← Quay lại trang sách

Chương III Xuân Trường An
❖ 1 ❖

Có một từ gọi là thích cốt . Đây là từ để chỉ cái giá rét của mùa đông Trường An.

Thích cốt, ý nói cái lạnh như đâm vào xương.

Không Hải nhập thành Trường An đúng vào cái lúc thích cốt ấy. Chính xác là ngày hai mươi mốt tháng Mười hai năm 804 theo Tây lịch.

Kể từ đó đã hơn một tháng trôi qua. Dấu hiệu của mùa xuân đã lẩn khuất trong làn gió thổi ở Trường An.

Trường An nhị nguyệt đa hương trần,

Lục nhai xa mã thanh lân lân.

Gia gia lâu thượng như hoa nhân,

Thiên chi vạn chi hồng diễm tân.

Liêm gian tiếu ngữ tự tương vấn,

Hà nhân chiếm đắc Trường An xuân?

Trường An xuân sắc bản vô chủ,

Cổ lai tận thuộc hồng lâu nữ.

Như kim vô nại hạnh viên nhân,

Tuấn mã khinh xa ủng tương khứ.

- Trường An Xuân, Vi Trang

(Dịch thơ:

Tháng Hai sáu phố Trường An

Bụi thơm cuộn khắp, rộn ràng ngựa xe

Lầu cao người đẹp như hoa

Ngàn cành đóa thắm nở ra rỡ ràng

Sau rèm cười hỏi nhau rằng

Ai người chiếm trọn được Trường An xuân?

Xuân Trường An chẳng chủ nhân

Từ xưa vẫn thuộc nữ nhân lầu hồng

Nay người vườn hạnh đã dong

Ngựa hay, xe nhẹ mà bồng mang đi.)*

Ngoại trừ những chỗ có chú thích, tất cả các bản dịch thơ trong sách này đều là của người dịch.

❖ ❖ ❖

Mùa xuân Trường An bắt đầu từ tháng Hai. Gió Bấc mang mùa xuân đến cùng với bụi đỏ.

Bấy giờ là tháng Hai.

Mùi hoa mơ chớm nở cũng đã lẫn trong làn gió.

Không Hải và Dật Thế đang thả bộ giữa hương gió báo hiệu mùa xuân đến. Cái lạnh thích cốt đã qua đi, gió đã mang hơi ấm. Những cây du, cây hòe, dương liễu ở hai bên đường phố lớn đã đâm chồi mới, màu xanh non đang bắt đầu xòe ra. Ngay cả tiếng ngựa, xe qua lại bên dưới dường như cũng thêm phần rộn rã. Đến cả màu sắc của bầu trời xanh bên trên những tòa lầu cao cũng trở nên dịu dàng hơn. Rồi cả những bước chân đi qua con phố lớn để rẽ vào hiệp tà, tên gọi những ngõ nhỏ ăn chơi ở Trường An, cũng nhẹ nhàng hơn. Cho dù một tăng môn như Không Hải có đưa chân qua con ngõ nhỏ san sát nào du lý, nào tửu phòng thì cũng chẳng ai buồn dừng lại mà soi mói. Có nhan nhản các thương nhân, quan lại, tăng môn và cả người ngoại quốc trong những con ngõ như thế.

Chẳng có đô thị nào trên thế giới vào thời kỳ ấy lại có đủ mọi chủng loại người cùng sinh sống được như ở Trường An. Tương truyền chỉ tính riêng sứ thần các nước thôi, lúc nào cũng đã có đến hơn bốn ngàn người. Trong một triệu dân Trường An thì có mười ngàn là người ngoại quốc, nếu trừ đi số lượng sứ thần, thì vẫn còn đến sáu ngàn người ngoại quốc đang sinh sống ở Trường An khi ấy.

Trước tiên phải kể đến Oa quốc (Nhật Bản).

Kế đến là Thổ Phồn (Tây Tạng).

Rồi Tây Hồ (Iran).

Đại Thực (Ả-Rập).

Thiên Trúc (Ấn Độ).

Ngoài ra còn có người Thổ Nhĩ Kỳ, Duy Ngô Nhĩ, các dân tộc vùng Tây Vực và các dân tộc thiểu số khác quần tụ ở đô thị này.

Họ không chỉ đem đến đây văn vật. Họ còn mang tới cả tôn giáo.

Đạo giáo.

Phật giáo.

Mật giáo.

Những tôn giáo này thì khỏi nói. Nhưng đến cả Hiên giáo, quốc giáo của Tây Hồ, còn có tên gọi khác là Bái Hỏa giáo, rồi Mani giáo cũng du nhập vào Trường An. Thậm chí là Cảnh giáo, tức Giáo hội Phương Đông, cũng có mặt tại đây. Các tôn giáo này đều có đền thờ, tự viện ở Trường An.

Ở Trường An không có phân biệt chủng tộc, người ngoại quốc nếu đạt thành tích tốt trong thi cử có thể được bổ làm quan và thăng tiến. Trên thực tế đã có rất nhiều người ngoại quốc làm được như vậy.

Hơn nữa, những tôn giáo đa dạng do các dân tộc khác đem đến ấy còn được bảo hộ cả trên phương diện chính trị.

Và những người ngoại quốc này đang hòa mình vào với đám đông bước đi trên đường phố, giống như có ai đó bốc lấy một nhúm bột màu sặc sỡ và rắc ra khắp nơi vậy.

Ta có thể thấy những người Hồ mặc áo khoác da, đi giày ống cao tới gối đang rảo bước ngay trước mắt, hoặc nghe vẳng ra từ bên trong một tửu phòng cạnh đường tiếng nhạc Hồ. Hồ, là từ để chỉ Iran theo nghĩa hẹp, còn theo nghĩa rộng là để chỉ vùng Tây Vực. Cách gọi người Hồ, thường sẽ bao gồm cả người Tây Hồ (Iran), người Đại Thực (Ả-Rập), người Ba Tư, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Duy Ngô Nhĩ.

Hồ nữ.

Hồ cơ.

Hồ thương.

Hồ ma.

Hồ nhạc.

Hồ tuyền vũ.

Đây đều là những từ dùng để nói về con người Tây Vực hoặc các món ăn cũng như văn hóa từ Tây Vực truyền sang.

Hồng mao bích nhãn, tức giống người tóc đỏ mắt xanh.

Trường An là nơi đầu tiên Không Hải và Dật Thế được trông thấy tận mắt giống người này. Việc giới quý tộc hay quan nhân học theo lối Tây Vực đang trở thành một trào lưu thời thượng. Không khó để bắt gặp hình ảnh những trang công tử sầm sập phi ngựa trên đường trong đôi giầy cao cổ và áo vạt dài kiểu Tây Vực.

Tiếng người trò chuyện, tiếng ngựa xe, những giai điệu hợp tấu văng vẳng, mùi thức ăn... Với bọn Không Hải, tất cả đều là những thứ thuộc về ngoại quốc. Tạp nham, inh ỏi và hỗn độn. Không chỉ Dật Thế, mà ngay cả Không Hải khi đặt mình vào khung cảnh ấy cũng dường như trở nên phởn trí hơn.

Nhưng Không Hải khác với Dật Thế ở chỗ, Không Hải nhìn thấy vũ trụ trong quang cảnh ấy. Không Hải biết rằng, mọi vật trong mắt mình, thoạt nhìn thì có vẻ khác nhau, nhưng rốt lại đều giống nhau và ngang bằng nhau bên trong một thứ gọi là vũ trụ. Mọi vật đều nằm ở cùng một khoảng cách so với vũ trụ.

Cậu tin như vậy.

Điều duy nhất mà cậu khác mọi người, nếu có, chính là ở chỗ cậu biết rằng cái nguyên lý của vũ trụ ấy tồn tại xuyên suốt trong thân xác không chỉ của mọi người, mà còn của chính cậu, với một sức mạnh ào ạt. Không Hải càng cảm nhận rõ ràng hơn vũ trụ ấy khi lặn ngụp trong con phố này.

Nguyên lý vũ trụ, nếu nói theo Mật giáo, thì tức là Đại Nhật Như Lai. Thân xác cậu được ôm trọn, lọt sâu trong cái Đại Nhật Như Lai ấy.

Không Hải tin là như vậy.

Không Hải nhìn thấu một điều: những thứ trông thấy được, những thứ sờ thấy được, những thứ ngửi thấy được, những thứ nghe thấy được, những thứ nếm thấy được... thảy đều cùng là một cái bong bóng mà thôi.

Tuy nhìn thấu, song Không Hải không đón nhận chúng bằng con mắt lãnh đạm. Trước những chuyện lạ lùng, cậu vẫn tỏ ra xúc động theo một cách cực kỳ hồn nhiên; nhìn thấy những món chưa từng ăn, cậu sẽ lập tức nhón lấy bỏ vào miệng. Tất cả đều có mùi vị khác nhau. Tuy cùng là sự vật ấy, nhưng phàm khi đã đi qua đôi mắt của từng con-người-cá-thể, thì mọi vật đều hiện ra khác nhau. Không Hải nhìn thấu cái nhãn quan đầy mâu thuẫn: tuy giống mà lại khác nhau ấy, ở chính bên trong con người mình.

Thật kỳ lạ.

Và Không Hải lúc nào cũng hồn nhiên tận hưởng sự hỗn loạn kỳ lạ này.

“Hay thật.” Không Hải lẩm bẩm trong lúc bước đi.

Dật Thế đang đi bên cạnh, nghe thấy thế liền hỏi: “Cái gì hay hả Không Hải?”

“Tâm ta.” Trả lời xong, Không Hải mỉm cười, chân vẫn không ngừng bước.

“Thôi nào Không Hải, cậu lại đang nghĩ đến những chuyện rối óc chứ gì.”

“Chẳng có chuyện gì rối óc cả đâu.”

“Thế thì là gì?”

Không Hải đưa mắt nhìn một lượt đám đông xung quanh rồi nói: “Cậu nhìn xem.”

“Tớ nhìn rồi, thì sao?” Dật Thế quay sang nhìn Không Hải.

“Mạn Đà La đó.” Giọng Không Hải thoảng nhẹ.

“Đấy, rối óc thế còn gì.”

“Đâu có.”

“Mà thôi. Dù sao thì chuyện của cậu cũng thú vị, nên tớ luôn sẵn lòng lắng nghe. Tớ hứa sẽ lắng nghe, chỉ có điều, Không Hải ạ...”

“Gì nào?”

“Chớ có dùng lời lẽ mà lừa đấy.”

“Tớ chẳng lừa phỉnh gì cả.”

“Thôi được rồi, cậu nói tiếp đi. Làm sao cho dễ hiểu vào.”

Không Hải tủm tỉm cười.

“Đồng ý.”

Không Hải vừa bước đi vừa ngửa mặt nhìn trời, rồi lại đưa ánh mắt về phía đám đông trên mặt đất.

“Ví dụ thế này, tớ và cậu là hai người khác nhau đúng không.”

“Tất nhiên là khác nhau rồi.” Dật Thế nói.

“Người Oa và người Hán cũng khác nhau. Nho sĩ và Sa môn cũng khác nhau, thêm nữa là người giàu và người nghèo cũng khác nhau.”

“Ừm.”

“Tuy nhiên,” nói đến đó, Không Hải liền trỏ tay.

Ở phía ấy là tường bao của một kỹ quán, cành bạch mai vừa điểm một bông hoa đang chìa ra khỏi bức tường và vươn cao bên trên con ngõ.

“Khoảng cách tính từ bông hoa đó đến bất cứ ai cũng giống nhau.”

“Gì cơ!?” Dật Thế kêu lên. “Sao vẫn rối óc vậy.”

“Thế thì hay là ta lấy áng mây kia nhé.” Không Hải nói.

“Mây?”

“Đằng kia có áng mây đang trôi.” Không Hải ngửa cổ nhìn lên.

“Ừ, đúng là có mây.” Dật Thế đáp.

Bông hoa theo hướng tay chỉ của Không Hải ban nãy lùi dần ra xa khỏi tầm nhìn của Dật Thế. Cao tít bên trên bông bạch mai đó, có một áng mây đang trôi bảng lảng về đằng Đông. Thoang thoảng mùi thơm của hoa mai.

“Khoảng cách từ đám mây đó đến tất cả mọi người ở đây chẳng phải đều như nhau sao? Không hề có chuyện vì giàu nên gần mây hơn, bởi nghèo nên xa mây hơn, hay vì cậu là Nho sĩ, vì tớ là Sa môn nên thế này thế nọ.”

“Ừm.”

“Mọi người đều như nhau.”

“Cái đó thì đương nhiên rồi còn gì.”

“Nhưng nếu hỏỉ Sa môn và Nho sĩ có khác nhau không, thì có khác. Người giàu và người nghèo có khác nhau không, cũng có khác.”

“Ừm.”

“Tại sao thế?”

“Đừng có hỏi đột ngột như thế chứ, Không Hải.”

“Hỏi có khác không, có khác. Bảo có giống nhau không, có giống. Tại sao lại như thế?”

“Lần trước, trên xe ngựa đi tới Trường An, cậu cũng đã nói đến điều này. Cậu hãy trả lời câu hỏi đó đi. Tớ rất ngại những chuyện rối óc.”

“Câu trả lời là thế này. Chia ra Sa môn và Nho sĩ, hay người giàu và người nghèo, là luật của con người. Đó là cách phân chia do luật của con người tạo ra.”

“Ồ.”

“Thế còn nói Sa môn cũng như Nho sĩ, người giàu cũng như người nghèo, ấy là luật của trời.”

“Ra là vậy.”

“Điều này thì chắc cậu hiểu chứ.”

“Ừ thì cũng tạm hiểu.”

“Vấn đề là như vậy đó, Dật Thế ạ.”

“Ừm.”

“Tớ và cậu, Sa môn và Nho sĩ, đều như nhau, tương tự thì bông hoa mai ban nãy, chó hay mèo, rắn hay cá, cũng chẳng khác gì tớ và cậu.”

“Hừm.”

“Tất cả đều là những sinh linh như nhau. Nếu xét từ luật của trời.”

“Hừm.”

“Nói rộng hơn ra, cũng tương tự việc chúng ta với hoa, chó, rắn hay cá đều như nhau, thì mặt đất này, viên đá kia, đám mây ấy, bầu trời đó và vạn vật khác đều như nhau cả. Nếu đặt trong luật của trời.”

“Hừm.”

“Cái nguyên lý ấy của vũ trụ khỏa kín trong tớ, trong cậu, trong bông hoa mai ban nãy, trong cả người Hán lẫn người Hồ đang qua lại kia, trong các ngôi nhà, trong tiếng nhạc văng vẳng và trong cả mùi cá kho nữa. Mọi vật, từ đầu chí cuối, đều bị chi phối bởi nguyên lý ấy của vũ trụ.”

“Tóm lại thì đó là...”

“Cái được gọi là Mạn Đà La.”

“Cái Mạn Đà La ấy rốt cuộc thì...”

“Thật là hay, như tớ nói lúc nãy.”

“Từ nãy tới giờ trong lúc đi bộ, cậu chỉ toàn nghĩ đến những chuyện rối óc như thế sao?”

“Không hề rối óc tí nào.”

“Chịu không theo nổi cậu.” Tuy nói vậy, nhưng Dật Thế chẳng hề tỏ ra khó chịu. Ngược lại, cậu còn ngắm nhìn chàng dị tăng cùng mình từ Oa quốc sang đây với ánh mắt hồ hởi.

Từ “vũ trụ” mà Không Hải thường nhắc đến đã có từ thời kỳ này. Cả “vũ” và “trụ” đều là nhũng từ dùng để chỉ một vật che chở khổng lồ, nói cách khác là mái nhà. Ngoài ra, trong sách Thi tử thời Chiến quốc có viết: “Bốn phương trên dưới là vũ, từ xưa đến nay là trụ.”

“Bốn phương trên dưới”, tức là không gian vậy. “Từ xưa đến nay” là nói đến quá khứ, hiện tại, tương lai, tức là thời gian vậy.

Quan niệm coi vũ trụ, mà theo cách nói ngày nay là không-thời gian, đã xuất hiện ở Trung Quốc cổ đại, sớm hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.

“Đi cùng cậu, tớ bắt đầu có cảm giác như ở đâu cũng giống nhau vậy.” Dật Thế nói.

“Ở đâu là ở đâu?”

“Ở Oa quốc cũng thế mà ở Đường quốc này cũng vậy.”

“Thế hả.”

“Nhưng dù như nhau hay thế nào đi chăng nữa, thì chắc hẳn là ông ấy đã rất mong được quay trở về, Không Hải nhỉ.”

“Cậu đang nói đến hòa thượng Vĩnh Trung đấy à?”

“Phải rồi.” Dật Thế đáp.

Không Hải và Dật Thế đang trên đường trở về từ Tây Minh Tự.

Mùng chín tháng Hai.

Mai là ngày mà sứ đoàn do Đằng Nguyên Cát Dã Ma Lữ dẫn đầu sẽ rời Trường An để về Nhật Bản. Theo dự định thì lẽ ra sứ đoàn đã xuất phát trước đó ít lâu, nhưng vì có sự tình, nên việc khởi hành bị chậm lại.

Sự tình ở đây là nói đến cái chết của đương kim hoàng đế Đức Tông. Đức Tông băng vào ngày Quý Tị tháng Chạp năm Trinh Nguyên thứ hai mươi mốt, tức ngày hai mươi ba tháng Một, thọ sáu mươi tư tuổi. Ba ngày sau, thái tử Lý Tụng khi ấy bốn mươi lăm tuổi lên ngôi. Tuy nhiên, tân hoàng đế vì bị đột quỵ từ tháng Tám năm ngoái, nên bị liệt, không nói năng gì được.

Sau khi bọn Không Hải đến Trường An năm ngoái, đã làm lễ yết kiến vào ngày hai mươi lăm tháng Mười hai. Lúc ấy, cả Không Hải lẫn Dật Thế đều đã tận mắt nhìn thấy hai cha con họ, những kẻ bất hạnh.

Lễ yết kiến là để dành cho đoàn Khiển Đường sứ Nhật Bản và sứ đoàn Nam Chiếu, Thổ Phồn đến Trường An cùng một thời điểm, tuy nhiên cơ thể Đức Tông khi đó chỉ nhìn qua cũng biết là đã lâm bạo bệnh.

Thái tử lúc ấy ở trong tình trạng nếu không có ngưòi dìu thì không thể đi lại được. Ông ta cũng không nói câu nào.

Cát Dã Ma Lữ cũng đã vài lần nhắc đến chuyện hoàng đế Đức Tông chẳng bao lâu nữa sẽ chết vì bệnh, nhưng có vẻ không nghĩ rằng chuyện đó lại xảy ra ngay khi mình còn ở Đường. Vậy mà nó đã xảy ra.

Trong hoàn cảnh ấy, cho dù là sứ giả ngoại bang thì cũng phải để trở. Cát Dã Ma Lữ mặc mũ áo thô để tỏ lòng thương tiếc trước cái chết của hoàng đế Đức Tông, đứng chống gậy ở Thừa Thiên Môn. Không Hải cũng có mặt trong hàng người đó.

Vì chuyện này mà ngày khởi hành phải rời lại đến mùng mười tháng Hai. Tức là ngày mai. Sau khi đoàn Khiển Đường sứ về nước, Không Hải và Dật Thế, những người còn lưu lại, sẽ không thể ở mãi tại Hồng Lô khách quán nằm trong Tuyên Dương Phường, vốn là nơi nghỉ chân của sứ đoàn.

Lưu học tăng Không Hải sẽ phải chuyển đến Tây Minh Tự thuộc Diên Khang Phường, đây là nơi lưu trú chính thức do triều đình nhà Đường sắp xếp.

Chỉ còn hôm nay nữa là sứ đoàn khởi hành, Không Hải cùng với Dật Thế gói ghém đồ đạc, rồi mướn người chở bằng xe ngựa đến Tây Minh Tự. Dật Thế vẫn chưa được sắp xếp nơi ở, nên sẽ tá túc ít lâu ở chỗ Không Hải.

Tuyên Dương Phường, nơi bọn Không Hải lưu trú trong quãng thòi gian vừa rồi, nằm ở phía Đông con phố chính chia Trường An thành hai nửa Đông-Tây là phố Chu Tước, tức là về mạn phố Đông. Còn Diên Khang Phường nơi có Tây Minh Tự thì nằm ở phía Tây, tức là về mạn phố Tây. Hai nơi cách nhau chừng một dặm ba, tức gần một cây số. Sau khi hạ hành lý và cho xe ngựa về trước, Không Hải cùng Dật Thế quyết định đi bộ về Tuyên Dương Phường.

Cuộc nói chuyện về vũ trụ, về Mạn Đà La, diễn ra trên quãng đường ấy. Và Dật Thế hình như vừa nhớ đến việc của Vĩnh Trung.

Vĩnh Trung... một nhà sư Nhật Bản vượt biển sang Đường ba mươi năm trước. Thời ấy còn chưa có thuyền chuyên chở Khiển Đường sứ nên Vĩnh Trung đã phải vượt biển trên một thuyền buôn. Hơn nữa, không phải năm nào cũng có thuyền chở Khiển Đường sứ qua lại. Kỳ thực, đoàn thuyền chở bọn Không Hải là chuyến đầu tiên sau hai mươi tư, hai mươi lăm năm gián đoạn.

Nơi mà Vĩnh Trung, người lưu học tăng ấy sinh sống trong suốt ba mươi năm ở Trường An này chính là Tây Minh Tự. Và căn phòng mà Không Hải dọn tới, cũng chính là nơi trú ngụ của Vĩnh Trung trong ba mươi năm qua.

Cách đây ít lâu, Vĩnh Trung có đến đón Không Hải và Dật Thế rồi dẫn đi thăm khắp một lượt Tây Minh Tự.

Đây là lần thứ hai Dật Thế gặp Vĩnh Trung, còn Không Hải thì đã nhiều lần tới thăm Vĩnh Trung ở Tây Minh Tự.

Sau khi dẫn Không Hải, người chủ mới, vào căn phòng đã dọn dẹp sạch sẽ, Vĩnh Trung nhìn lại nơi mình từng sống suốt ba mươi năm, bùi ngùi nói: “Ba mươi năm thật là dài...”

Kể về ba mươi năm trước, khi ấy triều đình Nhật Bản vẫn còn đang ở Nara và Không Hải vừa mới chào đời. Người báo cho Vĩnh Trung biết kinh đô đã dời về Hei’an chính là Không Hải.

Mùi cơ thể Vĩnh Trung dường như đã thấm vào từng ngóc ngách căn phòng.

“Giờ đây người quen của ta ở đây đã nhiều hơn hẳn ở Nhật Bản, vả lại ta cũng hiểu rõ tính khí của họ. Chỉ có điều...”

Vĩnh Trung ngừng lời, ngắm nghía căn phòng với ánh mắt tràn đầy yêu thương.

“Chỉ có điều, ta vẫn muốn về đất nước ấy.”

“Nhất định thầy sẽ về được. Trước hè năm nay là thầy có thể đặt chân lên đất Nhật rồi.”

Nghe Không Hải nói vậy, Vĩnh Trung đưa tay chặm nơi khóe mắt.

“Ta cảm thấy một nửa của ba mươi năm ấy là quãng thời gian vô ích. Nếu là bây giờ, ta nghĩ chỉ cần mười lăm năm là ta có thể thu lượm được những thứ ta đang có để mang về Nhật Bản.” Nói đoạn, Vĩnh Trung nhìn Không Hải, “Cậu bảo sang đây để học Mật đúng không nhỉ?”

“Đúng thế ạ.”

“Nếu học Mật, thì có lẽ không ai hơn hòa thượng Huệ Quả ở Thanh Long Tự.” Vĩnh Trung nói.

“Tôi cũng nghe nhiều người nói vậy.”

“Họ nói đúng đấy, nhưng mà...” Như để nhấn mạnh một điều gì quan trọng, Vĩnh Trung đưa mắt sang Không Hải. “Ở đất nước này, nếu được mời đến thay vì tự mình tìm đến, mọi chuyện sẽ tiến triển nhanh hơn rất nhiều. Kể cả là học Mật cũng vậy. Giả sử cậu có được thư tiến cử của ai đó mà đem đến và dẫu có gặp được hòa thượng Huệ Quả, thì trong ba năm đầu cậu vẫn chỉ làm chân sai vặt mà thôi. Sang năm thứ ba cậu mới được gọi lên cho tụng một hai bài kinh, và rồi sẽ phải mất thêm mười đến mười lăm năm nữa mới được ban quán đỉnh*.”

Tiếng Phạn là abhiseka, tức là nghi thức nhập môn trong Mật giáo.

“Dạ.”

“Cậu bảo định ở lại đây hai mươi năm, nhưng nếu được hòa thượng Huệ Quả gọi đến thì, tất nhiên còn tùy thuộc khả năng của cậu, chắc chỉ năm đến bảy năm là xong thôi.”

“Vậy mà có người nói rằng sẽ học xong trong vòng một năm.”

“Ồ!”

“Một tăng sinh tên là Tối Trừng.”

“Ra vậy. Ta từng nghe nói rằng trong đoàn Khiển Đường sứ lần này có một tăng sinh không đến Trường An mà tới thẳng Thiên Thai, hình như đúng là cái tên đó...”

“Đúng vậy đấy ạ.”

“Nhưng một năm thì lại gấp gáp quá.”

“Nếu là lái buôn đến để mua kinh sách, thì một năm cũng là khoảng thời gian khả dĩ chấp nhận ạ.”

“Thật là một ý kiến nghiêm khắc. Thế còn cậu thì sao?”

“Nếu Tối Trừng là lái buôn, thì tôi sẽ là kẻ cắp.”

“Cậu nói hay lắm.”

“Tôi nghe nói ở Tây Minh Tự này có người có mối thâm giao với Thanh Long Tự của hòa thượng Huệ Quả...”

“Ái chà chà, cậu còn biết đến thế cơ à. Vậy thì có lẽ là nói đến Chí Minh và Đàm Thắng rồi. Hôm nay bọn họ đều có ở chùa, để tôi giới thiệu cậu nhé.”

“Dạ chưa ạ. Chưa đến lúc đó. Chỉ cần thầy nói lại với họ rằng hình như có một nhà sư tên là Không Hải từ Nhật Bản sang muốn trộm Mật đem về, như vậy là đủ.”

“Nói với họ rằng cậu sang đây để trộm Mật đem về thật đấy hả?”

“Vâng ạ.”

“Thêm nữa, về chuyện hòa thượng Huệ Quả, cậu có nghe gì không?”

“Nghe gì ạ?”

“Như là chuyện hòa thượng Huệ Quả bị bệnh.”

“Về chuyện này, tôi có nghe phong thanh, nhưng bệnh tình có nặng không ạ?”

“Trong năm nay thì chưa hề gì, nhưng e rằng năm năm như ta nói ban nãy thì không cầm cự nổi.”

“Nghĩa là ngay cả một người ở cực đỉnh của Mật pháp cũng phải tuân theo luật trời phải không ạ?”

“Đúng vậy, vì ngay cả đấng Thích tôn cũng không khác được...”

“Vâng.”

“Ngài Bất Không là người truyền Mật cho ngài Huệ Quả, rồi ngài Kim Cang Trí là người truyền Mật cho ngài Bất Không, cũng đều không còn ở cõi này.”

“Thực tình thì tôi sinh ra vào đúng ngày Bất Không Bồ Tát nhập diệt.”

“Ồ, thật vậy hả?”

“Đúng vậy ạ.”

“Mà cũng đúng thôi.”

“Về chuyện gì ạ?”

“Dẫu có đạt đến cực đỉnh của Mật pháp thì rốt cùng cũng vẫn phải chết mà thôi.”

“May quá.”

“Hả...?” Có vẻ như bị bất ngờ trước câu nói của Không Hải, Vĩnh Trung chỉ kịp bật ra một tiếng tỏ ý chưa hiểu.

“Quả thực, chết... luôn gây ra một cảm giác rạo rực. Vì phải chết nên mới có Phật, nên mới có Mật. Còn nếu muốn tìm phép bất tử, thì đã có Huyền đạo. Nhưng dẫu học Huyền đạo, thì chết vẫn cứ chết mà thôi.”

Huyền đạo, tức là chỉ phép tu tiên vậy.

“Lái buôn cũng chết. Môn đồ Phật pháp cũng chết. Ăn mày cũng chết. Môn đồ Mật giáo cũng chết. Đạo sĩ cũng chết. Đến cả đế vương rồi cũng chết...” Không Hải kể ra một cách thích thú.

“Sẽ chết cả.” Không để Vĩnh Trung kịp đáp, Không Hải bình thản nói chặn trước: “Thật đã đời.”

“Ồ.”

“Vì thế mới có Phật pháp, mới có Mật giáo.”

Nghe xong câu nói ấy, Vĩnh Trung nhìn như không muốn dời mắt khỏi Không Hải.

“Cậu quả là một con người kỳ lạ.” Vĩnh Trung bảo Không Hải.

Trong lúc nói chuyện với Không Hải, lời lẽ của Vĩnh Trung dường như dần trở nên kính cẩn hơn.

“Được nói chuyện với một ngưòi như cậu, tôi bỗng thấy tiếc vì ngày mai đã phải trở về Nhật Bản. Giá mà có thể ở lại đất nước này để được trò chuyện nhiều hon, nhưng dẫu sao tôi vẫn phải về...” Vĩnh Trung bùi ngùi nói với Không Hải.

“Dẫu sao vẫn phải về ư?” Dật Thế vừa đi vừa nhẩm lại những lời của Vĩnh Trung khi ấy.

“Bọn mình sẽ phải ở lại đây hai mươi năm...”

Dường như phải đến lúc này Dật Thế mới bắt đầu suy nghĩ về khoảng thời gian hai mươi năm tới ở Trường An.

“Có lẽ chẳng cần đến hai mươi năm đâu.” Không Hải nói.

“Nhưng Không Hải ơi, cho dù cậu lĩnh hội được Mật giáo trong vòng năm năm như lời hòa thượng Vĩnh Trung nói, thì hai mươi năm vẫn sẽ là hai mươi năm thôi. Chúng ta sang đây với lời hứa như vậy mà. Chúng ta đâu thể tự mình quyết định được là năm năm hay bao lâu.”

“Hà hà.”

“Dù cho quyết định sẽ về sau năm năm nữa, thì liệu thuyền chở Khiển Đường sứ từ Nhật Bản có sang đúng dịp ấy không? Tớ ngờ rằng thậm chí đến hai mươi năm sau cũng chưa chắc đã có thuyền sang ấy chứ.”

“Tớ biết chứ.” Không Hải bước đi nhẹ tênh như gió.

“Tớ đã gieo sẵn hạt rồi, chắc sẽ sớm có mầm tốt thôi.” Không Hải như đang nói một mình.

“Cậu nói gieo hạt nghĩa là sao?”

“Cậu hãy chờ đến lúc nảy mầm.”

“Chậc!” Dật Thế lấy chân đá viên sỏi như một đứa trẻ. “Chẳng phải là phương tri lão ám thôi ư?”

Dật Thế lẩm bẩm một câu thơ, đại ý rằng: Tự lúc nào đã biết mình bắt đầu già.

“Trong bài thơ ban nãy hả?” Không Hải hỏi.

Bài thơ ban nãy là ý nói đến bài thơ mà Vĩnh Trưng đưa cho xem sau khi vãn chuyện.

“Kể ra mới nhớ, Tây Minh Tự vốn là một nơi nổi tiếng về mẫu đơn phải không ạ?” Người nói câu ấy với Vĩnh Trung là Không Hải.

“Mẫu đơn ở đây thì tuyệt hảo.” Vĩnh Trung đáp.

Hoa mẫu đơn ở Tây Minh Tự thường nở muộn hơn so với những địa điểm nổi tiếng về mẫu đơn khác của Trường An. Bởi thế khi đến mùa hoa, nơi đây sẽ vô cùng tấp nập. Rất nhiều văn nhân, mặc khách Trường An thường tới đây vịnh thơ, vẽ tranh.

“Hình như cậu cũng vịnh thơ phải không?”

“Dạ không, nói là vịnh thơ thì hơi quá.”

“Đừng nói vậy, nhiều người khen cậu là bậc văn hay chữ tốt lắm đấy. Nếu cậu hứng thú, ta muốn cho cậu xem cái này...”

“Gì vậy ạ?”

“Có một tập quyển chép lại các bài thơ đề vịnh của những người tới chơi Tây Minh Tự này...”

“Vậy thì xin cho tôi xem ngay.”

Thế là Vĩnh Trung bèn đứng lên mang tập thơ đến. Trong đó có một bài thơ mà Dật Thế vừa nhắc tới một câu.

“Bài này đề năm ngoái.”

Không Hải và Dật Thế cùng xem bài thơ đó.

Tựa đề bài thơ là: Tây Minh Tự mẫu đơn hoa thời, ức Nguyên Cửu.

Tiền niên đề danh xứ

Kim nhật khán hoa lai

Nhất tác vân hương lại

Tam kiến mẫu đơn khai

Khởi độc hoa kham tích

Phương tri lão ám thôi

Hà huống tầm hoa bạn

Đông Đô khứ vị hồi

Cự tri hồng phương trắc

Xuân tận tứ du tai!

(Dịch thơ:

Nhớ Nguyên Cửu khi mẫu đơn nở ở Tây Minh Tự

Chỗ đề thơ năm ngoái

Nay lại tới xem hoa

Từ làm vân hương lại*

Mẫu đơn đã ba mùa

Thưởng một mình thấy tiếc

Biết rằng thôi sắp già

Hỡi đâu người cùng ngắm

Đông Đô vẫn chưa về

Hay chăng bên hoa thắm

Tôi buồn vì xuân qua!)

Chỉ một chức lại viên trong Bí thư sảnh (cơ quan phụ trách văn thư trong triều)

❖ ❖ ❖

Bên dưới tựa đề là tên tác giả: “Bạch Lạc Thiên tác”.

Bạch Lạc Thiên là tự. Tên thật là Bạch Cư Dị.

Thơ của Bạch Lạc Thiên được truyền sang Nhật Bản dưới tên gọi Bạch thị văn tập, đây là tập thơ gối đầu giường của tầng lớp có học thời kỳ Hei’an, nhưng phải sau thời điểm diễn ra câu chuyện này ít lâu, tập thơ mới trở thành đề tài sôi nổi trong giới quyền quý Nhật Bản.

Vào thời gian Không Hải nhập Đường, Bạch Lạc Thiên vẫn còn là một lại viên gần như vô danh trong Bí thư sảnh. Tất nhiên, Không Hải khi đó vẫn chưa biết tới tên tuổi Bạch Lạc Thiên.

“Trường hận ca”, bản trường ca về tình yêu giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi được viết bởi Bạch Lạc Thiên cũng là việc về sau.

“Thầy chép lại phải không ạ?” Không Hải hỏi.

“Ồ không, người chép lại là Chí Minh mà ta nhắc tới ban nãy. Cậu ta rất thích công việc này. Ta vừa chạy qua mượn cậu ta đấy.”

“Tác giả là người như thế nào?”

“Hình như là người quen của Chí Minh. Nghe nói là một lại viên trong Bí thư sảnh, ta có chạm mặt một lần, đâu cỡ trạc tuổi cậu.”

Đúng như lời Vĩnh Trung nói, năm đó Không Hải ba mươi hai tuổi, còn Bạch Lạc Thiên là ba mươi tư, hơn Không Hải hai tuổi.

“Vậy mà...” Không Hải cất tiếng.

“Cậu định nói tác giả lại viết rằng mình đã già phải không?”

“Vâng.” Không Hải đáp.

Một bài thơ hay.

Năm nay phải đi ngắm mẫu đơn một mình ở nơi mà năm ngoái đã cùng ngắm với người bạn thân là Nguyên Cửu. Có lẽ người bạn thân ấy giờ đang ở Lạc Dương.

Trong mùi hoa thơm ngát, tác giả ngẫm về sự già.

Đó quả thực là quan niệm của Phật pháp. Hay nói đúng hơn, đó là xuất phát điểm của Phật pháp.

Nói theo Mật giáo, thì đó là bản chất của sinh mệnh: chào đời, sống, rồi chết. Mật giáo coi cái sinh mệnh sinh sinh lưu chuyển ấy chính là động lực của vũ trụ rộng lớn.

“Tôi muốn xem thêm những bài thơ khác nữa.” Không Hải bày tỏ.

“Nếu cậu thấy hứng thú thì chỉ cần đánh tiếng với Chí Minh, cậu ta sẽ giới thiệu Bạch Lạc Thiên với cậu ngay.”

“Tôi hiểu.”

“À, về chuyện hôm trước.” Vĩnh Trung như chợt nhớ ra.

“Thầy đã tìm được ai ưng ý chưa ạ?”

“Rồi, nghe nói Bát Nhã Tam Tạng sẽ dạy cho cậu.”

“Vậy thì may quá.”

“Không ai phù hợp hơn cậu ấy đâu. Vì dù sao thì ấy cũng là người Thiên Trúc.”

“Nếu tôi nhớ không nhầm thì cậu ấy cũng học Phật pháp ở Tăng viện Nalanda, nơi mà Huyền Trang đã tu tập...”

“Phải rồi. Còn về tiếng Đường thì cậu ấy không khác gì người bản xứ. Học cùng một người thông thạo tiếng Đường ngang với cậu, hẳn là sẽ có nhiều thuận lợi.”

Vĩnh Trung đã nói như vậy.

Sau đó họ chuyển sang ôn lại một thôi những chuyện về Nhật Bản, rồi Không Hải cùng Dật Thế cáo từ và rời khỏi Tây Minh Tự.

“Kiểu thơ như vậy không phải kiểu tớ thích.” Vừa đi, Dật Thế vừa nói.

“Lối thơ bộc trực như thế hẳn là Dật Thế không thích rồi.”

“Ờ, đúng thế.” Dật Thế đáp.

Chẳng mấy chốc, họ đã chỉ còn cách Tuyên Dương Phường vài bước chân.

“Mà Không Hải này, đàm đạo về thơ xong, hòa thượng Vĩnh Trung còn nói cái gì ấy nhỉ...”

“À, về chuyện Bát Nhã Tam Tạng sẽ dạy cho tớ ấy hả?”

“Dạy cái gì thế?”

“Tiếng Phạn ấy mà.” Không Hải đáp.

“Tiếng Phạn?”

Tiếng Phạn, hay còn gọi là tiếng Sanskrit được dùng ở Ấn Độ cổ đại.

“Ừ.”

“Tại sao?”

“Tất cả các Phật điển mà bọn tớ đọc được đều viết bằng tiếng Đường. Nhưng vốn ban đầu chúng không phải được viết bằng tiếng Đường.”

“Ừm.”

“Mà đầu tiên được viết bằng tiếng Thiên Trúc. Tiếng Thiên Trúc ấy chính là tiếng Phạn.”

“Ờ...”

“Nếu không biết tiếng Phạn, sẽ không hiểu được những chỗ sâu xa, vi tế nhất dù là của Phật pháp hay Mật giáo.”

“Ra là vậy.”

“Hơn nữa, giả sử tớ có thể ngay lập tức đến chỗ hòa thượng Huệ Quả, rồi được dạy Mật luôn từ ngày đầu, song nếu không biết tiếng Phạn thì cũng vô dụng...”

“Nhưng cậu đã biết viết và nói được tiếng Phạn rồi cơ mà?”

“Thứ tiếng Phạn ấy chỉ có tác dụng ở Nhật Bản thôi. Nó không đủ để trộm Mật mang về. Biết như thế thì thà không biết gì còn hơn.”

“Nhưng cậu sẽ phải mất nhiều năm.”

“Không, không lâu đến thế đâu.” Không Hải nói đầy vẻ tự tin.

“À mà cậu vừa nói là được dạy luôn từ ngày đầu tiên phải không?”

“Đúng là tớ có nói thế, nhưng tất nhiên không có chuyện sẽ được dạy ngay từ hôm đầu gặp mặt. Chỉ là giả dụ thế thôi.”

“Tiếng Phạn cơ đấy...”

“Có thể đó là con đường vòng, nhưng biết đâu con đường vòng này lại là lối tắt bất ngờ.”

“Như lời Vĩnh Trung nói ban nãy phải không?” “Được mời đến sẽ nhanh hơn là tự tìm đến...”

“Đúng là như vậy, nhưng vấn đề là liệu rằng bên kia họ có mời hay không?”

“Chắc là khó.”

“Ôi trời, thậm chí là bất khả thi ấy chứ.”

“Này Dật Thế, tớ không hề nói là bất khả thi đâu đấy nhé. Tớ chỉ nói là khó thôi.”

“Cái gì!?”

Không Hải tủm tỉm cười trước phản ứng của Dật Thế.

“Tất nhiên chưa biết sẽ ra sao. Nhưng không biết thì lại càng hay.” Không Hải nói.

“À mà này Không Hải...” Dật Thế như bỗng nhớ ra chuyện gì.

“Gì thế?”

“Sắp đến Tuyên Dương Phường rồi, nhưng hay là hôm nay không về thẳng mà ghé qua Bình Khang Phường đi...”

“Gái hả?” Không Hải nói tỉnh queo.

Bình Khang Phường nằm kề phía Bắc Tuyên Dương Phường, có một khu san sát những là kỹ quán và tửu phòng. Một khu phố ăn chơi. Có những nàng Hồ cơ mắt

xanh, và tất nhiên, là cả các kỹ nữ người Đường - dù là người Đường song họ vẫn là những nữ nhân ngoại quốc đối với một người Nhật Bản như Dật Thế.

Dật Thế thường xuyên ghé qua khu phố này, nên xem ra cũng đã có một nàng bồ ruột.

Mỗi lần ghé qua con phố đó, Dật Thế lại kể tường tận cho Không Hải về sự tình bên trong. Cậu ta từng kể say sưa, bằng một giọng nói đầy hưng phấn, về cái lần đầu tiên làm khách của một nàng Hồ cơ mắt xanh, từ các vật trang trí trong phòng cho đến trang phục của Hồ cơ, độ vang của tiếng nhạc vân vân.

Cậu đã nhìn thấy “lô” bao giờ chưa? Hỏi xong, Dật Thế liền giảng giải cho Không Hải.

“Lô” này không phải là “lô” trong nghĩa “hỏa lò”, mà là một thứ giống như cái bàn trong quán rượu. Nó được đắp theo hình cái hỏa lò bằng đất đen, bên trên bày rượu thịt để khách ngồi đối diện với Hồ cơ. Đèn thì thắp trên đĩa. Được ngắm cánh tay con gái trắng ngần uyển chuyển rót rượu trong ánh đèn ấy thì “thật là tuyệt cú mèo”, Dật Thế thường nói vậy.

Mặc dù mỗi lần đi ra ngoài Dật Thế đều phải bám riết lấy Không Hải vì không biết tiếng Đường, nhưng riêng những lúc đến đây thì cậu ta sẽ đi với ngưòi khác hoặc đi một mình. Dật Thế có vẻ vẫn giữ ý không rủ Không Hải vì Không Hải là tăng môn, nhưng một mặt, cậu ta lại thường kể những chuyện như vậy để trêu ngươi Không Hải.

Mỗi lần đi chơi về, Dật Thế sẽ bâng quơ nói trước mặt Không Hải: “May quá tớ không phải là sư,” rồi thăm dò vẻ mặt Không Hải một cách thích thú. Còn Không Hải chỉ cười tủm trong lúc nghe Dật Thế kể.

Vậy mà lần này, Dật Thế lại rủ Không Hải. Thật chẳng khác nào chuyện lạ. Và Không Hải hỏi lại: “Gái à?”

“Ờ, gái.” Dật Thế đáp.

Có cái gì đó hơi tục tĩu, rất hiếm thấy ở một con người như Dật Thế, ẩn hiện nơi khóe miệng đang nở một nụ cười.

“Đêm nay ta sẽ mở tiệc rượu. Chỉ cần về trước giờ đó là được. Khi nào tiếng mộ cổ bắt đầu nổi lên, ta sẽ từ biệt các nàng, mặc lại mũ áo rồi rời khỏi đây, ắt sẽ về kịp trước lúc cổng Tuyên Môn Phường đóng lại...”

Mộ cổ là tiếng trống điểm trên vọng lâu ở các cổng thành khi chiều xuống. Hễ tiếng mộ cổ dứt, cổng thành sẽ đóng lại. Sau đó, tiếng trống ở mỗi phố gọi là nhai cổ sẽ điểm sáu trăm lần, tức là khoảng bốn mươi lăm phút, khi tiếng trống này dứt, cổng ra vào các phường sẽ đóng lại.

Khi cổng phường đóng vào, người ta không thể về được phường nơi mình ở nữa. Nếu bị Kim Ngô Vệ phát hiện thấy vẫn còn đang đi lại trên phố lớn sau khi cổng phường đã đóng thì sẽ phải chịu phạt hai mươi roi vì tội “phạm dạ”.

Chỉ có các chức dịch hoặc người mang văn điệp, một loại giấy thông hành đặc biệt, do các huyện hoặc phường cấp mới được đi lại trên những đường phố lớn ban đêm.

Đối lại với mộ cổ thì có hiểu cổ. Cổng phường sẽ được mở ra nhờ tiếng hiểu cổ, tức là tiếng trống được giống lên vào rạng sáng.

“Ý hay đấy.” Không Hải nói. Giọng điệu hết sức thản nhiên.

“Cậu chắc chứ?” Dật Thế hỏi.

“Chẳng phải là cậu vừa rủ tớ hay sao mà còn chắc với lép?”

“Thực tình là vì muốn thấy vẻ khó xử của cậu nên tớ mới rủ, nhưng mà không sao thật chứ?”

“Không sao.”

“Đừng có hối đấy, Không Hải.”

“Có gì mà phải hối.” Giọng Không Hải thản nhiên như không.

“Ô chà!” Dật Thế nở một nụ cười khoái trá. “Để rồi xem lời cậu vừa nói là cố làm ra vẻ hay là thật.”

Nhưng Không Hải có vẻ nghiêm túc.

“Nhưng hôm nay hẵng khoan đã. Đằng nào cũng đi thì để hôm khác, hôm nay hơi cập rập. Hoàng đế mới băng hà chưa được bao lâu nên các kỹ viện vẫn còn đang đóng cửa. Thong thả chờ đến khi Cát Dã Ma Lữ về rồi mình hẵng đi.”

“Thế cũng được.”

“Lần tới sẽ đi thâu đêm, được chứ?”

“Được.” Không Hải đáp không chút ngập ngừng.

Dật Thế đã có phần lép vế trong tình thế ấy, bèn vớt vát: “Này Không Hải, đừng nói là cậu đã tìm đến kỹ quán trong lúc tớ không biết đấy nhé.”

Nguyên tắc “bất phạm”, tức không quan hệ luyến ái với phụ nữ trong Phật giáo Nara thời kỳ ấy là một trong những giới luật quan trọng của tăng lữ. Nếu việc phá giới lộ ra, thì sẽ bị coi như hành vi phá môn và sẽ không được phép bước chân vào cửa chùa của tông phái đó lần nào nữa. Ít nhất thì bề ngoài là như vậy.

Thực dục.

Tính dục.

Miên dục.

Phật giáo thời kỳ đó đứng trên quan điểm đoạn tuyệt hoàn toàn với sự thèm muốn cơ thể người phụ nữ, vốn là ham muốn mạnh nhất trong ba ham muốn kể trên của con người. Vậy mà Không Hải vẫn đáp: “Được đấy!” với vẻ mặt tỉnh bơ trước lời rủ rê đi chơi gái của Dật Thế. Bởi vậy nên cũng không có gì vô lý khi Dật Thế cho rằng Không Hải đã từng đặt chân vào kỹ quán trong lúc mình không biết.

“Biết nói sao...” Không Hải thích thú nhìn Dật Thế.

“Tại sao bỗng nhiên cậu lại có ý định muốn đi?” Dật Thế hỏi.

“Vì được Dật Thế rủ.”

“Nhưng sao từ trước tới giờ cậu không đi cùng tớ?”

“Vì không được cậu rủ đi.” Không Hải đáp. Câu trả lời của Không Hải rõ như ban ngày.

“Thôi được rồi.” Dật Thế nói. “Đợi ổn định ở Tây Minh Tự xong thì bọn mình đi.”

“Ừ.”

“Đến lúc đấy đừng có bảo là tớ chỉ nói đùa thôi rồi lỉnh mất đấy nhé.”

“Sao phải lỉnh nào.”

“Được!” Dật Thế nói, rồi lại gật đầu nói tiếp: “Được lắm!”

Chẳng hiểu sao Dật Thế tỏ ra rất khoái trí. Rồi đột nhiên Dật Thế nghiêm mặt lại.

“Không Hải, cho tớ hỏi một việc.”

“Gì nào?”

“Tớ vẫn có điều thắc mắc mà chưa dám hỏi.”

“Gì thế?”

“Cậu biết mùi đàn bà bao giờ chưa?”

Nghe Dật Thế nói xong, Không Hải cất tiếng cười khanh khách.

“Trả lời nghiêm túc đấy nhé.”

“Tớ thấy món ấy khá tuyệt.”

“Tuyệt?”

“Ừ, đàn bà ấy mà, rất tuyệt...” Không Hải đáp.

Bầu trời cao tít và đám đông trên phố. Không Hải ngẩng lên nhưng không nhìn vào đâu trong hai chỗ ấy, mà phóng ánh mắt mơ màng ra mãi xa xăm.

Những tiếng huyên náo, ồn ào nơi xứ lạ... Không Hải cảm thấy chúng tựa như tiếng nhạc của vũ trụ đang bao bọc thân xác mình. Và dưòng như, cậu đang đắm say trong tiếng nhạc ấy.

❖ 2 ❖

Đó là cuộc chia tay trên lưng ngựa.

Không Hải và Dật Thế đều học theo lối nhà Đường, bẻ lấy cành dương liễu, cuộn thành vòng tròn rồi tặng cho những người sắp lên đường.

Chân cầu Bá* nằm ở phía Đông Trường An là nơi mà người đưa tiễn và người lên đường chia tay nhau. Sau khi ra khỏi thành Trường An, người đưa tiễn và người được đưa tiễn đã cùng cưỡi ngựa đến đây. Tới lúc này thì mọi người đều biết chiếc thuyền thứ hai chở Tối Trừng đã cập bến bình an vô sự. Cưỡi ngựa đi qua thảo nguyên giữa làn gió xuân, vậy mà ai cũng kiệm lời. Trên vùng thảo nguyên trước đấy chẳng thấy gì ngoài màu đất nay đã nảy lên những chồi xanh khắp nơi. Dù là trên thảo nguyên ở một xứ sở xa lạ, cam thảo và phồn lũ có vẻ vẫn là những loại cỏ nảy mầm đầu tiên. Con đường thấm đẫm hơi thở mùa xuân.

Chốc chốc, Không Hải lại gò ngựa sát vào xe chở Vĩnh Trung, trao đổi đôi câu ngắn ngủi.

Cây cầu bắc qua sông Bá ở Trường An.

Không Hải cho ngựa đi sóng đôi với Dật Thế đang im lặng, miệng lẩm bẩm: “Xuân rồi.”

Cả đoàn đi đến sông Sản, rồi vượt qua cầu Sản và tới cầu Bá. Tất cả đều là những người đã đồng cam cộng khổ trong chuyến sang Đường. Đó là hành trình sang xứ lạ mà ai cũng xác định sẽ cầm chắc cái chết. Bốn thuyền đi thì hai thuyền đắm. Họ là những người đã tới được đích mà không mất mạng, để rồi có cuộc chia ly hôm nay.

Cả đêm qua, mọi người đều đã nói với nhau cho đến cạn lời, vậy mà lúc này, lòng ai cũng có cảm giác như còn điều gì chưa nói hết. Nhưng chẳng ai biết điều chưa nói hết ấy là gì, những lời bật ra chỉ là những câu ngắn ngủi, lặp đi lặp lại.

“Mạnh giỏi nhé!”

“Đừng có chết đấy!”

Trong những lời lẽ ngắn ngủi ấy là muôn vàn tình cảm.

Đối với kẻ về, lại một chuyến đi đánh đổi sinh mệnh đang đợi chờ trước mắt. Không ai dám đảm bảo họ sẽ đặt chân lên đất Nhật một cách bình an.

Khi thời khắc chia ly đã tới, Cát Dã Ma Lữ cho ngựa lại gần Không Hải.

“Không Hải, tài năng của nhà ngươi đã cứu bọn ta biết bao lần.” Ông ta hạ giọng nói. “Hãy sống và trở về!”

Không đợi Không Hải trả lời, Cát Dã Ma Lữ quay lưng đi.

Hầu hết mọi người đều nhỏ lệ trước cuộc chia ly. Cát Dã Ma Lữ quay lưng đi ngay cũng là để không cho Không Hải thấy dòng lệ đã dâng đầy trong mắt.

Chỉ có Dật Thế và Không Hải không khóc. Dật Thế ngày thường vẫn nhiều lời, hôm nay bỗng hầu như không nói.

Cả đoàn cất bước.

Tiếng móng ngựa và bánh xe nghiến lên mặt cầu Bá cứ xa dần. Bên kia cầu Bá, con đường tiếp tục trải dài ngút mắt về phía Đông. Con đường ấy xa đến đâu là điều mà cả Không Hải lẫn Dật Thế, những người đưa tiễn, đều hiểu rõ. Bởi lẽ cả Không Hải lẫn Dật Thế đều đi qua con đường đó để đến được đây. Tuy thật xa, nhưng họ biết ở cuối con đường đó có gì. Ở cuối con đường đó có kinh đô Nhật Bản đang chờ họ. So với sự hoa lệ ở Trường An, nơi đó gần như chỉ là một xó nhà quê, nhưng là quê hương họ.

Đoàn người xa dần, chẳng mấy chốc giọng nói cũng không còn vọng tới nữa. Trước mặt Không Hải và Dật Thế, nước sông Bá biêng biếc chảy lững lờ. Hàng dương liễu ở bờ bên kia đã ra chồi mới, lờ mờ xanh. Đến lúc này, họ mới thực sự cảm thấy mùa xuân đã tới.

Vẫn trân trân dõi theo bóng đoàn người đã khuất dạng sau bình nguyên xa tít mãi một lúc lâu, Dật Thế bỗng thốt lên: “Đã đi cả rồi sao, lũ nha lại xoàng xĩnh kia...”

Vừa dứt lời, vai Dật Thế bắt đầu rung lên. Lệ tuôn trào từ khóe mắt. Cổ Dật Thế tắc nghẹn, bật nấc.

Chỉ có Không Hải là không khóc. Không Hải dừng ngựa đằng sau Dật Thế, im lặng nhìn trời, để mặc cậu ta khóc cho nhẹ lòng.

... Thế này hay thế khác, tất cả đều là Mạn Đà La.

Ánh mắt Không Hải dường như đang nói lên điều ấy.

❖ 3 ❖

Họ gặp người đàn ông đó trên đường về.

Không Hải và Dật Thế đang lững thững dong ngựa đi.

“Không Hải này.” Dật Thế nói với sang Không Hải từ trên lưng ngựa.

“Gì thế?” Không Hải đáp lại trong lúc vẫn nhìn về phía trước.

“Bây giờ tớ nhẹ nhõm hơn rồi.” Nét mặt của Dật Thế, đúng như cậu ta thú nhận, đã nhẹ nhõm hẳn, hoàn toàn không còn vẻ gì của một người vừa mới khóc nấc lên khi nãy. Như thể vừa khỏi bị ma ám.

“Nhưng càng nghĩ càng thấy cậu là một gã kỳ lạ, Không Hải ạ.” Dật Thế nói, giọng điệu có gì đó bất mãn.

“Kỳ lạ ở chỗ nào?” Không Hải hỏi lại, trong khi mắt vẫn nhìn về phía trước.

Họ vừa vượt qua sông Bá và đằng xa kia là dốc Trường Lạc. Hai bên dốc là những trà điếm để lữ khách rũ bụi đường.

“Tại sao cậu không khóc?” Dật Thế hỏi.

“Tại sao nhỉ?” Không Hải trả lời như thể đó không phải việc của mình vậy.

“Tớ đang hỏi cậu đấy, Không Hải. Đừng có nói như việc của người khác thế.”

“Ừ, phải rồi.”

“Đấy, vẫn kiểu nói cứ như chuyện của người khác.”

“Khó nghĩ nhỉ.”

“Đồ chết giẫm, người khó nghĩ là tớ đây này.”

“Tại sao Dật Thế lại khó nghĩ?”

“Vì bị cậu nhìn thấy.”

“Nhìn thấy cái gì cơ?”

“Đừng hỏi thế chứ! Cậu làm tớ ức chết bây giờ.”

“Cậu ức vì bị nhìn thấy mình khóc à?”

“Thôi, đừng nói đến chuyện đó nữa.”

“Người khơi ra trước là Dật Thế mà.”

Bị Không Hải nói vậy, Dật Thế đành câm nín.

“Thôi được rồi, Không Hải. Nhưng tóm lại là tớ đã thấy nhẹ nhõm hơn.” Dật Thế nói.

“Ừ.”

“Điều quan trọng là tớ đã nhẹ nhõm hơn.”

“Ừ.” Câu trả lời của Không Hải cụt lủn.

Không Hải vẫn phóng tầm mắt ra xa, ánh nhìn bất động, tựa như đang hít lấy hơi thở của bầu trời và mặt đất bao la. Cứ như thế cho đến khi hai ngưòi đi đến con dốc Trường Lạc.

“Này...” Bỗng có giọng nói cất lên.

Ban đầu, cả Không Hải lẫn Dật Thế đều không nghĩ rằng giọng nói đó gọi mình.

Khi hai người sắp đi qua thì giọng nói lại cất lên: “Này!”

Một giọng đàn ông trầm và vang.

Không Hải và Dật Thế dừng ngựa. Nhìn sang vệ đường bên phải thì thấy một tảng đá lớn, trên tảng đá có một người đàn ông đang ngồi.

“Ồ.” Nhìn thấy người đàn ông, Không Hải bất giác buột kêu thành tiếng.

Một người đàn ông to lớn đến độ chỉ nhìn cũng đủ choáng ngợp. Tảng đá anh ta ngồi lên rất to, nhưng xem ra sức nặng của anh ta cũng ngang ngửa hoặc còn hơn tảng đá ấy. Bộ mặt râu ria. Mái tóc dài rậm rạp tới nỗi không thể phân biệt được ranh giới giữa râu và tóc. Gương mặt đen cháy, lấm lem bụi bẩn và ghét.

Hình như nghe thấy tiếng cảm thán mà Không Hải khẽ thốt ra, đôi môi dầy của người đàn ông đó nở một nụ cười. Bất ngờ một hàm răng trắng lộ ra từ đôi môi đang hé. Bộ quần áo trên người anh ta nhếch nhác tới mức không hiểu lần giặt gần đây nhất là từ khi nào, thậm chí còn không thể đoán được màu sắc ban đầu của nó, thành thử càng khiến hàm răng trắng nổi bật hơn. Tuổi cỡ chừng Không Hải hoặc trẻ hơn.

“Có việc gì vậy?” Không Hải hỏi.

“Có tiền không?” Người đàn ông vẫn ngồi yên trên tảng đá, hỏi.

“Có.” Không Hải đáp bừa.

Thấy Không Hải nói vậy, Dật Thế gọi với sang từ trên ngựa: “Này này, nói thế sao được?”

Tuy Dật Thế không nói ra miệng rằng nhỡ là kẻ cướp đường thì sao, nhưng Không Hải dường như hiểu rõ ý Dật Thế.

“Ở chỗ đông người qua lại thế này, làm gì có cướp đường.” Không Hải đáp rành rọt.

Lời Không Hải tất nhiên là lọt vào tai người đàn ông. Nhưng Dật Thế và Không Hải nói với nhau bằng tiếng Nhật, nên có lẽ anh ta không hiểu được ý nghĩa của nó.

Người đàn ông lại cười. Không phải một nụ cười ác ý, mà có nét gì đó rất dễ mến. Nếu sửa sang lại bộ dạng và tắm rửa cơ thể mà chỉ lướt qua cũng có thể ngửi thấy mùi hôi này, bận lên mình một bộ đồ lụa đẹp, rồi bước vào một kỹ quán nào đó, thì các cô gái chắc chắn sẽ không thể làm ngơ.

“Có bao nhiêu?” Người đàn ông hỏi.

“Cũng tương đối.” Không Hải đáp.

“Thật chứ?”

“Tất nhiên là thật.”

Không Hải nói thật. Vì dù thế nào Không Hải cũng phải mang sang đây một khoản tiền đủ để trang trải cho hai mươi năm. Hơn nữa, Không Hải không chỉ đi đây đi đó để học Mật mà còn phải mang kinh sách và Phật cụ về nữa.

Kinh sách thì phải chép lại. Tự mình chép kinh, tất nhiên không phải là không thể, nhưng sẽ vô cùng lãng phí thời gian. Tốt nhất là thuê ai đó chép kinh. Sẽ cần một khoản tiền cho việc này. Và tất nhiên không phải là một khoản nhỏ. Vì vậy Không Hải đã chuẩn bị sẵn tiền cho việc ấy.

“Hãy thuê tôi đi.” Người đàn ông bảo Không Hải.

“Thuê?” Không Hải hỏi lại.

“Ờ.” Người đàn ông trả lời ráo hoảnh.

“Không Hải...”

Dật Thế ra hiệu hãy đi tiếp, mặc kệ hắn ta. Nhưng Không Hải vẫn nhìn xuống người đàn ông đó từ yên ngựa.

“Tôi đã ngồi đây và hỏi nhiều người qua đường rồi, nhưng không ai đếm xỉa đến tôi...”

“Tại sao anh muốn ta thuê anh?” Không Hải hỏi, thì anh ta đáp: “Thì bởi đằng nào anh chả mất tiền.”

“Chà chà.” Không Hải bất giác mỉm cười.

“Anh không phải người nước này đúng không?”

“Anh biết hả?”

“Ờ. Anh nói tiếng Đường giỏi kinh người làm tôi không nhận ra. Nhưng lúc nãy nghe anh nói chuyện với người đi cùng thì thấy không phải tiếng nước này...”

Người đàn ông đưa ngón trỏ to tướng trên bàn tay phải lên gãi mũi. Sống mũi anh ta rất cao.

“Anh cũng không phải người nước này.”

“Đúng một nửa và sai một nửa.”

“Ồ. Tại sao vậy?”

“Tôi sinh ra ở Thiên Trúc. Cha mẹ tôi, một là người Thiên Trúc, một là người ở đây...”

“Nếu vậy chắc anh nói được tiếng Thiên Trúc?” Không Hải hỏi.

Người đàn ông liền tuôn ra một tràng tiếng nước ngoài. Đoạn lại nhe hàm răng trắng ra.

“Ta hiểu rồi. Nhưng vấn đề là anh sẽ làm được việc gì với khả năng đó?” Không Hải nói.

“Gớm thật. Tại sao anh lại biết cả tiếng Thiên Trúc?”

“Nói là biết nhưng cũng chỉ một chút thôi.”

Dật Thế ngồi trên ngựa chọc chọc ngón tay vào Không Hải.

“Hắn ta nói gì thế?”

Không biết từ khi nào, Dật Thế bắt đầu bị thu hút bởi người đàn ông này. Trước khi sang đây, Dật Thế đã được học qua tiếng Đường. Dạo này, tai Dật Thế đã quen dần với cách phát âm, rồi nhờ trò chuyện cùng các kỹ nữ nên đã bắt đầu nghe và nói được những câu chuyện không quá phức tạp. Vì vậy, ban đầu Dật Thế có thể nghe hiểu được phần nào câu chuyện giữa Không Hải và người đàn ông, nhưng khi người đàn ông chuyển sang nói tiếng Thiên Trúc thì Dật Thế đầu hàng.

“Anh ta nói rằng hãy quyết định xem có thuê anh ta hay không...” Không Hải giảng giải, rồi quay sang người đàn ông.

“Anh nói được tiếng Thiên Trúc thì tốt rồi. Nhưng đầu tiên phải hỏi anh cần bao nhiêu tiền cái đã...”

“Bao nhiêu cũng được. Số tiền anh cứ tự quyết, nhưng tôi có hai điều kiện. Thứ nhất, về đồ ăn, phải cho tôi ăn no bụng, kể cả là đồ thừa cũng được. Tôi ăn rất nhiều, anh nhìn thì biết rồi đấy.”

“Một điều kiện nữa là gì?”

“Tôi đang tìm người ở Trường An.”

“Tìm người?”

“Khi nào rảnh rỗi, tôi muốn đi tìm người đó?”

“Là ai vậy?”

“Là ai thì tôi không biết. Đúng ra là tôi có biết, nhưng khoảng nửa tháng trước, tôi có xảy ra xô xát với bọn trộm...”

“Bọn trộm?” <