú khi ông nói về những chiếc ô tô đen bóng chạy từ từ, nhất là vào ban đêm, với đèn pha bật sáng, và ánh sáng đủ màu ở mặt tiền các cửa hàng. Lại có những con tàu lớn màu trắng từ Algésiras tới, vào buổi chiều, chầm chậm lướt dọc theo các bên tàu ẩm ướt, giữa lúc đám đông đang hò hét và khoa tay để chào đón những người đang tới. Hoặc con đường sắt chạy về miền Bắc, từ thành phố này tới thành phố khác, băng qua những cánh đồng đầy sương mù, những con sông, những ngọn núi, chạy vào những con đường hầm dài tối đen, với tất cả những hành khách và hành lý của họ, chạy tới tận thành phố lớn Paris. Lalla lắng nghe tất cả những điều đó, và cô khẽ rùng mình lo sợ, nhưng cô nghĩ mình rất thích được đi trên con đường sắt đó qua hết thành phố này tới thành phố khác, đi về những vùng xa lạ, những đất nước không có bụi và những con chó đói, cũng không có những túp lều ván có gió sa mạc tràn vào.
"Ông dẫn cháu tới đó khi nào ông lên đường nhé", Lalla nói
Ông lão Naman lắc đầu:
"Bây giờ thì ông đã già lắm rồi, cô bé Lalla à, giờ ông không đi nữa, ông sẽ chết dọc đường mất thôi."
Để an ủi cô, ông tiếp lời:
"Còn cháu thì sẽ đi. Cháu sẽ trông thấy tất cả những thành phố đó, và sau đó cháu sẽ trở về đây, như ông vậy."
Cô đành phải nhìn vào đôi mắt của Naman để thấy những gì ông đã thấy, như khi người ta nhìn vào đáy biển. Cô nghĩ rất lâu tới những cái tên đẹp đẽ của các thành phố, cô thì thầm hát những cái tên đó trong đầu như thể chúng là lời của một bài ca.
Đôi khi chính Aamma yêu cầu ông kể về những xứ lạ. Thế là một lần nữa, ông kể về chuyến đi xuyên qua nước Tây Ban Nha, từ biên giới, rồi con đường ven bờ biển, và thành phố lớn Marseille. Ông kể về tất cả những ngôi nhà, những con đường, những cầu thang, những bến tàu bát ngát, những cần trục, những con tàu lớn như cả tòa nhà, lớn như những thành phố, từ đó người ta bốc dỡ những chiếc xe tải, những toa tàu, đá, xi măng, sau đó, chúng ra đi trên mặt nước đen sì của hải cảng trong tiếng còi hụ vang. Hai cậu con trai thì không chăm chú lắm khi nghe những điều đó bởi chúng không tin ông lão Naman. Khi ông rời bước, chúng nói rằng mọi người đều biết ông đã từng nấu bếp tại Marseille, và để chế nhạo ông, chúng gọi ông là Tayyeb, điều này có nghĩa: "Ông ta làm bếp."
Còn Aamma thì chăm chú nghe những điều ông nói. Với chị, ông có là dân nấu bếp ở đó hay dân đánh cá ở đây thì cũng vậy thôi. Chị đặt ra cho ông những câu hỏi khác, trong mỗi lần nghe chuyện, để được nghe kể lần nữa câu chuyện về chuyến đi, về biên giới, về cuộc sống ở Marseille. Rồi thì Naman cũng nói về những trận đánh ngoài đường phố khi bọn đàn ông tấn công người Ả Rập và người Do Thái trên các con đường tối tăm, và người ta phải tự vệ bằng dao hoặc ném đá và phải ba chân bốn cẳng chạy để tránh xe cảnh sát đi hốt mọi người chở về nhà giam. Ông cũng kể về những người đi lậu qua biên giới, bằng đường núi, phải đi ban đêm, ban ngày thì trốn trong hang đá và trong các bụi rậm. Nhưng thỉnh thoảng lũ chó của cảnh sát vẫn lần theo dấu vết của họ và tấn công khi họ đi tới phía dưới, ở bên kia biên giới.
Naman kể tất cả những điều đó với một vẻ buồn bã, và Lalla cảm thấy cái băng giá lướt qua trong đôi mắt ông. Đó là một cảm giác kỳ lạ mà cô không biết rõ, nhưng nó có vẻ đe dọa và khiến cô sợ, như sự thoáng qua của cái chết, của tai họa. Có thể đó cũng là điều mà ông lão Naman ma