Hạnh phúc (tt)
Những cuộn khói lam và xám nhảy múa, xòe ra rồi khép lại giống như những áng mây và trên cái vỉ bằng cành cây màu xanh, những lát thịt đã trở nên nâu sẫm trông như miếng da cũ. Ngoài kia là mặt trời đang từ từ lặn, là thủy triều đang theo gió dâng lên, là tiếng côn trùng, tiếng reo hò của trẻ con đang chạy rong khắp các nẻo đường trong Cư xá, những giọng đàn ông, tiếng nhạc. Nhưng Lalla chẳng nghe thấy gì. Cô đang hoàn toàn đắm mình trong cái giọng thì thầm kể về cái chết của mẹ cô cách đây đã lâu lắm rồi.
"Chẳng ai biết chuyện gì sắp sửa xảy ra, chẳng ai biết cả. Một bữa nọ, Lalla Hawa đi nằm bởi bà thấy mệt rã rời và nghe toàn thân lạnh giá. Bà vẫn nằm như vậy suốt nhiều ngày liền, không ăn uống, không động đậy, nhưng bà không than vãn. Khi người ta hỏi bà có sao không, bà chì đáp, không có gì, không có gì, tôi mệt, thế thôi. Thế nên lúc bấy giờ chính cô là người chăm sóc cháu, cho cháu ăn uống, bởi Lalla Hawa không thể đứng dậy ra khỏi giường được... Mà trong làng lại không có y sĩ, và phòng chữa bệnh thì quá xa, nên không ai biết phải làm gì. Thế rồi một bữa nọ, nếu cô không lầm thì đó là ngày thứ Sáu, Lalla Hawa gọi cô, giọng bà lúc đó yếu lắm rồi, bà ra dấu gọi cô lại gần, và chỉ nói với cô: tôi sắp chết, thế thôi. Giọng bà ấy rất lạ, mặt bà xám ngắt, và đôi mắt thì hừng hực. Bấy giờ, cô rất sợ, cô chạy ra khỏi nhà, cô mang cháu đi càng xa càng tốt, băng qua cánh đồng, tới một ngọn đồi, và ngồi dưới bóng cây suốt ngày trời trong khi cháu chơi bên cạnh. Khi cô trở về nhà, cháu đã ngủ, cô nghe thấy tiếng mẹ và các chị em cô khóc, cô gặp cha cô trước cửa nhà, người bảo Lalla Hawa đã chết...".
Lalla cố hết sức để nghe, mắt đăm đăm nhìn những ngọn lửa đang nhảy múa và kêu lẹt đẹt, trước những cuộn khói nghi ngút bay lên bầu trời xanh. Đám ong vò vẽ tiếp tục bay loạng choạng, chúng bay qua ngọn lửa như những viên đạn, chúng rơi xuống đất, cánh cháy rụi. Lalla lắng nghe điệu nhạc của chúng, điệu nhạc đích thực duy nhất của Cư xá bằng ván và giấy quét hắc ín.
"Không ai biết đó là chuyện tất yếu phải xảy ra, Aamma nói. Và khi nó xảy ra thì mọi người đều khóc, còn cô, cô thấy lạnh cả người, như chính cô cũng sắp chết vậy, và mọi người đều buồn cho cháu, vì cháu còn quá nhỏ để hiểu chuyện. Sau này, chính cô dẫn cháu tới đây sống với người Soussi, khi cha cô mất và cô phải về Cư xá."
Bởi phải khá lâu nữa mới hun xong thịt nên Aamma tiếp tục nói, nhưng chị không nói thêm gì về Lalla Hawa. Chị nói về Al Azraq vốn vẫn được gọi là Người Đàn Ông Xanh, người biết điều mưa khiển gió, biết làm cho mọi vật vâng lời, ngay cả sỏi đá và cỏ cây. Chị nói về cái chòi bằng cành cây và lá cọ là nhà ở của Người, chơ vơ giữa sa mạc rộng lớn. Chị nói rằng trên đầu Người, bầu trời đầy chim đủ các loài hót vang những bài ca tuyệt vời để hợp nhất cùng bài kinh cầu nguyện của Người. Nhưng chỉ những người có trái tim thuần khiết mới tìm được nhà của Người Đàn Ông Xanh. Những người khác thì lạc lối trong sa mạc
"Người cũng biết trò chuyện với ong vò vẽ phải không?" Lalla hỏi
"Với ong vò vẽ và với ong rừng, bởi người là thấy của chúng, người biết lựa lời để thuần hóa chúng. Người còn biết cả bài hát khiến ong vò vẽ cùng các đàn ong khác và ruồi xông vào kẻ thù, và người đã có thể phá hủy hoàn toàn một thành phô nếu người muốn. Nhưng người rất công minh, và người chỉ sử dụng quyền năng của mình để làm điều thiện."
Chị cũng nói về sa mạc, về sa mạc rộng lớn phát sinh ở phía Nam Goulimine, ở phía Đông Taroudant, ở bên kia thung lũng Draa. Chính tại đó, trong sa mạc, Lalla đã ra đời dưới một gốc cây, như Aamma kể. Nơi ây, giữa xứ sở của sa mạc bao la, bầu trời thì mênh mông, chân trời thì vô tận, không có gì cản được tầm nhìn. Sa mạc giống như biển với những luồng sóng của gió trèn cát cứng, với bọt từ những bụi cây lăn tăn, với những tảng đá bằng phẳng, những mảng địa y, những vũng muối, và bóng tối tạo thành những vệt đen lấm chấm khi mặt trời nhích gần tới trái đất. Aamma nói rất lâu về sa mạc, và khi chị nói, những ngọn lửa thấp xuống dần, khói trở nên nhẹ nhàng, trong suốt, những mảnh than hồng dần dà được phủ bằng lớp bụi màu bạc khẽ rung rinh.
“... Nơi đó, trong sa mạc mênh mông, con người có thể đi bộ suốt nhiều ngày liền mà không gặp dù chỉ một ngôi nhà, không thấy một cái giếng, bởi sa mạc rộng lớn đến nỗi không ai có thể biết nó trọn vẹn. Người ta đi trong sa mạc và người ta giống như những con tàu trên biển cả, không ai biết lúc nào thì mình sẽ quay về. Thỉnh thoảng, bão kéo đến, nhưng không giống nơi này đâu, những trận bão ấy rất khủng khiếp và gió cuốn lấy cát, tung nó lên tận bầu trời, còn con người rơi vào tình cảnh mất hút. Họ chết đuối trong cát, họ chết mất dạng như những con tàu trong bão tố, cát giữ gìn thân thể họ. Mọi thứ đều khác lạ trong xứ sở đó, mặt trời cũng khác với nơi này, nó thiêu đốt tàn khốc hơn, và có những kè trở về với đôi mắt bị mù, khuôn mặt cháy sém. Ban đêm, cái lạnh khiến những kè lạc đường phải thét lên trong đau đớn, cái lạnh làm gãy xương cốt họ. Ngay cả con người cũng không giống nơi này... Họ rất tàn bạo. Họ rình rập con mồi của họ như loài cáo, họ lặng lẽ tới gần. Họ đen đúa như Hartani, họ mặc y phục màu xanh, mặt che mạng. Họ không phải là người, mà là những ma thần, con cái của quỷ, họ giao du với quỷ, họ giông bọn phù thủy...".
Thế là Lalla lại nghĩ tới Al Azraq, tới Người Đàn Ông Xanh, chúa tể của sa mạc, người làm nảy sinh nguồn nước dưới những tảng đá trong sa mạc. Aamma cũng nghĩ tới Người, và chị nói:
"Người Đàn Ông Xanh cũng giống như dân sa mạc, nhưng đã nhận được phúc lành của Thượng đế và người đã rời bỏ bộ lạc mình, gia đình mình, để sống cô độc... Nhưng Người biết tất cả những gì mà dân sa mạc biết. Người đã nhận được năng lực chữa bệnh bằng đôi tay mình, cả Lalla Hawa cũng có năng lực này, bà ấy biết giải mộng, biết dự báo tương lai và tìm lại những món đồ đã mất. Và khi mọi người biết bà ấy thuộc dòng dõi Al Azraq, họ đến thỉnh ý bà, đôi khi bà nói theo yêu cầu của họ nhưng đôi khi bà lại không muốn trả lời...".
Lalla nhìn ngắm đôi bàn tay mình, cô tìm cách hiểu những gì chứa đựng trong đó. Hai bàn tay cô to và khỏe như bàn tay con trai, nhưng da chúng lại mềm mại và các ngón thì thon dài.
"Liệu cháu cũng có năng lực đó không cô Aamma?" Aamma cười. Chị đứng dậy rồi vươn vai
"Cháu đừng nghĩ tới chuyện ấy", chị nói. "Giờ thịt đã sẵn sàng rồi, phải đặt nó vào đĩa."
Khi Aamma bước đi, Lalla lấy cái vỉ ra, và cô vừa sắp những lát thịt vào cái đĩa to bằng đất vừa nhấm nháp chỗ này một miếng, chỗ kia một miếng. Từ lúc lửa tàn, đám ong vò vẽ lại ồ ạt kéo tới, chúng bay vù vù, chúng múa may quanh đôi tay Lalla, chúng bám vào tóc cô. Lalla không sợ chúng. Cô khẽ đuổi chúng, và cô còn ném cho chúng một miếng thịt hun khói bởi với chúng đây cũng là một ngày ngoại lệ.
Sau đó, cô đi về phía biển, cô bước theo con đường nhỏ hẹp dẫn tới các cồn cát. Nhưng cô không xuống nước. Cô dừng bước ở phía bên kia những cồn cát, nơi kín gió, và cô tìm một chỗ trũng trong cát để nằm. Khi tìm được một chỗ không có quá nhiều cúc gai và kiến, cô ngả lưng xuống, hai cánh tay duỗi dài theo cơ thể, và cô nhìn lên bầu trời. Có những đám mây trắng lớn đang bay qua. Có tiếng biển chầm chậm xô vào bờ cát nghe thật êm tai mà cũng không cần phải trông thấy. Có tiếng kêu của đám mòng biển đang lướt gió, làm nhấp nháy ánh sáng mặt trời. Có tiếng răng rắc của những cây con khô héo, tiếng rì rào của tàng cây keo, tiếng xào xạc của đám lá kim phi lao, và tiếng nước. Có cả tiếng vài con ong vò vẽ bay vù vù quanh hai bàn tay Lalla bởi chúng có mùi thịt.
Bây giờ Lalla thử nghe lần nữa cái giọng xa lạ đang hát, rất xa xăm, như từ một xứ sở nào khác, cái giọng lên bổng và xuống trầm một cách mượt mà, cái giọng trong ngần như tiếng suối reo, như ánh sáng mặt trời. Trước mặt cô, bầu trời mờ dần, nhưng đêm cũng còn lâu mới tới bởi trời đang cuối đông và mùa ánh sáng đang bắt đầu. Thoạt tiên, hoàng hôn có màu xám rồi chuyển sang màu đỏ, với những đám mây to trông giống như những ngọn lửa. Lalla vẫn nằm dài chỗ cát trũng, giữa các cồn cát, mắt không rời bầu trời và những đám mây. Cô nghe thấy rõ mồn một, trong tiếng biển và gió, trong tiếng kêu sắc nhọn của những con hải âu đang tìm lại bãi biển đêm, cô nghe thấy cái giọng dịu dàng đang lặp đi lặp lại khúc bi ca của nó, cái giọng trong trẻo nhưng run run như thừa biết cái chết sắp tới dập tắt mình, cái giọng thanh khiết như thứ nước người ta uống sau những ngày dài nóng bức mà không thể đã khát. Đó là một điệu nhạc phát sinh từ bầu trời và những đám mây, nó vang vọng trong cát của các cồn cát, nó trải rộng ra khắp mọi nơi, nó rung vang ngay trong những chiếc lá cúc gai khô héo. Nó hát cho Lalla nghe, chỉ riêng cho cô nghe mà thôi, nó vây bọc lấy cô và tắm táp cô bằng thứ nước mát dịu của nó, nó ve vuốt tóc, trán và môi cô, nói lời thương yêu trìu mến với cô, lan tỏa khắp người cô và mang phúc lành tới cô.
Thế rồi, Lalla trở mình và vùi mặt vào cát bởi có điều gì đó xổ tung trong cô, tan vỡ trong cô, và nước mắt cô lặng lẽ tuôn rơi. Không ai tới đặt tay lên vai cô và nói: "Tại sao con khóc, cô bé Lalla?" Nhưng giọng nói xa lạ vẫn làm tuôn chảy những giọt lệ nóng hổi, nó lay động những hình ảnh vẫn im lìm bất động từ nhiều năm nay ở sâu thẳm trong cô. Những giọt nước mắt chảy trong cát và tạo thành một vệt nhỏ dưới cằm cô, khiến cát dính vào má cô, môi cô. Rồi đột nhiên không còn gì nữa. Cái giọng đến từ nơi sâu thẳm bầu trời im bặt. Giờ đây đêm đã tới, một đêm đẹp như nhung xanh sẫm với những vì sao lấp lánh giữa đám mây phát ánh lân tinh. Lalla rùng mình như trong cơn sốt. Cô bước đi không chủ định dọc cồn cát, giữa ánh lập lòe của những con đom đóm. Vì sợ rắn, cô quay bước trở lại trên con đường hẹp còn in dấu chân cô, rồi cô chầm chậm đi về phía Cư xá nơi lễ hội vẫn đang tiếp diễn.
Lalla đang đợi điều gì đó. Cô không biết rõ đó là điều gì, nhưng cô đợi. Ở Cư xá, ngày thật dài, những ngày mưa, những ngày gió, những ngày hè. Đôi khi Lalla tưởng như mình chỉ đợi ngày tháng tới, nhưng khi chúng tới, cô mới nhận ra là không phải chúng. Cô chỉ đợi, có thế thôi. Con người không thiếu lòng kiên nhẫn, có thể suốt đời họ đợi một điều gì đó, nhưng lại chẳng bao giờ có gì xảy ra.
Cánh đàn ông vẫn thường ngồi trên một tảng đá, dưới ánh mặt trời, đầu trùm một vạt áo khoác hoặc một cái khăn tắm. Họ nhìn về phía trước. Họ nhìn gì ư? Chân trời mịt mù bụi, những con đường nơi xe tải chạy qua, trông đám xe tải ấy như những con bọ hung to lớn đủ màu sắc, và bóng dáng những ngọn đồi đá, những đám mây trắng bay bay trên bầu trời. Đó là những thứ họ nhìn. Họ không mong muốn điều gì khác. Cánh phụ nữ cũng chờ đợi trước máy nước, không nói gì, mặt che mạng đen, đôi bàn chân trần đặt trên nền đất.
Ngay cả bọn trẻ con cũng biết chờ đợi. Chúng ngồi trước cửa hàng thực phẩm, và chúng chờ đợi, cứ như thế, không nô đùa, không hò hét. Thỉnh thoảng, một đứa trong bọn đứng dậy, lấy những đồng tiền ra mua một chai Fanta hoặc một nắm kẹo bạc hà. Những đứa khác nhìn nó, không nói gì.
Có những ngày người ta không biết mình đi đâu, không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tất cả nhìn ra đường rình rập, và bên vệ đường, bọn trẻ con ăn mặc rách rưới đợi chiếc xe ca màu xanh tới, hoặc những chiếc xe tải chở dầu xăng, củi, xi măng chạy qua. Lalla biết rõ tiếng xe tải. Đôi khi, cô tới ngồi cùng lũ trẻ trên bờ dốc đá ở lôi vào Cư xá. Khi một chiếc xe tải tới, lũ trẻ quay về phía đầu đường, thật xa, nơi không khí múa may trên lớp hắc ín và làm cho những ngọn đồi gợn sóng. Người ta nghe thấy tiếng động cơ một hồi lâu trước khi chiếc xe tải xuất hiện. Đó là một tiếng gầm đinh tai, gần như tiếng rít, thỉnh thoảng lại chen thêm một tiếng còi rền vang, tạo nên những tiếng dội đập vào các bức tường nhà. Rồi người ta trông thấy một đám mây bụi, thứ bụi vàng trộn lẫn với làn khói lam của động cơ. Chiếc xe tải màu đỏ chạy hết tốc lực trên con đường nhựa. Phía trên buồng tài xế, một cái ống khói khạc ra luồng hơi nước màu lam, mặt trời lóa sáng trên kính che gió và các bộ phận bằng làm bằng crôm. Các lốp xe nghiến trên mặt đường nhựa, chiếc xe chạy hơi ngoằn ngoèo vì gió, và mỗi lần ép chặt vào vệ đường, các bánh xe lại làm tung một đám bụi lên trời. Rồi chiếc xe vừa chạy qua trước bọn trẻ vừa bấm còi inh ỏi, đất rung chuyển dưới mười bốn cái lốp đen sì, cơn gió bụi và mùi xăng khét lẹt thổi qua chúng như một hơi thở nóng hổi.
Rất lâu sau đó, bọn trẻ con vẫn nói về chiếc xe tài đỏ và chúng kể những chuyện về xe tải, những chiếc xe tải đỏ, những chiếc xe tải chở nước màu trắng, và những chiếc xe tải cần trục màu vàng.
Khi người ta chờ đợi thì vậy. Người ta kéo nhau đi xem những con đường, những cây cầu và biển, để thấy tận mắt những gì không còn, những gì ra đi.
Có những ngày dài hơn những ngày khác, bởi người ta đói. Lalla biết rất rõ những ngày đó, khi nhà chẳng còn tiền, mà Aamma thì không tìm được việc ở thành phố. Ngay cà Selim, người Soussi, chồng của Aamma, cũng không biết kiếm tiền ở đâu, và mọi người trở nên u ám, buồn bã, gần như hung dữ. Những lúc ấy Lalla ở ngoài trời suốt ngày, cô đi càng xa càng tốt, trên cao nguyên đá nơi các mục đồng sinh sống và cô tìm Hartani.
Luôn luôn là vậy: mỗi lần cô muốn gặp chú, chú lại xuất hiện ở một nơi trũng, ngồi trên một tảng đá, đầu quấn trong một lớp vải trắng. Chú canh chừng bầy cừu và bầy dê của chú. Khuôn mặt chú sạm đen, hai bàn tay chú gầy mảnh và khỏe như hai bàn tay của một ông già. Chú chia cho Lalla phần bánh mì đen và những trái chà là của chú, thậm chí chú còn cho mấy mục đồng đang tới gần vài miếng. Nhưng chú làm điều đó không chút tự phụ, như thể cái chú cho không có chút gì quan trọng.
Thỉnh thoảng Lalla lại nhìn chú. Cô thích khuôn mặt thản nhiên, khuôn mặt nhìn nghiêng trông như đại bàng của chú, và ánh sáng lấp lánh nơi tận cùng đôi mắt buồn bã. Hartani cũng vậy, chú cũng luôn chờ đợi một điều gì đó, nhưng có thể chú là người độc nhất biết mình chờ đợi điều gì. Chú không nói ra, bởi chú không biết nói bằng ngôn ngữ của mọi người. Nhưng trong ánh mắt chú, người ta có thể đoán được điều chú chờ đợi, điều chú kiếm tìm. Như thể một phần đời của chú vẫn còn ở lại nơi chú ra đời, bên kia những ngọn đồi đá và những dãy núi phủ đầy tuyết, giữa sa mạc mênh mông, và một ngày nào đó chú phải tìm lại phần đời ấy của chính mình để được trọn vẹn là một.
Lalla ở bên chú chăn cừu cả ngày trời, duy có điều là cô không sáp lại gần chú quá. Cô ngồi trên một tảng đá không xa chú lắm, và cô nhìn về phía trước, cô nhìn không khí đang nhảy múa và đổ dồn phía trên thung lũng khô cằn, cô nhìn thứ ánh sáng trắng lóa đang phát ra những tia lửa, và những đàn cừu và dê đang chậm rãi bước đi giữa vùng sỏi đá trắng.
Vào những ngày buồn bã, những ngày âu lo, chỉ mỗi Hartani là có thể ở đó, và chú không cần tới lời nói. Một cái nhìn thôi cũng đủ lắm rồi, và chú biết cho bánh mì và chà là mà không đợi gì bù lại. Thậm chí chú còn thích người ta ở cách chú vài bước, như lũ cừu và dê con không hoàn toàn thuộc về ai bao giờ.
Suốt ngày trời, Lalla nghe tiếng các mục đồng hò hét trên những ngọn đồi, tiếng huýt sáo chọc thủng bầu không khí im lặng trắng. Khi trờ về Cư xá bằng ván và giấy quét hắc ín, cô thấy mình tự do hơn, cho dù Aamma có rầy mắng cô vì cô không mang thứ gì về ăn.
Chính vào một trong những ngày đó, Aamma đã dẫn Lalla tới nhà người buôn thảm, ở bên kia sông, trong một khu phố nghèo của thành phố, đó là một ngôi nhà rộng sơn trắng với những khung cửa sổ hẹp có lưới sắt. Khi bước vào gian phòng dùng làm xưởng, Lalla nghe thấy tiếng máy dệt chạy rầm rầm. Có hai chục máy dệt, hoặc hơn nữa, sắp thành hàng từ trước đến sau trong cảnh tranh tối tranh sáng chập chờn của gian phòng rộng lớn, nơi có ba cây đèn ống nhấp nháy. Trước những cái máy dệt, các bé gái ngồi xổm, hoặc ngồi trên những chiếc ghế đẩu. Chúng làm việc nhanh nhẹn, đẩy con thơi giữa hàng sợi của canh dọc, dùng kéo nhỏ bằng thép cắt những món len, dồn lên trên canh ngang. Đứa lớn nhất chừng mười bốn tuổi, đứa nhỏ nhất có lẽ chưa lên tám. Chúng không nói gì, chúng còn không nhìn cà Lalla đang bước vào xưởng với Aamma và người đàn bà buôn thảm. Bà ta tên là Zora, đó là một người đàn bà cao lớn luôn cầm trong hai bàn tay mập bự một cây roi chắc dẻo mà bà ta dùng để đánh vào chân và vai của cô bé nào không làm việc nhanh nhẹn hoặc mải lo nói chuyện với người bên cạnh.
"Con nhỏ đã từng đi làm chưa?" bà ta hỏi, không thèm liếc Lalla đến một lần.
Aamma nói trước đây chị đã từng dạy cô cách dệt vải. Zora lắc đầu. Bà ta trông thật nhợt nhạt, có thể do cái áo dài đen của bà, hoặc vì bà ta không ra khỏi cửa hàng của mình bao giờ. Bà ta từ từ bước tới một cái máy dệt bỏ trống, nơi có một tấm thảm lớn màu đỏ thẫm với những chấm trắng.
"Nó sẽ làm cho xong cái này", bà ta nói
Lalla ngồi xuống và bắt đầu công việc. Suốt nhiều giờ liền, cô làm việc trong gian phòng rộng lớn tối tăm, thực hiện những động tác máy móc bằng đôi bàn tay. Ban đầu, cô buộc phải dừng lại bởi mây ngón tay cô mỏi rã rời, nhưng rồi cô cảm thấy người đàn bà cao lớn với nước da nhờn nhợt đang nhìn mình, nên cô lại bắt tay vào việc ngay lập tức. Cô biết bà ta sẽ quất roi vào cô bởi cô là người lớn tuổi nhất trong đám con gái đang làm việc tại đây. Khi ánh mắt họ gặp nhau, sâu thẳm trong lòng cô cảm thấy bị sốc và mặt cô ánh lên tia lửa nộ cuồng. Nhưng người đàn bà cao lớn mặc áo đen lại luôn hành hạ những đứa con gái nhỏ tuổi nhất, những đứa ốm yếu và lấm lét như những con chó, những đứa con gái của dân ăn mày, những đứa con gái bị bỏ rơi phải sống quanh năm suốt tháng trong nhà mụ và chẳng có đồng bạc nào.
Ngay khi chúng chậm trễ trong công việc, hoặc thì thầm trao đổi một vài tiếng, mụ đàn bà phì nộn với nước da nhờn nhợt lại xông tới một cách nhanh chóng bất ngờ và dùng roi quất túi bụi vào lưng chúng. Nhưng bọn con gái nhỏ không khóc bao giờ. Người ta chỉ nghe tiếng rít của cây roi và cái đánh phũ phàng trên lưng chúng. Lalla nghiến rằng, cô cúi đầu xuống đất để khỏi thấy khỏi nghe, bởi cô muốn đến lượt mình la hét và đánh đập mụ Zora. Nhưng cô không nói gì bởi cô phải mang tiền về nhà cho Aamma. Để trả thù, cô chỉ biết làm lệch mấy mối trên tấm thảm đỏ.
Tuy nhiên, ngày hôm sau thì Lalla không chịu được nữa. Vì mụ đàn bà phì nộn nhờn nhợt lại giở trò quất roi vào người Mina, con bé chưa đến mười tuổi, gầy gò và ôm yếu, bởi nó làm gãy con thơi. Lalla đứng dậy và lạnh lùng nói:
"Bà đừng đánh nó nữa!"
Zora nhìn Lalla một hồi không hiểu. Khuôn mặt mập bự và nhợt nhạt của bà ta trông ngớ ngẩn đến nỗi Lalla phải lặp lại:
"Bà đừng đánh nó nữa!"
Bất ngờ khuôn mặt Zara trở nên méo mó vì giận dữ. Bà ta quất một roi hung bạo vào mặt Lalla, nhưng cây roi chỉ chạm vào vai trái cô gái bởi cô biết né.
"Mày sẽ thấy ngay là tao có đánh mày hay không!" Zora hét lên, và lúc này mặt bà ta hơi biến sắc.
"Buông ra! Đồ đàn bà ác độc!"
Lalla chụp lấy cây roi của Zora rồi cô bẻ nó gãy trên đầu gối mình. Bây giờ chính cái sợ khiến khuôn mặt bà ta méo xệch đi. Bà ta vừa lùi lại vừa lắp bắp:
"Đi! Đi! Ngay tức khắc! Đi!"
Nhưng Lalla đã chạy băng qua gian phòng rộng lớn, cô nhảy ra phía ngoài trong ánh sáng mặt trời. Cô chạy miết không ngừng, cho tới tận nhà Aairuna. Tự do bao giờ cũng đẹp. Giờ đây cô lại có thể nhìn những đám mây ồ ạt lướt trôi, những con ong vò vẽ bay tấp nập quanh đống rác, những con thằn lằn, những con tắc kè hoa, những ngọn cỏ run rẩy trong gió. Lalla ngồi trước nhà, dưới bóng bức vách ván, và cô háo hức lắng nghe tất cả tiếng động nhỏ nhất. Buổi chiều khi Aamma trở về, cô chỉ đơn giản nói với chị:
"Cháu sẽ không tới làm tại xưởng của bà Zora nữa, không bao giờ."
Aamma nhìn cô một hồi, nhưng chị không nói gì.
Kể từ ngày hôm đó, mọi việc đã thật sự thấy đổi với Lalla, tại dây, tại Cư xá này. Như thể bất chợt cô đã lớn, và mọi người bắt đầu nhìn cô bằng con mắt khác. Ngay cả đám con trai của Aamma cũng không còn như trước, họ khó chịu và khinh khỉnh. Thỉnh thoảng cô cũng hơi tiếc rẻ cái thời còn bé bỏng thật sự khi có mới tới Cư xá, không ai biết tên cô, và cô có thể trốn sau một cây nhỏ, trong một cái xô, trong một cái hộp các tông. Cô rất thích điều đó, thích được như một cái bóng, đi lại không ai thấy và không ai nói chuyện về cô.
Chỉ có ông lão Naman và Hartani là không thấy đổi. Naman ông lão đánh cá luôn kể những câu chuyện huyền hoặc trong lúc chữa lại mấy cái lưới trên bãi biển, hoặc lúc tới ăn bánh kẹp ngô tại nhà Aamma. Ông không còn tóm được con cá nào, nhưng mọi người vẫn rất thương ông và tiếp tục mời ông tới nhà. Đôi mắt sáng quắc của ông trong suốt như nước, và khuôn mặt ông thì đầy vết nhăn sâu hoắm giống vết sẹo của các thương tích cũ.
Aamma lắng nghe ông nói về Tây Ban Nha, về Marseille, về Paris, và về tất cả những thành phố mà ông từng thấy, những nơi ông từng dạo bước, những nơi ông từng biết cả tên đường và tên người. Aamma đặt ra cho ông các câu hỏi, chị hỏi rằng liệu em của ông có thể giúp chị tìm việc làm ở đó không. Naman lắc lắc mái đầu: "Tại sao lại không chứ?" Đó là câu trả lời của ông cho tất cả, nhưng ông vẫn hứa viết thư cho người em trai. Song chuyện lên đường cũng khá phức tạp, phải có tiền bạc, giấy tờ. Aamma ngẫm nghĩ, mắt đăm đăm nhìn ra xa, chị đang mơ tới những thành phố màu trắng nơi có thật nhiều đường sá, nhà cửa, xe cộ. Có thể đó là những gì chị chờ đợi.
Lalla thì không nghĩ quá nhiều tới điều đó. Cô thờ ơ với nó. Cô nhìn vào mắt Naman như thể phần nào cô cũng đã biết những biển cả kia, những xứ sở kia, những mái nhà kia.
Hartani lại càng không nghĩ tới điều đó. Chú mãi như một đứa trẻ, dù chú đã cao lớn và mạnh khỏe như một người lớn. Thân hình chú mảnh mai và dài ngoằng, khuôn mặt chú thuần khiết và láng lẫy như một miếng gỗ mun. Có thể đó là vì chú không biết nói bằng ngôn ngữ của những con người khác.
Chú vẫn ngồi trên một tảng đá, mắt nhìn ra xa, người khoác chiếc áo dài bằng len thô và lớp áo trong màu trắng kéo sụp xuống trên mặt chú. Quanh chú luôn có những mục đồng cũng đen đúa như chú, những kẻ hoang dã, ăn mặc rách rưới, vừa nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác vừa huýt sáo vang trời. Lalla rất thích đến chỗ họ, đến cái nơi tràn đầy thứ ánh sáng trắng lóa kia, nơi thời gian không đi qua, nơi người ta không thể lớn lên được nữa.
Một sáng đầu hạ nọ, người đàn ông bước vào nhà Aamma. Đó là một người đàn ông thành thị, mặc com lê xám có ánh phản chiếu màu lục, mang đôi giày da đen bóng như gương. Hắn tới với mấy món quà dành cho Aamma và mấy người con trai chị, một tấm gương điện lồng khít trong lớp chất dẻo trắng, một máy thu thanh bán dẫn không lớn hơn cái hộp diêm, những cây bút máy có nắp mạ vàng, và một túi đầy đường và đồ hộp. Khi bước vào nhà, hắn gặp Lalla ngoài cửa, nhưng hắn chỉ nhìn cô thoáng qua. Hắn đặt tất cả các món quà biếu dưới đất, Aamma mời hắn ngồi, hắn đảo mắt tìm một cái ghế nhưng chỉ có những cái gói dựa và cái rương gỗ của Lalla Hawa mà Aamma đã mang về từ miền Nam cùng với Lalla. Hắn ngồi lên cái rương, sau khi dùng tay phủi qua loa. Gã đàn ông đợi người ta mang trà và bánh ngọt tới ít lâu sau đó, khi hiểu ra rằng người đàn ông đó tới để hỏi cưới cô, Lalla rất sợ. Cô nghe choáng váng trong đầu và tim cô bắt đầu dập mạnh. Không phải Aamma nói điều đó với cô mà là Bareki, cậu con trai trưởng của Aamma:
"Mẹ tụi này đã quyết định gả chị cho ông ấy, bởi ông ấy giàu lắm."
"Nhưng tôi không muốn lấy chồng!" Lalla kêu lên.
"Chị không được nói gì cả, chị phải vâng lời cô của chị", Bareki nói.
"Không bao giờ! Không bao giờ!" Lalla vừa bỏ đi vừa hét lên, hai mắt nhòa lệ vì tức giận.
Sau đó cô trở về trong ngôi nhà của Aamma. Người đàn ông mặc com lê xám lục đã đi nhưng các món quà biếu vẫn còn đó. Thậm chí Ali, đứa con trai nhỏ nhất của Aamma, lại đang nghe nhạc nữa chứ, cái máy thu thanh bán dẫn nhỏ xíu kề sát tai nó. Khi Lalla bước vào, nó nhìn cô với vẻ xảo trá.
Lalla gay gắt nói với Aamma:
"Tại sao cô lại giữ những món quà của người đàn ông đó? Cháu sẽ không lấy ông ta đâu!".
Đứa con trai của Aamma cười khẩy:
"Có thể chị ấy muốn lấy Hartani!"
"Đi ra ngay!" Aamma nói. Cậu con trai cầm cái máy thu thanh bán dẫn đi ra.
"Cô không thể bắt cháu lấy người đó được!" Lalla nói.
"Đó sẽ là người chồng tốt cho cháu." Aamma nói. "Anh ta không còn trẻ lắm, nhưng giàu, anh ta có một ngôi nhà lớn tại thành phố, và anh ta quen biết nhiều người có thế lực. Cháu phải ưng anh ta thôi.".
"Cháu không muốn lấy chồng, không bao giờ!"
Aamma trầm ngâm hồi lâu. Khi chị lên tiếng trở lại, giọng chị đã dịu đi, nhung Lalla vẫn cảnh giác:
"Cô đã nuôi dưỡng cháu như con ruột, cô thương cháu, vậy mà hôm nay cháu lại trái ý cô."
Lalla giận dữ nhìn Aamma, bởi lần đầu tiên cô khám phá ra điều gì đó giả dối nơi chị:
"Cháu không quan tâm", cô nói. "Cháu không muốn lấy người đó. Cháu không ưa những món quà nực cười này!".
Cô chỉ tấm gương điện dựng đứng trên cái giá đặt trên nền đất nện.
"Thậm chí nhà cô còn không có điện cơ mà!"
Rồi bất chợt cô thấy chán ngấy. Cô ra khỏi nhà Aamma và đi ra biển. Nhưng lần này cô không chạy trên con đường mòn, cô bước thật chậm. Ngày hôm nay, chẳng còn gì giống như trước nữa. Như thể mọi sự càng được ngắm nhiều thì càng trở nên mờ nhạt, nhàm chán.
"Phải đi thôi", Lalla nói lớn cho chính mình nghe. Nhưng ngay sau đó cô nghĩ mình cũng không biết đi đâu nữa. Thế là cô băng qua các cồn cát, và bước đi trên bãi biển bao la tìm ông lão Naman. Cô rất mong ông ở đó, như mọi khi, ngồi bên gốc cây sung già, đang chữa lại những cái lưới. Cô sẽ đặt cho ông đủ mọi câu hỏi trên đời liên quan tới các thành phố Tây Ban Nha với những cái tên đầy ma lực, Algésiras, Malaga, Granada, Teruel, Saragoza, tới các hải cảng nơi những chiếc tàu lớn như những thành phố rời bến, tới các con đường nơi những chiếc ô tô chạy về phía Bắc, tới các chuyến xe lửa khởi hành, và tới những chiếc phi cơ. Cô muốn nghe ông nói suốt nhiều tiếng đồng hồ liền về những ngọn núi phủ tuyết, những đường hầm, những dòng sông mênh mông như biển cả, những đồng bằng phủ đầy lúa mì, những khu rừng bát ngát, và nhất là những thành phố thơm phức với các dinh thự trắng toát, các giáo đường, các máy nước, các cửa hiệu sáng choang. Paris, Marseille, tất cả những con đường kia, những ngôi nhà cao ngất che khuất bầu trời, những khu vườn, những quán cà phê, những khách sạn, và những ngã tư nơi người ta gặp những con người đến từ khắp phương trời.
Nhưng Lalla không gặp ông lão đánh cá. Chỉ có con hải âu trắng đang bay chầm chậm đối mặt với gió, lượn lòng vòng trên đầu cô. Lalla kêu lên:
"Này! Này! Hoàng tử!"
Con chim trắng bay vài vòng nữa trên đầu Lalla, rồi bay đi thật nhanh theo hướng gió về phía dòng sông.
Lalla còn nấn ná rất lâu trên bãi biển, chỉ để nghe tiếng gió và tiếng biển.
Những ngày tiếp theo, trong nhà Aamma, không ai nói gì thêm, và người đàn ông mặc com lê xám lục không trở lại. Cái máy thu thanh bán dẫn bị phá hỏng còn mớ đồ hộp đã sạch bách. Chì có tấm gương điện bằng chất dẻo còn ở chỗ cũ, trên nền đất nện, cạnh cửa ra vào.
Vào tất cả những đêm đó, Lalla ngủ không yên giấc, cô luôn giật mình trước một tiếng động dù là nhỏ nhất. Cô nhớ lại những câu chuyện người ta thường kể về các cô gái bị bắt cóc vào ban đêm bởi họ không chịu lấy chồng. Mỗi buổi sáng, khi mặt trời mọc, cô ra ngoài trước mọi người để tắm gội và lấy nước ở máy nước. Như vậy, cô có thể canh chừng ngõ vào Cư xá.
Và rồi một ngọn gió tai họa thổi qua vùng này suốt nhiều ngày liền. Đó là thứ gió tai họa kỳ lạ chỉ thổi qua đây một hoặc hai lần trong năm, vào cuối đông hoặc vào mùa thu. Điều lạ nhất là ban đầu người ta không dễ nhận ra nó. Nó thổi không mạnh lắm, chốc chốc nó lại tắt hẳn, và người ta quên bẵng nó. Đó không phải là thứ gió lạnh như trong những trận bão vào giữa mùa đông khi biển cuồn cuộn sóng dữ. Đó cũng không phải là thứ gió nóng cháy và khô ran như gió đến từ sa mạc đốt lên những ánh đỏ trên các ngôi nhà, làm cát bay xào xạo trên các mái lợp tôn và giấy quét hắc ín. Không, gió tai họa là thứ gió thật êm, nó cuộn xoáy, nó giật từng cơn, đè nặng lên những mái nhà, đè nặng lên vai lên ngực con người. Khi nó thổi tới, không khí trở nên nóng bức nặng nề hơn, như thể khắp nơi phủ một màu xám xịt.
Khi nó thổi tới, cái cơn gió chậm và êm ấy, gần như ở khắp nơi, mọi người đều ngã bệnh, nhất là trẻ con và người già, rồi họ chết. Chính vì vậy mà người ta gọi nó là ngọn gió tai họa.
Năm đó, khi nó bắt đầu thổi tới Cư xá, Lalla nhận ra nó ngay. Cô trông thấy những đám mây bụi màu xám kéo tới trên đồng bằng, làm cho biển và cửa sông trở nên mờ hẳn. Thế rồi, mọi người chỉ bước ra ngoài với áo khoác trùm kín mặc dù trời nóng bức. Không còn nữa những con ong vò vẽ, còn đám chó thì tìm chỗ trốn, mũi vùi trong bụi, trong chỗ trũng dưới các vách nhà. Lalla buồn bã bởi cô nghĩ tới những con người sắp bị gió mang theo. Vì vậy khi nghe nói ông lão đánh cá Naman đã ngã bệnh, tim cô thắt lại, và trong khoảnh khắc cô không sao thở được. Trước đây cô chưa bao giờ cảm thấy điều đó, và cô phải ngồi xuống để khỏi ngã.
Sau đó cô vừa đi vừa chạy đến tận nhà ông lão đánh cá. Cô nghĩ chắc hẳn có nhiều người đang ở bên ông, để giúp đỡ ông, săn sóc ông, nhưng chỉ có mình ông nằm trên chiếc chiếu rơm, đầu kê lên cánh tay. Ông run mạnh đến nỗi răng ông đánh lập cập, thậm chí ông không tài nào nhổm dậy được trên hai khuỷu tay khi Lalla bước vào nhà. Ông khẽ mỉm cười, và mắt ông sáng lên hơn khi ông nhận ra Lalla. Mắt ông vẫn luôn mang màu biển cả, nhưng khuôn mặt gầy gò của ông đã trở nên trắng bệch pha chút xam xám khiến người ta hãi sợ.
Cô ngồi bên ông, nói chuyện với ông, giọng như thì thầm. Thường thường, chính ông là người kể chuyện còn cô là người lắng nghe, nhưng hôm nay mọi sự đã thấy đổi. Lalla kể cho ông nghe đủ mọi thứ chuyện để xoa dịu nỗi lo lắng trong ông và để thử mang lại cho ông chút hơi ấm. Cô kể cho ông nghe những điều chính ông đã kể xưa kia, về những chuyến đi của ông tới các thành phố Tây Ban Nha và Pháp. Cô nói với ông điều đó như thể chính cô đã trông thấy chúng, những thành phố ấy, như thể chính cô đã thực hiện những chuyến đi xa vĩ đại đó. Cô nói với ông về những con đường ở Algésiras, những con đường nhỏ hẹp và khúc khuỷu gần hải cảng, nơi người ta có thể cảm nhận được gió biển và mùi cá, cảm nhận được nhà ga với những bến kè lát gạch vuông màu lam, cảm nhận được những cây cầu dài có đường sắt chạy qua bắc trên các thung sâu và sông ngòi. Cô nói với ông về những con đường ở Cadiz, những khu vườn với muôn sắc hoa, những cây cọ thẳng hàng trước các dinh thự trắng toát, cô nói với ông về tất cả những con đường tấp nập đám đông qua lại ây, với những chiếc ô tô đen bóng, những chiếc xe buýt, giữa ánh phản chiếu của các tấm gương từ những tòa nhà cao ngất như những vách đá hoa. Cô nói về những con đường của tất cả các thành phố, như thể cô đã từng đi qua, Sevilla, Córdoba, Granada, Almaden, Toledo, Aranjuez và về thành phố rộng lớn tới nỗi người ta có thể lạc bước trong đó nhiều ngày liền, thành phố Madris, nơi dòng người đổ về từ khắp mọi phương trời.
Ông lão Naman lắng nghe Lalla, không nói gì, không động đậy, nhưng đôi mắt trong vắt của ông rực lên, và Lalla biết ông rất thích nghe những chuyện đó. Khi Lalla ngừng nói, cô nghe như cơ thể ông lão run rẩy và hơi thở ông rít lên: thế là cô vội vàng nói tiếp để khỏi nghe những tiếng động khủng khiếp ấy.
Giờ đây cô nói về thành phố Marseille rộng lớn của nước Pháp, về hải cảng với các bến tàu bao la nơi buông neo của những con tàu từ mọi nơi trên thế giới, những tàu chở hàng sừng sững như những thành trì, với những lâu đài cao ngất và những cột buồm thân còn to hơn cả thân cây, những tàu chở khách trắng tinh với hàng nghìn khung cửa sổ và mang những cái tên kỳ lạ, những cờ hiệu bí ẩn, những tên thành phố, Odessa, Riga, Bergen, Limasol. Trên những con đường ở Marseille, đám đông không ngừng chen chúc, dấn bước, đi vào rồi ra khỏi các cửa hàng khổng lồ, chen lấn nhau trước quán cà phê, nhà hàng, rạp chiếu bóng, và những chiếc ô tô đen bóng lăn bánh trên các đại lộ không biết đâu là điểm dừng, những đoàn xe lửa chạy như bay trên các cây cầu treo, lướt qua các mái nhà, những chiếc phi cơ cất cánh và từ từ bay vòng trên bầu trời xám, bên trên các tòa nhà, các khu đất trống. Vào buổi trưa, chuông nhà thờ thi nhau đổ, tiếng chúng dội lại dọc các con đường, trên các bờ bãi, trong chiều sâu của những đường hầm. Ban đêm, thành phố rực sáng, đèn pha quét lên biển bằng những cây cọ ánh sáng của chúng, đèn xe lấp lánh. Các con đường hẹp thì vắng lặng, và những tên cướp mang theo dao Mỹ đứng nơi góc tường rình rập khách qua đường về muộn. Đôi khi xảy ra những trận ác chiến trên khu đất trống hoặc trên các bến tàu, dưới bóng những con tàu chở hàng đang yên ngủ.
Lalla nói rất lâu, và giọng cô dịu dàng đến đỗi ông lão Naman chìm vào giấc ngủ. Khi ông ngủ, cơ thể ông ngừng run, và hơi thở trở nên đều đặn hơn. Bấy giờ Lalla mới có thể bước ra khỏi nhà ông lão đánh cá, hai mắt đau nhói vì ánh sáng bên ngoài.
Nhiều người đau đớn vì ngọn gió tai họa, những người nghèo khổ, những đứa bé con. Khi nó thổi tới trước nhà họ, Lalla nghe thấy tiếng họ rên rỉ, tiếng những người đàn bà than vãn, tiếng bọn trẻ con khóc lóc, và cô biết rằng cả ở nơi đó nữa, có lẽ một kẻ nào đấy sắp chết. Cô buồn quá, cô rất muốn được ở một nơi xa, bên kia bờ biển, trong những thành phố mà cô đã dựng lên cho ông lão Naman.
Nhưng người đàn ông mặc com lê xám lục đã trở lại. Hắn ta chắc chắn không biết tới ngọn gió tai họa đang thổi đến Cư xá bằng ván và giấy quét hắc ín; dù sao hắn cũng bất cần chuyện ấy, bởi ngọn gió tai họa không chạm gì tới những người như hắn. Hắn thì hắn xa lạ với các tai họa, với tất cả chuyện đó.
Hắn đã trở lại ngôi nhà của Aamma và hắn gặp Lalla trước cửa. Khi trông thấy hắn, cô hoảng sợ buông ra một tiếng kêu khe khẽ, bởi cô chắc chắn hắn sẽ trở lại và cô sợ cái khoảnh khắc đó. Người đàn ông nhìn cô với vẻ mặt kỳ dị. Hắn có đôi mắt đăm đăm và khắc nghiệt, giống những người chuyên giữ vai trò chỉ huy, da mặt hắn thì trắng bệch và khô khốc, phản chiếu cái bóng màu xanh của bộ râu trên cằm và trên má. Hắn mang theo nhiều túi khác đựng quà cáp. Lalla lánh ra khi hắn đi qua trước mặt cô, và cô nhìn mấy gói quà. Hắn đã lầm về ánh mắt cô, hắn vừa bước lại phía cô vừa chìa đống quà ra.
Nhưng Lalla cố hết sức nhảy ra xa, cô vừa đi vừa chạy không quay đầu lại, cho tới khi cô cảm nhận thấy dưới hai bàn chân mình lớp cát của con đường mòn dẫn về phía những ngọn đồi đá.
Cô không biết đâu là điểm dừng của con đường. Đôi mắt nhòa lệ, trái tim se thắt, Lalla cố hết sức đi thật nhanh. Nơi đây, mặt trời vẫn luôn thiêu đốt ác liệt hơn, như thể người ta đang ở gần bầu trời hơn. Nhưng ngọn gió nặng nề không thổi trên những ngọn đồi màu gạch và phân. Đá cứng vỡ ra thành những lát tua tủa; đám cây con đen đúa đầy gai mà những túm lông cừu thường vướng phải chỗ này chỗ kia, ngay cả những ngọn cỏ cũng có thể cứa đứt như dao. Lalla bước đi rất lâu trên những ngọn đồi đá. Vài ngọn đồi cao và dốc đứng với các vách đá giống như bức tường; những ngọn đồi khác thì nhỏ tương tự đống sỏi, có thể nói chúng được bọn trẻ con dựng lên.
Mỗi lần đặt chân tới vùng đất này, cô lại tưởng như mình không còn thuộc về cái thế giới thân quen nữa, như thể thời gian và không gian đã trở nên bát ngát hơn, như thể ánh sáng hừng hực của bầu trời đi thẳng vào buồng phổi cô và làm chúng giãn nở ra, và như thể cà cơ thể cô đã trở thành cái gì đó tựa cơ thể một người khổng lồ sống thật lâu, thật chậm.
Không vội vàng, giờ đây Lalla đi dọc theo lòng con suối khô, về phía cao nguyên đá lớn, nơi ở của người mà cô vẫn gọi là Es Ser.
Cô không biết rõ tại sao mình đi về hướng này; điều đó phần nào giống như thể có hai Lalla, một Lalla không biết gì đang trốn chạy khỏi ngọn gió tai họa trong cơn mù quáng vì lo âu và giận dữ, và một Lalla khác thì biết và đang hướng đôi chân về phía nương náu của Es Ser. Thế rồi, cô đi lên phía cao nguyên đá, đầu óc trống rỗng, mà vẫn không rõ tại sao. Đôi bàn chân trần của cô gặp lại những dấu vết cũ mà gió và mặt trời không thể xóa nhòa.
Lalla từ từ bước lên phía cao nguyên đá. Mặt trời thiêu đốt mặt và vai cô, thiêu đốt đôi chân, đôi bàn tay cô. Nhưng hầu như cô không nhận ra điều đó. Chính ánh sáng mới đóng vai trò giải thoát, xóa nhòa trí nhớ, làm cho con người trở nên thuần khiết như một tảng đá trắng. Ánh sáng lau sạch ngọn gió tai họa, đốt sạch những bệnh tật, những tai ương.
Lalla bước tới, đôi mắt gần như nhắm nghiền trước sự phản chiếu của ánh sáng, mồ hôi dán chặt lớp váy dài vào bụng, vào ngực, vào lưng cô. Có lẽ trên trái đất chưa bao giờ có nhiều ánh sáng đến vậy, chưa bao giờ Lalla khát khao chính mình đến vậy, như thể cô bước ra từ một thung lũng tối tăm nơi cái chết và bóng tối ngự trị. Ở đây không khí bất động, nó run rẩy và rung vang tại chỗ, và người ta ngỡ như đang nghe tiếng động của những luồng sóng ánh sáng, thứ nhạc điệu kỳ lạ giống tiếng hát của loài ong.
Khi cô tới được cao nguyên hoang vu mênh mông, gió lại thổi ào ạt vào cô khiến cô lảo đảo. Đó là thứ gió buốt giá và khắc nghiệt, thứ gió thổi liên hồi, thổi tới tấp vào cô và khiến cô run lập cập trong Lớp quần áo đẫm mồ hôi. Ánh sáng chói chang, bùng vỡ trong gió, làm tóe ra những vì sao trên mỏm đá. Nơi đây không có cỏ, không có cây lẫn nước, chỉ có ánh sáng và gió từ bao thế kỷ nay. Không có đường đi lẫn dấu vết con người. Lalla bước tới không chủ định giữa cao nguyên nơi chỉ có rết và bọ cạp sống, nơi không ai lai vãng, dù là mục đồng sa mạc. Và, khi một con trong đám gia súc nào của họ lạc tới đó, họ chỉ vừa nhảy vừa huýt sáo và ném đá vào nó để làm nó chạy ngược ra sau.
Lalla vừa bước đi thật chậm, hai mắt gần như nhắm nghiền, vừa nhón hai đầu bàn chân tràn trên những tảng đá bỏng rẫy. Cô giống như đang ở trong một thế giới nào khác, kề bên mặt trời, cô giữ thăng bằng, đang sắp té ngã. Cô bước tới nhưng trái tim cô đã xa rời cô, hay đúng hơn, cả con người cô đang ở phía trước, trong ánh mắt của cô, trong những giác quan đang rình rập của cô; chỉ có cơ thể cô là chậm trễ, là chùng chình trên những tảng đá với những góc cạnh sắc ngọt.
Cô nôn nóng đợi người lẽ ra phải tới trong giây phút này, cô biết điều đó, đó là điều bắt buộc. Ngay khi bắt đầu chạy để thoát khỏi người đàn ông mặc áo com lê xám lục, để thoát khỏi cái chết của ông lão Naman, cô biết có người đang đợi cô trên cao nguyên đá, nơi không có bóng loài người. Đó là người chiến binh sa mạc che mạng xanh, người mà cô chỉ biết qua ánh mắt sắc bén như lưỡi dao. Người ấy đã nhìn cô từ trên cao những ngọn đồi vắng vẻ, và cái nhìn đó đã đến được với cô, đã chạm tới cô, đã dìu cô tới thẳng nơi này.
Giờ đây cô bất động giữa cao nguyên đá mênh mông. Quanh cô không có gì, chỉ có những đống sỏi kia, bụi ánh sáng kia, ngọn gió lạnh buốt và khắc nghiệt kia, bầu trời khốc liệt không chút mây không chút hơi nước kia.
Lalla vẫn không động đậy, cô đứng trên một tấm đá lớn hơi dốc, cứng còng và khô khốc mà tới giờ không thứ nước nào có thể mài nhẵn được. Ánh mặt trời dội lên người cô, rung vang trên trán, trên ngực, trong bụng cô, thứ ánh sáng ấy là một cái nhìn.
Giờ đây người chiến binh màu xanh chắc chắn sắp tới. Ông không thể chậm trễ được nữa. Lalla tưởng như mình nghe thấy tiếng xào xạo của bước chân người ấy trong bụi, và tim cô đập thật mạnh. Những cơn lốc ánh sáng trắng vây bọc lây cô, cuốn những ngọn lửa của chúng quanh đôi chân cô, trà trộn vào tóc cô và cô nghe như có cái lưỡi nóng ráp làm cháy bỏng cả môi và mí mắt cô. Hai dòng lệ mằn mặn chảy dài trên má cô, chảy vào miệng cô, mồ hôi mặn từ hai bên nách cô nhỏ xuống từng giọt, lấm tấm hai bên sườn, nó chảy ròng ròng dọc theo cổ, giữa hai bả vai. Người chiến binh xanh của sa mạc giờ đây phải tới thôi, ánh mắt người đó sẽ nóng bỏng như ánh sáng mặt trời.
Nhưng Lalla vẫn đứng một mình trên tấm đá hơi dốc giữa cao nguyên hiu quạnh. Ngọn gió buốt giá làm rát da cô, ngọn gió khủng khiếp không yêu thương gì cuộc sống con người, nó thổi tới để mài mòn và biến cuộc sống đó thành bột. Gió nơi đây chỉ thương yêu các loài bò cạp và rết, thằn lằn và rắn, cùng lắm là những con cáo với bộ lông cháy sém. Nhưng Lalla không sợ nó, bởi cô biết rằng ở đâu đó, giữa các tảng đá, hoặc trên bầu trời có ánh mắt của Người Đàn Ông Xanh mà cô gọi là Es Ser, Bí Mật, bởi ông luôn lẩn khuất. Chắc chắn ông sẽ tới đây, ánh mắt ông sẽ xuyên thấu nơi sâu thẳm nhất trong cô và cho cô sức mạnh để đánh bại người đàn ông mặc com lê xám lục, đánh bại cái chết đang sát kề Naman; sẽ biến cô thành chim, ném cô vào giữa không gian; lúc đó có lẽ rốt cuộc cô cũng gặp lại con hài âu lớn màu trắng vốn là chàng hoàng tử đang bay không mỏi mệt trên biển.
Khi ánh mắt chạm tới cô, nó khiến đầu cô quay cuồng, như một luồng sóng ánh sáng đang trải ra. Anh mắt Es Ser sáng hơn ánh lửa, với một tia sáng nóng bỏng màu xanh lam giống như tia sáng của những vì sao.
Lalla ngừng thở trong giây phút. Đôi mắt cô giãn ra. Cô ngồi xổm trong bụi, hai mắt nhắm nghiền, đầu ngửa ra phía sau, bởi có một sức nặng khủng khiếp trong ánh sáng kia, một sức nặng đang nhập vào cô và làm cho cô trở nên nặng trĩu như đá.
Ông đã tới. Một lần nữa, không gây tiếng động, chỉ lướt đi trên những hòn sỏi sắc nhọn, ăn mặc giống như các chiến binh sa mạc xưa, với chiếc áo khoác rộng bằng len trắng, và khuôn mặt được che bằng tấm mạng màu xanh sẫm. Lalla cố hết sức nhìn ông bước tới trong giấc mơ của cô. Cô trông thấy hai bàn tay màu chàm của ông, cô trông thấy ánh lửa toát ra từ ánh mắt âm u của ông. Ông không nói gì. Ông không nói bao giờ. Ông biết nói bằng ánh mắt, bởi ông sống trong một thế giới nơi lời nói của loài người không còn cần thiết nữa. Ánh sáng vàng óng cuộn xoáy quanh chiếc áo khoác của ông, như thể gió thổi làm cuộn lên những đám mây cát. Nhưng Lalla chỉ nghe thấy nhịp đập của chính trái tim minh, thật chậm chạp, thật xa xăm.
Lalla không cần tới lời nói. Cô không cần nêu những câu hỏi, không cần cả suy nghĩ. Ngồi xổm trong bụi, hai mắt nhắm nghiền, cô cảm thấy ánh mắt Người Đàn Ông Xanh trên người cô, và hơi nóng len vào thân thể cô, rung vang trong tay chân cô. Chính đó là điều phi thường. Hơi nóng của ánh mắt len vào từng ngõ ngách trong cô, xua đuổi những đau khổ, những cơn sốt, những ứ đọng, tất cả những gì gây bế tắc và đau đớn.
Es Ser không động đậy. Giờ đây ông đang đứng trước mặt cô, trong khi những luồng sóng ánh sáng cuồn cuộn lướt quanh chiếc áo khoác ông mặc. Ông đang làm gì? Lalla không còn sợ nữa, cô nghe cái nóng tăng lên trong mình, như thể những tia mặt trời xuyên qua khuôn mặt cô, soi sáng cả thân thể cô.
Cô trông thấy những gì chứa đựng trong ánh mắt Người Đàn Óng Xanh. Bất tận quanh cô là sa mạc đang lấp lánh uốn lượn, là những chùm tia sáng, là những luồng sóng chậm chạp của các cồn cát đang tiến về cõi xa lạ. Có những khu nhà, những thành phố lớn màu trắng với những cái tháp nhỏ như thân cây cọ, những dinh thự màu đỏ được trang hoàng bằng tán lá, dây leo, cánh hoa khổng lồ. Có những hồ nước lớn xanh như bầu trời, thứ nước đẹp và trong đến nỗi không nơi nào trên trái đất có được. Đó là những gì Lalla đang mơ thấy, hai mắt nhắm nghiền, đầu ngửa ra sau trong ánh mặt trời, hai cánh tay ôm lây gối. Đó là giấc mơ đến từ cõi nào khác, đã hiện hữu nơi đây, trên cao nguyên đá này, trước cô rất lâu, giấc mơ mà giờ đây cô bước vào, như trong lúc đang ngủ, và trải rộng những bờ bãi của nó trước mặt cô.
Con đường dẫn về đâu? Lalla không biết mình đi đâu trong trạng thái buông xuôi, cuốn theo ngọn gió sa mạc khi thì thiêu đốt môi và mí mắt của cô, làm cô đau rát và quáng lóa, khi thì lạnh buốt và chậm rì, ngọn gió xóa sạch con người và làm sụp đổ những tảng đá dưới chân các vách đá. Đó là ngọn gió thổi về cõi vô tận, về phía bên kia chân trời, bên kia bầu trời, tới tận những chòm sao im lìm, tới tận dải ngân hà, tới tận vầng thái dương.
Gió cuốn cô đi trên con đường vô tận, trên cao nguyên đá bát ngát nơi ánh sáng quay cuồng. Sa mạc trải rộng những cánh đồng trống hoác màu cát với đây đó những kẽ nứt, những vết nhăn, giống như những lớp da khô chết. Ánh mắt Người Đàn Ông Xanh còn đó, khắp nơi, ở tận chốn xa xôi nhất của sa mạc, và nhờ ánh mắt ấy mà giờ đây Lalla trông thấy ánh sáng. Cô cảm nhận trên da mình sự thiêu đốt của ánh mắt, gió, sự khô cằn, và môi cô có vị muối. Cô trông thấy hình dạng các cồn cát tựa những con vật khổng lồ đang nằm ngủ, và những bức thành cao màu đen của Hamada, và thành phố mênh mông khô cằn đất đỏ. Đây là xứ sở không người, không thành phố, nơi không có gì dừng lại, không có gì khuấy động. Chỉ có đá, cát và gió. Nhưng Lalla cảm thấy hạnh phúc bởi cô nhận ra từng sự vật, từng chi tiết của cảnh vật, từng cây nhỡ nám cháy trong thung lũng mênh mông. Như thể chính cô đã từng bước đi trên mặt đất này vào thuở xa xưa, đôi bàn chân trần cháy bỏng vì nền đất, mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời, nhìn vào không khí đang nhảy múa. Thế là tim cô đập nhanh hơn, mạnh hơn, và cô trông thấy trước mặt mình những dấu hiệu, những dấu vết nhạt nhòa, những nhánh cây gãy, những bụi cây run rẩy trong gió. Cô chờ đợi, cô biết mình sắp tới ngay tức thì, và giờ thì đã gần làm rồi. Ánh mắt Người Đàn Ông Xanh dắt cô đi qua những kẽ nứt, những động sụt lở, dọc theo những con suối khô cằn. Rồi bất chợt cô nghe thấy bài hát ấy, bài hát kỳ lạ, mơ hồ, giọng mũi, bài hát đang rung vang ở một nơi rất xa, như từ trong cát bay ra, hòa lẫn vào tiếng xào xạo liên tục của gió trên những tảng đá, hòa lẫn vào tiếng ánh sáng. Bài hát run rẩy trong người Lalla, cô nhận ra nó; đó là bài hát của Lalla Hawa mà Aamma đã hát, và bài hát hát rằng: "Một ngày nào đó, ôi, một ngày nào đó, con quạ sẽ trở nên trắng tinh, biển sẽ khô cằn, người ta sẽ tìm thấy mật ngọt trong hoa xương rồng, người ta sẽ làm được một chiếc giường với những cành keo..." Nhưng giờ đây Lalla không còn hiểu lời lẽ của hài hát nữa, bởi chắc là một người nào đó đang hát bằng một giọng thật xa xôi, bằng ngôn ngữ Berbère. Thế mà hài hát vẫn đi thẳng vào tim cô và đôi mắt cô nhòa lệ dù cô cố hết sức khép chặt mí mắt lại.
Điệu nhạc kéo dài rất lâu, nó đu đưa mãi cho đến khi bóng của những hòn sỏi kéo dài trên lớp cát sa mạc. Bấy giờ Lalla cũng trông thấy thành phố đỏ rực ở tận cùng thung lũng mênh mông. Đúng ra đó không phải là một thành phố giống như những thành phố mà Lalla đã biết, với những con đường và những ngôi nhà. Đó là một thành phố bùn, bị tàn phá bởi thời gian và bào mòn bởi gió, giống như những tổ mối hoặc tổ ong vò vẽ. Trên thành phố ấy, ánh sáng thật đẹp, nó tạo thành một cái vòm êm ả, sáng trưng và trong vắt trên bầu trời của buổi bình minh bất diệt. Những ngôi nhà tập hợp quanh miệng giếng, và đây đó là những bóng cây im lìm, những cây keo trắng trông như pho tượng. Nhưng điều Lalla trông thấy rõ hơn cả là nấm mồ trắng tinh, đơn sơ như một cái vỏ trứng tọa lạc trên đất đỏ. Dường như ánh sáng của ánh mắt đã từ đó mà đến, và Lalla hiểu ra rằng đó là chốn ở của Người Đàn Ông Xanh.
Điều gì đấy khủng khiếp đồng thời thật đẹp đã tới với Lalla. Như thể điều gì đấy sâu thẳm trong cô đang rách toang và gãy đổ, nhường chỗ cho cái chết, cái chưa biết đi qua. Sự nóng bỏng của sa mạc nơi cô tỏa khắp, dồn lên các tĩnh mạch của cô, hòa tan vào phủ tạng. Anh mắt Es Ser thật khủng khiếp và làm người ta đau nhói, bởi đó là nỗi thống khổ đến từ sa mạc, là cái đói, cái sợ, cái chết tới dồn dập. Ánh sáng đẹp tươi vàng óng, thành phố đỏ rực, nấm mồ trắng tinh và nhẹ nhõm nơi tỏa ra thứ ánh sáng siêu nhiên, tất cả đều mang trong mình nỗi bất hạnh, nỗi âu lo, sự cô quạnh. Đó là ánh mắt dai dẳng tuyệt vọng đang hướng tới, bởi mặt đất thì cứng còng còn bầu trời thì không muốn có loài người.
Lalla vẫn bất động, cô quỳ xuống, hai gối quỳ trên sỏi. Mặt trời thiêu đốt vai và gáy cô. Cô không mở mắt. Hai dòng lệ vạch thành những đường rãnh trong lớp bụi đỏ dán chặt trên má cô.
Khi cô đứng dậy và mở mắt, quang cảnh quanh cô mờ đi. Cô có định thần. Những dáng đồi lởm chởm hiện ra, tiếp theo là khoảng cao nguyên vắng lặng không có tới một bụi cỏ, một bóng cây, chì có ánh sáng và gió.
Thế rồi cô cất bước, dáng đi loạng choạng, cô chầm chậm bước trở xuống con đường mòn dẫn về phía thung lũng, phía biển, phía Cư xá bằng ván và giấy quét hắc ín. Giờ đây những cái bóng đổ dài, mặt trời đã xuống gần chân trời. Lalla cảm thấy mặt mình sưng phồng vì sức nóng bỏng rẫy của sa mạc, và cô nghĩ sẽ không ai nhận ra cô nữa, giờ đây khi cô đã trở nên giống Hart