Chương IV Hồ Ngọc Lâu
❖ 1 ❖
Không Hải ở Tây Minh Tự.
Ngày hai mươi mốt tháng Hai.
Đã mười một ngày trôi qua kể từ hôm bọn Đằng Nguyên Cát Dã Ma Lữ rời Trường An. Không Hải đang ở một mình trong khu vườn của Tây Minh Tự, thả mình giữa làn gió chiều. Xung quanh Không Hải là những chồi mẫu đơn mập mạp, vươn lên trời như nắm tay trẻ nhỏ. Mặt trời đã qua khỏi đỉnh, hắt ánh nắng lên những nụ chồi đo đỏ, nom như thể những đốm nắng điểm xuyết trên đầu chồi. Những mầm non mới vừa đâm ra hẵng còn đỏ tươi, chẳng mấy chốc sẽ lớn thành những phiến lá xanh mướt và được tô điểm bởi những đóa hoa.
Tây Minh Tự là danh thắng mẫu đơn không nhất thì nhì ở Trường An này. Thêm nữa, mẫu đơn ở Tây Minh Tự thường nở muộn hơn nơi khác, nên tới mùa nở rộ thì số lượng người đến ngắm còn nhiều hơn cả số lượng hoa.
Không Hải đang chậm rãi bước đi trong vườn thì dừng chân, ngắm nghía một cành mẫu đơn rồi nhẹ nhàng lấy tay che lên cành cây ấy. Cử chỉ của cậu cứ như thể có một bông hoa vô hình đã nở ra trên cành và cậu đang vuốt ve bông hoa.
Trong lúc thơ thẩn bước đi, Không Hải bỗng bật cười khi nhớ lại chuyện Dật Thế sáng nay.
Ngay từ sáng, Dật Thế đã vui ra mặt, mỗi lần nhìn Không Hải, cậu ta lại cất tiếng: “Hôm nay đấy nhé, Không Hải!”
Giọng nói đầy vẻ háo hức.
Không Hải hiểu ẩn ý đó. Dật Thế đang nói đến lời hứa của Không Hải vào cái hôm trước khi Cát Dã Ma Lữ lên đường về Nhật Bản. Lời hứa về việc sẽ đi đến kỹ quán có các nàng Hồ cơ sau khi cuộc sống ở Tây Minh Tự đã ổn định. Ngày hẹn chính là hôm nay.
“Làm thế thì sẽ biết được điều gì?” Có tiếng người vọng tới từ sau lưng Không Hải.
Không Hải quay lại thì thấy một người đàn ông cao lớn đứng đó. Anh ta cao hơn Không Hải một cái đầu, râu ria xồm xoàm. Không chỉ cao lớn, cơ thể ấy còn cho ta cảm giác về độ rắn chắc và sức nặng tựa như một tảng đá. Một thân hình đồ sộ đến choáng ngợp.
“Đại Hầu...” Không Hải cất tiếng.
Đại Hầu là tên người đàn ông đó. Chính là người đàn ông Không Hải gặp mười một hôm trước ở dốc Trường Lạc sau khi tiễn bọn Đằng Nguyên Cát Dã Ma Lữ đến cầu Bá và đang trên đường trở về.
Người đàn ông đó đã đề nghị Không Hải và Dật Thế thuê anh ta.
“Vì có thân hình to lớn nên mọi ngưòi đều gọi tôi là Đại Hầu.” Người đàn ông nói vậy khi được Không Hải hỏi tên.
“Hầu” là con khỉ. Đại Hầu tức là con khỉ lớn.
Anh ta, tức Đại Hầu, giờ đây đang ở cùng Không Hải và Dật Thế trong Tây Minh Tự.
“Ý anh là sao?” Không Hải hỏi Đại Hầu.
“Tôi thấy thầy lấy bàn tay che lên trên nụ mẫu đơn, cử chỉ như thể đang dò xét điều gì.” Sau khi trở thành người làm cho Không Hải, cách nói năng của Đại Hầu đã lễ độ hơn chút ít.
“Như thế này hả?”
“Đúng vậy.”
“À, bằng cách ấy có thể biết được nhiều điều.” Không Hải đáp.
“Cụ thể là gì?”
“Chẳng hạn như, hoa ở cành nào đã nở đến đâu rồi.”
“Có thể biết được chuyện đó sao?”
“Ờ, có thể biết được, cũng có thể không biết được, nói chung là còn tùy.”
“Ồ.”
Đại Hầu đi song song với Không Hải. Ở cạnh Không Hải, thân hình to lớn của Đại Hầu càng trở nên nổi bật.
“Việc gánh nước sao rồi?” Không Hải hỏi.
“Xong rồi.” Đại Hầu đáp.
Gương mặt râu ria ấy nếu nhìn kỹ sẽ thấy không có nhiều khác biệt về tuổi tác, hoặc thậm chí hơi trẻ hơn so với Không Hải. Tất nhiên là bộ dạng anh ta đã sạch sẽ hơn so với hôm mới gặp. Mái tóc bờm xờm buộc túm về đằng sau. Quần áo có vẻ đã được giặt sạch, bộ mặt hôm trước toàn bụi và ghét nay không còn vẻ dơ dáy mặc dù vẫn đen vì cháy nắng. Đó là một con ngưòi tốt bụng hơn vẻ ngoài.
“Thầy bảo việc ấy chiều nay tạm nghỉ phải không ạ?” Đại Hầu hỏi.
Việc ấy ý nói việc học tiếng Thiên Trúc. Không Hải không chỉ học tiếng Thiên Trúc, hay tiếng Phạn, từ Bát Nhã Tam Tạng, mà còn học từ Đại Hầu nữa.
“Đúng, ta bảo vậy.” Không Hải vừa cất bước vừa đáp. Đại Hầu nối gót theo sau.
Chiều nay Không Hải sẽ cùng Dật Thế đến kỹ quán ở Bình Khang Phường nên đã quyết định nghỉ học tiếng Phạn. Thực ra thì có thể đem theo Đại Hầu tới kỹ quán để học tiếng Phạn ở đó, nhưng Không Hải từ bỏ ý định này vì biết Dật Thế không thích.
Lúc Không Hải quyết định thuê Đại Hầu, Dật Thế đã hỏi lại: “Cậu chắc chứ?”
“Chắc chứ sao.” Không Hải trả lời. “Tướng anh ta không phải kẻ xấu. Vốn dĩ tớ cũng đang muốn mướn một kẻ có thể làm được nhiều việc ở Trường An. Mà xem ra anh ta còn có ích hơn thế nữa.”
“Ích gì?”
“Học tiếng.”
Ngay ban đầu, Không Hải đã có ý định học tiếng Phạn thường ngày từ Đại Hầu. Không chỉ những lúc ở Tây Minh Tự, mà cả những khi đi ra ngoài, Không Hải cũng dắt theo Đại Hầu để bất cứ hoàn cảnh nào cũng có thể nói chuyện bằng tiếng Phạn.
“Cái này tiếng Phạn nói sao?”
Đại Hầu sẽ trả lời các câu hỏi của Không Hải về những thứ đập vào mắt hoặc những thắc mắc nảy ra khi đi trên phố. Những việc không thể đem ra hỏi Bát Nhã Tam Tạng, chẳng hạn như những chuyện thầm kín của trai gái hay cách gọi nôm bộ phận sinh dục của phụ nữ, thì có thể mang hỏi Đại Hầu. Ngay cả khi đặt câu hỏi, Không Hải cũng cố gắng không nói bằng tiếng Đường. Hỏi bằng tiếng Phạn và buộc Đại Hầu trả lời bằng tiếng Phạn.
“Như thế liệu có được không?” Đại Hầu hỏi.
“Được cái gì?” Không Hải hỏi lại.
“Làm thế này, liệu có xứng được nuôi cơm không ạ?” Đại Hầu đưa ngón tay to tướng lên gãi đầu.
Công việc của Đại Hầu ở đây không chỉ có dạy tiếng Phạn cho Không Hải, mà còn phải đi gánh nước, gùi củi, và đôi khi là chăm sóc lũ ngựa nuôi trong chùa. Việc có Đại Hầu biết tiếng Phạn không chỉ hữu ích với Không Hải, mà còn cho cả các nhà sư khác trong Tây Minh Tự.
Trước khi chuyển đến Tây Minh Tự, Không Hải đã không ít lần tới đây thăm Vĩnh Trung. Không Hải có một tài năng kỳ lạ. Cậu rất giỏi trong việc khiến người khác yêu quý mình. Không cần phải cố tình lấy lòng người đối diện, Không Hải cứ tự nhiên giành được sự quý mến của họ. Vì vậy mà từ khi chưa chuyển đến Tây Minh Tự, không chỉ Vĩnh Trung mà các nhà sư khác cũng đều bảo Không Hải hãy sớm tới đây.
Tuy nhiên, dù cho Không Hải có bằng mấy cái tài năng trời phú ấy thì cũng không dễ gì được phép mang một người đàn ông có bộ dạng kỳ dị như thế đến ở trong chùa. Tất cả là nhờ vào khả năng nói tiếng Phạn của Đại Hầu.
Đại Hầu tự dọn cho mình một chỗ ngủ ở chuồng ngựa phía sau kho kinh trong chùa. Nhà chùa sử dụng xe bò và xe ngựa cho các sư đi lại nên có nuôi bò và ngựa làm sức kéo. Đại Hầu lại rất thành thạo trong việc chăn dắt bò, ngựa. Nên rốt cuộc, phần ăn uống của Đại Hầu đã được Tây Minh Tự bao rồi, Không Hải không phải trả tiền công cho Đại Hầu nữa.
“Không sao đâu.” Không Hải nói.
“Nếu thầy Không Hải đã nói không sao thì tôi yên lòng làm vậy.”
Giọng nói của Đại Hầu không còn có vẻ băn khoăn nữa.
“Ừm.”
“Hôm qua thầy cũng đã để tôi được tự do rồi.” Đại Hầu nói.
Không Hải đã hứa là lúc nào rỗi việc thì sẽ để cho Đại Hầu tự do. Hôm qua là một ngày như thế.
“Vì đã hứa như vậy rồi mà.” Nghe Không Hải nói thế, đôi môi dầy của Đại Hầu nở một nụ cười rạng rỡ. Khi người đàn ông to lớn này cười toát lên một vẻ gì đó đáng yêu đến khó tả.
Nói là tìm người, nhưng Đại Hầu chỉ đi tha thẩn giữa đám đông. Đi đến những chỗ đông người để chờ kẻ mà mình đang tìm tìm thấy mình là cách của Đại Hầu.
Dù ở giữa đám đông, thân hình của Đại Hầu vẫn nổi bật lên vì to lớn. Thế nên cách làm này cũng không phải là tệ.
“Thầy thật là một người kỳ lạ. Ngẫm sao mà thầy lại thuê tôi. Tiếng Thiên Trúc thầy cũng nhớ trong chớp mắt. Được đi với thầy thật là vui.”
“Vậy sao.”
“Nếu có xô xát, thầy cứ kêu tôi bất cứ lúc nào nhé.” Nói rồi, Đại Hầu quay lưng bước đi.
Đi được mấy bước, Đại Hầu ngoái về phía Không Hải, rồi đưa tay lên gãi đầu vẻ bẽn lẽn.
“Tôi rất quý thầy.” Đại Hầu nói gọn lỏn rồi lại xoay người bước đi.
Lần này thì anh ta không ngoái lại nữa. Một nụ cười nở trên môi Không Hải.
Về đến phòng đã thấy Dật Thế đang đợi.
“Sắp rồi, sắp rồi, Không Hải ơi.” Dật Thế nói.
Giọng Dật Thế xem ra còn hồi hộp hơn cả Không Hải.
“Ờ.” Không Hải đáp lấy lệ rồi ngồi xuống trước mặt Dật Thế.
Phía trái chỗ Không Hải ngồi là cửa sổ. Từ đó có thể nhìn ra vườn mẫu đơn.
Im lặng nhìn Không Hải một lúc, Dật Thế cất lời: “Nhưng Không Hải này, cậu đi thật đấy chứ?”
Dật Thế đang nói đến việc đi tới kỹ quán ở Bình Khang Phường hôm nay.
“Sao lại không?”
“Cậu là sư cơ mà?”
“Trước khi là sư, tớ sinh ra là một thằng đàn ông.”
“Nhưng bây giờ cậu là sư.”
“Nhưng cũng vẫn là đàn ông.” Nói rồi Không Hải cười.
Dường như Dật Thế đang lo lắng cho Không Hải.
“Tớ đi một mình thì không sao, nhưng hôm nay có cậu đi cùng cứ thấy bồn chồn thế nào ấy.”
Dật Thế có vẻ căng thẳng.
“Cậu đúng là một gã tốt bụng, Dật Thế ạ.” Không Hải nói.
“Chậc!” Dật Thế chép miệng vẻ chán nản. “Lo cho cậu chỉ tổ thiệt thân.”
Nói đoạn Dật Thế ngước lên trần nhà, rồi nhìn quanh căn phòng với ánh mắt trầm ngâm. Đây là căn phòng mà Vĩnh Trung đã sống ở Trường An suốt ba mươi năm.
“Chả biết hòa thượng Vĩnh Trung và Cát Dã Ma Lữ đang ở đâu giờ này nhỉ?”
“Có lẽ đã tới Lạc Dưong và chuẩn bị đi tiếp thôi.”
“Ừ.” Dật Thế đáp, rồi lại bùi ngùi nhìn khắp căn phòng.
“Ba mươi năm ư...” Dật Thế nói một mình.
“Ừ.”
“À Không Hải này, cậu có nghĩ hòa thượng Vĩnh Trung cũng từng muốn đến kỹ quán chơi gái không?”
“Sao lại không?” Không Hải trả lời thản nhiên.
“Sao cậu biết?”
“Thầy Vĩnh Trung cũng là đàn ông mà.”
“Lời cậu nói thẳng thắn quá, thành ra thiếu mất sự thú vị.”
“Như vậy thì không được các em kỹ nữ thương hử?” Không Hải cười.
Dật Thế khẽ lắc đầu như thể chẳng biết phải làm gì kẻ đối diện.
“À mà gần đây cậu có nghe được những lồi đồn đại kỳ lạ không?” Dật Thế bất ngờ rướn người về phía Không Hải hỏi.
“Đồn đại như thế nào?”
“Rằng có kẻ dựng cáo thị gì đó ở phố Chu Tước ấy.”
“Là chuyện đó hả?”
Nếu là chuyện đó thì có vẻ Không Hải cũng biết.
Chuyện là thế này.
Trong hơn một tháng vừa rồi, tức là kể từ ngày Đức Tông chết, cứ cách vài ngày lại có kẻ dựng cáo thị ở đâu đó trên phố Chu Tước.
Đức Tông băng, kế tới Lý Tụng.
Cáo thị viết như vậy. Lời lẽ rất rõ ràng.
“Đức Tông hoàng đế chết, tiếp theo là Lý Tụng chết.”
Ý trong cáo thị là thế.
Lý Tụng tức đương kim hoàng đế Thuận Tông.
Không ai biết kẻ nào đã dựng cáo thị đó. Khi phát hiện ra, các chức dịch tới và gỡ mang đi. Nhưng rồi mấy hôm sau lại thấy những tấm cáo thị tương tự được dựng ở đâu đó trên phố Chu Tước.
Chuyện đó diễn ra nhiều lần. Người ta chỉ tìm thấy những tấm cáo thị. Các chức dịch của Tả Hữu Kim Ngô Vệ dù thường xuyên đi tuần ban đêm, cũng không thể để mắt tới mọi ngóc ngách của phố Chu Tước. Dù đã canh phòng cẩn mật, song cáo thị vẫn cứ được dựng lên tự lúc nào.
Có vẻ như Dật Thế đang ám chỉ chuyện này.
“Chuyện đó thì tớ có nghe nói.” Không Hải đáp.
“Nhưng chắc cậu chưa biết chuyện tối qua.”
“Tối qua?”
“Ừ. Rốt cuộc đã có một chức dịch nhìn thấy kẻ dựng cáo thị.”
“Sao cơ!?”
“Đúng ra thì không phải một người. Mà chính xác là ba người, tuy nhiên hai người kia đã chết nên lúc nãy tớ mới nói là một người.”
“Ồ.”
Lần đầu tiên Không Hải nghe đến việc ấy.
“Hình như Chí Minh vừa trở về từ Thanh Long Tự đã nghe ngóng được chuyện đó.”
“Chuyện như thế nào?”
“Nghe đâu đêm qua, đúng lúc ba chức dịch của Kim Ngô Vệ đang cưỡi ngựa đi tuần thì bắt gặp chủ nhân của những tấm cáo thị.”
“Ừm.”
“Lúc ấy đã qua nửa đêm, ba chức dịch đang cưỡi ngựa đi xuôi phố từ Chu Tước Môn. Địa điểm xảy ra là chỗ nằm giữa Vĩnh Sùng Phường và Tĩnh An Phường trên phố Chu Tước.”
Đi vừa tới đó thì họ thấy phía trước có bóng người. Cái bóng quay lưng về phía họ. Hình như là đàn ông. Một người đàn ông to lớn, vạm vỡ. Đó là một đêm trăng. Người đàn ông lững thững đi trong đêm trên phố Chu Tước theo hướng từ Bắc xuống Nam. Nhìn kỹ thì thấy người đàn ông đang vác cái gì đó trên vai phải. Đó là cáo thị.
“Này anh kia!” Ba chức dịch cưỡi ngựa lại gần, một trong số họ cất tiếng gọi.
Nhưng người đàn ông không dừng bước.
“Anh kia, đứng lại!” Người chức dịch lên tiếng một lần nữa.
Nhưng người đàn ông vẫn không dừng lại.
Người chức dịch cho ngựa vượt lên phía trước rồi vòng lại. Anh ta dừng ngựa đặng chặn lối người đàn ông.
“Anh đang đi đâu?” Anh ta hỏi người đàn ông.
Lệ không cho phép đi ngoài phố vào ban đêm. Nhưng người đàn ông vẫn không dừng bước. Người đàn ông tiến tới con ngựa, thoắt vung bàn tay trái lên.
Phựt!
Bàn tay rít gió rồi đấm thẳng tới.
Cú đấm trúng vào trán con ngựa. Xương trán con ngựa hứng phải cú đấm lõm hẳn vào bên trong. Hai tròng mắt bắn ra ngoài, con ngựa ngã vật xuống, máu từ mũi và miệng trào ra. Một chân người chức dịch cưỡi trên lưng ngựa bị kẹp vào giữa mình ngựa và mặt đất.
“Thằng khốn!”
“Cha mày!”
Hai người còn lại tuốt kiếm, chém về phía người đàn ông. Người đàn ông đón đường kiếm, lấy thanh cáo thị quật hai chức dịch ngã từ trên ngựa xuống đất. Kẻ ngã xuống chưa kịp đứng dậy, thì người đàn ông liền đạp một chân lên ngực anh ta. Xương lồng ngực của người chức dịch gẫy vụn, bàn chân người đàn ông lún
sâu vào ngực anh ta.
“Á!” Người chức dịch còn lại toan nhổm dậy thì một chân của người đàn ông đã giáng từ trên xuống. Bàn chân đó đạp vỡ đầu anh ta. Hộp sọ nát bét như một trái chín.
Rồi người đàn ông thản nhiên vác thanh cáo thị lên vai và bỏ đi.
“Thế rồi, nghe nói thanh cáo thị ấy được phát hiện ra ở trước cửa Tây của Lan Lăng Phường vào sáng nay.”
“Chuyện đáng sợ quá nhỉ.”
“Người chức dịch bị đánh ngã ngựa đầu tiên vẫn còn sống và đã báo cáo lại nội dung sự việc tớ vừa kể.”
“Ồ.”
“Xem chừng có chuyện gì đó đang bắt đầu xảy ra ở Trường An này rồi.” Dật Thế nói.
“Chậc! Kinh đô hay triều đình, ở đâu cũng vậy cả.” Không Hải nói.
“Nghĩ đến việc phải đi ra ngoài vào ban đêm mà gặp của nợ ấy, cảm giác chẳng dễ chịu chút nào.”
“Thì thôi không đi ra ngoài vào ban đêm nữa.”
“Ừ thì đồng ý là vậy, nhưng mà...” Nói đến đó, Dật Thế liền tỏ vẻ đăm chiêu. “À mà nói vậy mới nhớ, cái tay Đại Hầu ấy hình như đi đâu đó cả ngày hôm qua.”
“Hôm qua là ngày anh ta được tự do.”
“Nhưng hắn ta về có vẻ muộn lắm. Tớ không trông thấy tay đó về. Vậy mà sáng nay thức dậy đã thấy hắn ở chùa. Hay là hắn ta đi đâu đó rồi trở về vào nửa đêm hoặc sáng sớm?”
“Chắc là tầm đó thôi.” Không Hải nói.
“Nhung phải nói là tay đó ăn khỏe thật.” Dật Thế nói như vừa nhớ ra điều gì.
“Ừ.”
“Nhất là lần đầu tiên gặp hắn, phải nói khiếp thật chứ.”
“Ờ, phải rồi.” Không Hải đáp.
Hôm đầu tiên gặp nhau, sau khi nâng tảng đá lên rồi ngồi bệt xuống vì đói bụng, Đại Hầu được Không Hải dẫn vào một quán trọ trên dốc Trường Lạc cho ăn cơm, thế là Đại Hầu ăn tới nỗi ai cũng phải sững sờ. Gần như hết bay một con gà. Ba phần thịt xào rau. Năm bát canh. Lại thêm bảy quả trứng. Ngoài ra anh ta còn lèn vào bụng ba đĩa cơm trắng. Xem ra Đại Hầu vẫn còn ăn được nữa nhưng đành thôi vì quả là cũng phải khách sáo một chút.
Dật Thế đang nhắc lại với Không Hải về chuyện ấy.
“Thú thật, tớ cứ lo chẳng biết rồi sẽ ra sao với cái tay đó.”
“Thế hả.”
“Việc thuê hắn thì không hề gì, tớ chỉ lo là làm cách nào để đưa hắn vào được Tây Minh Tự. Thế mà cậu, tớ thật bất ngờ về mánh lới đó của cậu.”
“Hà hà.” Không Hải tủm tỉm cười trước câu nói của Dật Thế. Chàng trai Không Hải luôn vui sướng một cách hồn nhiên khi thấy người khác kinh ngạc trước tài năng của mình.
Việc trước tiên Không Hải làm với Đại Hầu là sửa sang lại bộ dạng cho anh ta. Ở quán trọ, Không Hải đun nước nóng, bắt Đại Hầu đi tắm, chải chuốt râu tóc, thay sang quần áo mới. Sau đó, bảo quán trọ đem giấy, mực và bút tới để thảo văn tự.
Người này tên là Đại Hầu, thạo tiếng Thiên Trúc. Hắn là người tôi quen biết sau khi sang đây, một nửa dòng máu là Hán, còn nửa kia là Thiên Trúc. Thân là kẻ học Phật pháp, chỉ riêng việc biết tiếng Thiên Trúc thôi cũng đã giúp tiến gần đến những lời dạy của Đấng Thích tôn thêm một bước, bởi thế tôi đã cho gọi tên Đại Hầu này từ Lạc Dương tới Trường An để dạy tiếng Thiên Trúc.
Do vướng chuyện riêng, Đại Hầu sẽ đến Trường An muộn hơn tôi chừng độ hai tháng, vì vậy nếu trong lúc tôi vắng nhà mà hắn đến, xin các vị hãy giữ hắn lại cho đến khi tôi về.
Không Hải thảo ra những lời lẽ ấy một cách trơn tru. Văn phong sáng rõ, dễ hiểu. Song nét chữ thì điêu luyện.
Cuối thư đề: “Nhật Bản quốc lưu học tăng sa môn Không Hải.”
Không Hải bọc bức thư ấy bằng một tờ giấy khác rồi đưa cho Đại Hầu.
“Anh hãy mang bức thư này một mình đến Tây Minh Tự trước ta.” Không Hải nói. “À nhưng trước đó hãy ghé qua Hồng Lô Tự ở Tuyên Dương Phường đã.” Không Hải nói thêm.
Hồng Lô Tự tuy có chữ “Tự” tức là chùa, nhưng là tên gọi của quan điếm. Công việc ở đó là coi sóc các sứ thần ngoại quốc. Nó còn được gọi là Hồng Lô khách quán, nơi mà Không Hải và Dật Thế đã trú chân một thời gian.
“Đến đó anh hãy nói: Tôi được biết trong đoàn sứ thần Nhật Bản có một nhà sư tên là Không Hải, tôi muốn gặp anh ta, thì thể nào họ cũng chỉ anh sang Tây Minh Tự. Sau đó anh hẵng tới Tây Minh Tự.”
“Thế đến Tây Minh Tự tôi phải làm thế nào...”
“Quan trọng là chỗ đó. Đến Tây Minh Tự rồi, anh không được nói tiếng Đường mà ban đầu chỉ được dùng tiếng Thiên Trúc. Hãy nói với họ bằng tiếng Thiên Trúc rằng anh đến để tìm ta, rằng anh đã đến Hồng Lô Tự ở Tuyên Dương Phường nhưng bên đó bảo Không Hải đang ở đây.”
“Bằng tiếng Thiên Trúc chứ gì?”
“Phải rồi. Sau đó thì đưa họ bức thư này. Sẽ ngay lập tức có người biết tiếng Thiên Trúc ra tiếp. Tuy người đó nói được tiếng Thiên Trúc, nhưng không thạo bằng anh nói tiếng Đường. Chỉ ở mức lỗ mỗ, bập bõm mà thôi. Chắc sẽ là Thọ Hải ra tiếp. Vì đây là người thông thạo tiếng Thiên Trúc nhất ở đó.”
“Rồi sau đó...”
“Hẳn là anh sẽ được dẫn tới phòng ta ngay thôi. Ở đó người ta không đối xử lạnh nhạt với những ai biết tiếng Thiên Trúc. Thọ Hải, hoặc một nhà sư khác có thể nói được tiếng Thiên Trúc sẽ tiếp đón anh.”
“Ừm.”
“Lúc đó hãy hỏi anh ta thế này.”
“Hỏi sao?”
“Hỏi rằng, trong chùa này có A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận không? Và nếu có thì hãy bảo họ cho anh xem qua.”
“Rồi sao nữa?”
“Tất nhiên, không lẽ nào mà Tây Minh Tự lại không có. Họ sẽ trả lời với anh là có.”
“Ừm.”
“Tiếp đến anh sẽ hỏi, Câu Xá Luận ấy là bản dịch cũ hay bản dịch mới của Huyền Trang?”
“Rồi sẽ làm gì nữa?”
“Rồi anh xin họ cho xem bản dịch của Huyền Trang.”
“Ồ.”
“Nếu là Câu Xá Luận thì có lẽ họ sẽ không từ chối. Khi ấy, họ đã để ý đến anh rồi và đang thắc mắc không biết anh định làm gì, nên họ sẽ không từ chối.”
“Lúc này, anh sẽ xem qua Câu Xá Luận để kéo dài thời gian.”
“Kéo dài thời gian?”
“Ừ. Anh hãy đọc cho đến khi tiếng mộ cổ đầu tiên gióng lên. Khi tiếng trống ấy gióng lên, anh hãy gấp bộ Câu Xá Luận lại, rồi thốt lên ra vẻ thật tâm đắc: Ây chà!” Không Hải nói, mắt cậu ánh lên một nụ cười thích thú.
“Thốt lên để làm gì vậy, Không Hải?” Người hỏi là Dật Thế.
“Để hỏi họ một câu.”
“Hỏi gì?” Dật Thế nói.
“Từ đoạn này anh có thể nói tiếng Đường. Anh hãy hỏi bằng tiếng Đường như sau.”
“Hỏi thế nào?”
“Anh hãy hỏi thế này: Có một tăng sinh ở Tăng viện Nalanda cho rằng, Thế Thân (tác giả bộ Câu Xá Luận ) không phải là một người, mà là hai ngưòi, thầy nghĩ sao về việc này?”
“Thế thì sẽ ra sao?”
“Đối phương sẽ lúng túng.”
“Lúng túng? Tại sao?” Dật Thế hỏi.
“Giải thích sẽ rất dài dòng nên tóm lại là đối phương sẽ lúng túng. Hoặc có thể sẽ cười trừ.”
“Thế tớ mới hỏi là tại sao?”
“Bộ ‘Câu Xá Luận’ đó được viết ra với khối lượng câu chữ thật sự đồ sộ về những việc trong vũ trụ này. Nhiều đến mức một người bình thường có mất cả đời cũng chưa chắc đã viết xong.”
“...”
“Tuy nhiên, trước tác được cho là do Thế Thân viết ra không chỉ có bộ ấy. Ngài viết từ Câu Xá Luận cho đến vô số những bộ luận về duy thức khác như Thành Nghiệp Luận, Duy Thức Nhị Thập Luận, Duy Thức Tam Thập Tụng , rồi cả ‘Nhiếp Đại Thừa Luận Thích’ . Hơn thế nữa, công việc đó diễn ra trong gần một trăm năm.”
“Chà chà.” Trừ Câu Xá Luận, Dật Thế chẳng biết một cái tên nào trong số các bộ luận mà Không Hải nhắc đến.
“Chính vì thế mới nói, Thế Thân có lẽ là hai người.”
“Có giả thuyết đó thật hả?” Dật Thế hỏi.
“Không có.” Không Hải thản nhiên đáp.
“Không có sao lại hỏi?”
“Vì thế nên đối phương mới lúng túng. Tại sao lại lúng túng, là vì đối phương đột nhiên bị hỏi đến chuyện ấy bởi một kẻ tay mơ không có vẻ gì là tăng môn, đã thế lại nói toàn bằng tiếng Thiên Trúc.”
“...”
“Sẽ cực kỳ lúng túng. Tất nhiên giả thuyết này là do tớ bất chợt nghĩ ra, nhưng không phải là không có lý. Đến cả tớ là kẻ nghĩ ra cũng thấy lúng túng. Còn có nhiều căn cứ khác để có thể cho rằng Thế Thân là hai người. Vả lại, thầy chùa là cái giống sĩ diện nên rất thích những chuyện kiểu đó. Họ không dám nói là không biết. Hơn nữa, nếu may mắn thì giả thuyết mới ấy sẽ nhận được sự chú ý ở Tây Minh Tự và có thể là một cách để tăng thêm vị thế.”
“Cậu thật khéo nghĩ ra được những chuyện ghê gớm.”
“À, đối phương sẽ lúng túng thì tớ hiểu rồi, nhưng như thế thì sao?” Dật Thế hỏi tiếp.
Không Hải cười khoái trí, nói: “Đúng lúc đó tớ sẽ về đến nơi.”
“Sau đó?”
“Nghe xong chuyện tớ sẽ cúi đầu xin lỗi.”
“Ồ.”
“Rồi giải thích rằng: Chuyện về Thế Thân mà người đàn ông này nhắc đến là do tôi bất chợt nảy ra, rồi sau đó tiện miệng nói vui với anh ta rằng đó là giả thuyết của một tăng sinh ở Tăng viện Nalanda. Vì muốn mời anh ta tới Trường An để dạy tiếng Thiên Trúc cho mình nên tôi đã kể với anh ta những ý nghĩ từ trước đến nay trong đầu mình và làm ra vẻ như những điều ấy là sự thật. Nhưng chuyện về Thế Thân thì quả thực là do tôi chợt nảy ra, song lại nói thác là của một tăng sinh ở Tăng viện Nalanda.”
“Sau đó sẽ ra sao?”
“À thì mọi việc sẽ đâu vào đấy thôi.”
“Tại sao cậu lại yêu cầu Đại Hầu nói tiếng Thiên Trúc lúc ban đầu?”
“Vì như thế sẽ khiến đối phương bất ngờ. Hơn nữa, trong lúc chúng ta chưa quay về, nếu họ biết Đại Hầu nói được tiếng Đường thì Đại Hầu có thể sẽ lúng túng vì bị hỏi này hỏi nọ.”
“Nhưng Không Hải này...”
“Rồi sẽ ổn cả thôi.”
Và rồi...
“Đúng là mọi chuyện đều ổn cả...” Trong phòng của Không Hải, Dật Thế buông một tiếng thở dài.
“Nhưng nhớ là hôm nay đấy nhé.” Dật Thế nhìn Không Hải.
“Ừ.” Không Hải đáp.
“Chớ có lỉnh mất.” Dật Thế nói.
❖ 2 ❖Không Hải ngồi đối diện Dật Thế, giữa họ là lô. Đó là một căn phòng nhỏ. Sàn nhà lát gỗ, bên trên trải thảm, hai người đang ngồi trên đó. Ngọn đèn mờ tỏ chiếu sáng căn phòng.
Bên cạnh Không Hải và Dật Thế là hai cô gái trẻ trong trang phục ngưòi Hồ. Họ là những Hồ cơ.
Cả hai đều có đôi mắt xanh rõ ràng ngay cả dưới ánh đèn tối.
Hồ Ngọc Lâu.
Ấy là tên của một kỹ lâu ở Bình Khang Phường mà Không Hải và Dật Thế vừa tới. Đúng như chữ “Hồ” trong tên gọi, nơi đây có rất nhiều Hồ cơ. Không chỉ nhiều Hồ cơ, các đồ trang trí trong phòng cũng phần nhiều là sản vật của Hồ. Thảm trải sàn là thảm Ba Tư. Tranh treo trên tường cũng là của Tây Vực, bình vại trong phòng cũng là của Tây Vực.
Song le, ở những chỗ như thế này, không thể bày toàn đồ Tây Vực được. Đây đều là những món có giá trị cao, nên rất có thể sẽ bị đánh cắp hoặc bị làm hỏng. Không Hải đoán rằng có đến già nửa những món như tranh hay bình vại là đồ nhái được chế tác tại Đường.
Tuy nhiên...
Ít nhất thì Hồ cơ là đồ thật và chén lưu li có màu xanh lục nhạt bày trên lô có vẻ cũng là thật.
Lưu li, tức là thủy tinh. Và rượu thì là rượu bồ đào của Tây Vực. Có vẻ như đây là một kỹ lâu khá cao cấp.
“Không Hải này, lần đầu ta nên đến một kỹ lâu kha khá một chút nhé.” Dật Thế mào đầu rồi dẫn Không Hải tới đây.
Hình như không phải kỹ lâu mà Dật Thế thường hay lui tới. Xem ra Dật Thế đã nhắm nơi này từ trước để dành cho buổi tối hôm nay.
Hồ cơ ngồi bên Không Hải là Ngọc Liên và ngồi bên Dật Thế là Mẫu Đơn. Ngọc Liên trạc hai hai hoặc hai ba tuổi, còn Mẫu Đơn mới chừng đâu đó hai mươi.
Đón lấy dòng rượu bồ đào mà Hồ cơ Mẫu Đơn rót cho với đôi cánh tay trắng ngần bằng chén lưu li, sau đó Dật Thế đưa lên miệng. Ánh đèn hắt vào chén lưu li đặt trên lô khiến cho màu rượu bồ đào trở nên kỳ ảo.
“Đây mới chính là Trường An, Không Hải ạ.” Dật Thế có vẻ như đã say bầu không khí của nơi này hơn là say rượu.
Không Hải vẫn giữ nguyên nụ cười và đưa rượu bồ đào lên miệng. Cậu vẫn mặc nguyên tăng y.
“Cậu đi với bộ dạng đó không sao chứ, Không Hải?” Dật Thế đã nhiều lần nói nhỏ với Không Hải câu đó bằng tiếng Nhật trước khi bước vào căn phòng này, nhưng giờ thì cậu ta có vẻ đã không còn bận tâm đến những chuyện như thế nữa.
“Chị Ngọc Liên, vị này có đúng là nhà sư thật không?” Mẫu Đơn đang ngồi cạnh Dật Thế hỏi Ngọc Liên.
“Thật đấy.” Người trả lời là Dật Thế.
“Có thật không ạ?” Ngọc Liên quay sang hỏi Không Hải đang ngồi bên cạnh.
“Ừ.” Không Hải đáp.
“Sư ở đâu ạ?”
“Ta là Không Hải ở Tây Minh Tự.” Không Hải thản nhiên trả lời.
“Kìa, Không Hải!” Dật Thế cuống quýt nhắc. “Cậu đến đây với bộ dạng như thế, lại còn đem cả tên Tây Minh Tự ra nói mà xong được à?”
“Có sao đâu.” Không Hải nói.
Ngọc Liên và Mẫu Đơn tỏ ra thích thú khi thỉnh thoảng Không Hải và Dật Thế nói chuyện bằng thứ tiếng ngoại quốc lạ tai.
“Huynh hình như không phải người Đường, huynh từ đâu đến?” Ngọc Liên hỏi.
“Nước Oa.” Không Hải đáp.
“Nước Oa?”
“Đất nước mặt trời mọc nằm tận tít ngoài biển phía Đông Đại Đường chính là nước Oa.”
“Biển? Em chưa trông thấy biển bao giờ.” Vừa nói Ngọc Liên vừa rớt rượu bồ đào vào chén Không Hải bằng tay trái.
Nhìn cho kỹ thì từ nãy tới giờ Ngọc Liên chỉ dùng tay trái. Tay phải có vẻ như không cử động.
“Em bị sao thế?” Không Hải hỏi khi nhận ra điều đó. “Tay phải em bị liệt chăng?”
“Dạ...” Ngọc Liên gật đầu vẻ ngập ngừng.
“Đã hai tháng nay, tay phải chị Ngọc Liên không cử động được nữa.” Mẫu Đơn cất tiếng.
“Ồ.” Không Hải nhìn sang tay phải của Ngọc Liên. “Nếu được thì đưa ta xem nào.”
Nghe Không Hải nói vậy, Ngọc Liên liền lấy bàn tay trái nắm lấy cánh tay phải ngập ngừng đưa ra. Không Hải cầm lấy bàn tay ấy.
“Ái chà.” Không Hải vén tay áo Ngọc Liên lên gần đến vai để lộ ra cánh tay trắng nõn, rồi dùng hai bàn tay vừa nắn vừa vuốt từ dưới lên trên.
“Em có cảm giác không?”
“Cứ như không phải tay em ấy.”
“Đến chỗ nào mà em cảm thấy thì bảo ta.” Không Hải lần lượt nắn dần lên cánh tay trên. Thế rồi Ngọc Liên thốt lên: “A, chỗ đó. Bắt đầu từ chỗ đó thì cảm giác của cánh tay lại bình thường.”
Đó là chỗ gần với khớp vai.
“Có đau không?”
“Không đau mấy, nhưng thỉnh thoảng em cảm thấy như đau khủng khiếp ở trong xương.”
“Ngay từ đầu em đã bị thế này ở toàn bộ cánh tay à?”
“Ban đầu chỉ có cổ tay thôi, rồi nó lan dần lên trên và bây giờ thì đến đây...” Mặt Ngọc Liên bỗng nghiêm trang hẳn.
“Ra thế.”
“Có chữa được không ạ?”
“Chắc là chữa đưọc?”
“Thật không ạ?” Giọng Ngọc Liên chừng như hồ hởi.
“Này Không Hải, liệu có được không mà cậu nói thế?” Dật Thế hỏi.
“Chắc là sẽ được.” Không Hải vẫn cầm tay Ngọc Liên, quay sang nói với Mẫu Đơn: “Em hãy chuẩn bị những thứ ta bảo.”
“Dạ...” Mặt Mẫu Đơn cũng tỏ ra nghiêm trang.
“Một cây bút nhỏ, nghiên, mực và nước...”
“Có cần giấy không ạ?”
“Không cần giấy. Tiếp nữa là thịt sống, phải rồi, thịt gì cũng được miễn là sống. Cá tươi cũng được. Và nếu có kim thì lấy cho ta hai cây.”
“Em hiểu rồi.” Mẫu Đơn đứng dậy.
“Những thứ còn lại thì ở đây đã có đủ rồi.”
Tiếng bước chân mau mắn của Mẫu Đơn đi khuất, một lát sau nàng đem đến những thứ như đã được dặn.
“Được rồi.” Không Hải nói rồi đổ nước vào nghiên, bắt đầu mài mực.
“Dật Thế, nhờ cậu chút được không.”
“Ờ, được.”
“Cậu thấy cái kim ở đó chứ. Cậu lấy mũi kim hơ lên lửa đèn cho nóng hộ tớ nhé.”
“Ừm.”
Tuy chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào, song có vẻ Dật Thế rất hứng thú với việc Không Hải sắp làm. Cậu ta bắt đầu hơ đầu kim vào ngọn lửa.
“Cậu hơ cho đến khi nào đầu kim nóng đỏ là được. Sau đó thì cứ cầm nguyên trên tay, đừng đặt xuống.”
“Hiểu rồi.”
Cuối cùng Không Hải cũng đã mài mực xong.
“Cậu đưa tớ cây kim đây.”
Không Hải dùng tay phải cầm lấy cây kim trên tay Dật Thế.
“Em đưa bàn tay phải đây.” Không Hải nói với Ngọc Liên.
Không Hải dùng tay trái nắm lấy bàn tay phải mà Ngọc Liên giơ ra, rồi để ngón tay giữa của Ngọc Liên chĩa về phía trước.
“Hơi đau đấy.” Không nhiều lời, Không Hải nắm lấy ngón tay giữa đang chìa ra của Ngọc Liên, chọc nhẹ đầu kim vào kẽ móng.
“Á!” Lúc Ngọc Liên kêu lên thì kim đã được rút ra.
Một giọt máu noi đầu ngón mọng dần lên từ kẽ móng.
“Không sao đâu. Giờ thì để ta xem cánh tay.” Không Hải nắm lấy cánh tay trên của Ngọc Liên, rồi quay sang Mẫu Đơn: “Nhờ em giữ gấu tay áo phải của Ngọc Liên để nó đừng tuột xuống.”
“Vâng ạ.” Mẫu Đơn đi vòng qua lô, đến bên cạnh Ngọc Liên và giữ gấu tay áo đúng như Không Hải bảo.
“Cứ như thế là được.” Không Hải nói, rồi cầm cây bút lên bằng tay phải trong khi tay trái vẫn giữ cánh tay Ngọc Liên. Không Hải chấm đầu bút vào chỗ mực vừa
mài xong.
“Cậu định làm gì thế?” Dật Thế hỏi.
“Thì cậu cứ xem đi Dật Thế.”
Không Hải bắt đầu viết chữ bằng cây bút đang cầm trên tay. Không Hải viết lên cánh tay phải của Ngọc Liên. Đúng vào vị trí ở gần khớp vai.
Cây bút trên tay Không Hải thoăn thoắt lướt trên làn da trắng ngần của Ngọc Liên. Những con chữ như những sinh vật thoát ra từ đầu bút. Vừa viết, Không Hải vừa lầm rầm điều gì đó.
Những con chữ phủ kín trên da, không sót một chỗ nào, từ mặt trong ra đến mặt ngoài cánh tay. Sau khi đã viết kín phần trên, bây giờ những con chữ tiếp tục đi xuống phía khuỷu tay.
“Cậu viết gì thế?” Dật Thế hỏi.
“Bát Nhã Tâm Kinh.” Không Hải đáp.
Không Hải đang chép Bát Nhã Tâm Kinh lên cánh tay Ngọc Liên.
Khi cuối cùng cũng đã viết kín đến cổ tay, Không Hải mới nói với Dật Thế: “Dật Thế, cậu uống cạn chỗ rượu trong chén lưu li của cậu đi.”
“Ờ... Ừ.” Nghe lời Không Hải, Dật Thế liền uống cạn chỗ rượu bồ đào cũng chẳng còn là mấy.
“Tiếp theo làm gì?”
“Cậu xẻo một mẩu thịt cừu sống rồi cho vào trong đó. Nhỏ bằng đầu ngón tay là được.” Không Hải nói.
Tay Không Hải vẫn thoăn thoắt đưa bút. Đầu bút đang chạy trên lòng bàn tay Ngọc Liên.
Đó thật là một quang cảnh kỳ lạ.
Trong căn phòng của một kỹ viện ở nước Đường, những người ngoại quốc tới từ phía Tây và phía Đông đang mải miết thực hiện những hành vi kỳ quái dưới ánh đèn lồng lờ mờ. Hơn nữa, trong số họ có một chàng trai mang bộ dạng thầy tu thật chẳng hợp với chốn kỹ lâu này.
“Tớ cho vào rồi.” Dật Thế nói.
“Được lắm, cậu mang đến đây cho tớ.”
Nghe Không Hải nói vậy, Dật Thế liền khom lưng mang đến bên cạnh. Khi ấy, Không Hải đã viết hết chữ trên mu bàn tay phải của Ngọc Liên. Chỉ còn lại năm
ngón.
“Dật Thế, tiếp theo...” Không Hải nói tiếp.
“Ờ.”
“Cậu để đầu ngón tay giữa của Ngọc Liên lên miệng chén, hứng lấy giọt máu nhỏ xuống nhé.”
Giọt máu căng mọng từ kẽ móng mà Không Hải chọc kim vào ban nãy chỉ chờ rớt xuống.
“Hiểu rồi.”
Tay phải cầm chén lưu li, tay trái giữ ngón tay giữa của Ngọc Liên, Dật Thế làm đúng như được yêu cầu. Khi ấy, Không Hải cũng vừa viết xong chữ lên ngón cái của Ngọc Liên và đang chuyển sang ngón trỏ.
Ngón trỏ xong.
Tiếp theo là ngón út.
Ngón út xong.
Tiếp theo là ngón vô danh.
Ngón vô danh xong.
Chỉ còn lại duy nhất ngón giữa.
“Sắp xong rồi.” Không Hải nói.
Tiếng Dật Thế nuốt nước miếng ực một tiếng rõ to.
Không Hải đã bắt đầu viết chữ lên ngón giữa. Đó là đoạn cuối của Bát Nhã Tâm Kinh.
Yết đế, Yết đế, Ba la yết đế
Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha
Đoạn kinh đó được viết từ gốc ngón cho đến đầu ngón bằng những chữ li ti.
Bát Nhã Tâm Kinh
Đúng lúc chữ “Kinh” cuối cùng được viết lên trên móng tay của ngón giữa, thì Dật Thế khẽ thốt lên: “Ôi...! Không Hải, xem này...”
Không Hải chỉ im lặng gật đầu.
Trong giọt máu ở kẽ móng ngón tay giữa của Ngọc Liên có thứ gì màu đen đang ngọ ngoậy.
Cả Ngọc Liên lẫn Mẫu Đơn mặt cắt không còn giọt máu. Cũng không cất nổi tiếng.
Cái thứ đang muốn thoát ra khỏi kẽ móng ấy bò lổm ngổm trong máu. Đó là một cái xúc tu mọc đầy lông tơ màu đen. Nó có lông giống như lông nhện. Nhưng không phải nhện.
“Trùng đấy.”
Con trùng đó dần hiện nguyên hình và càng lúc càng lớn lên. Lúc Dật Thế thốt lên câu đó, một con trùng đen gớm ghiếc mà cậu ta chưa từng nhìn thấy vừa bò ra từ đầu ngón tay Ngọc Liên. Nó có tất cả mười hai chân. Con trùng đó tức thì bổ nhào từ đầu ngón tay Ngọc Liên vào mẩu thịt sống trong chiếc chén lưu li.
“Oái!” Dật Thế suýt nữa quẳng cái chén ra xa thì Không Hải liền đỡ lấy, đặt nó lên trên mặt lô.
Không Hải lấy cái nghiên đậy lên miệng chén để con trùng không bò ra ngoài mất.
Ngọc Liên nắm chặt hai bàn tay ở trước ngực, trố mắt nhìn cái chén mà không cất nổi thành lời.
“Xem này, nó cử động được rồi.” Không Hải nói.
“Cái gì cử động ạ?” Ngọc Liên hỏi.
“Tay phải.”
“Ối!?” Ngọc Liên kêu lên rồi buông bàn tay đang co lại trước ngực. “Đúng là cử động được thật rồi!” Nàng thốt lên vui sướng.
“Chị Ngọc Liên!” Mẫu Đơn nắm lấy tay Ngọc Liên.
“Ôi trời Không Hải!” Dật Thế nhìn xuống Không Hải khi ấy đã ngồi xếp bằng trên thảm, nói: “Cậu quả thật là một gã kinh khủng.”
❖ 3 ❖“Nó là một con ngạ trùng.” Không Hải nói sau khi quay trở lại bàn tiệc.
Không Hải đang ngồi xếp bằng, Ngọc Liên kề bên luồn tay trái vào tay Không Hải, ngắm nhìn cậu với ánh mắt đắm đuối.
“Ngạ trùng?” Dật Thế hỏi.
“Ờ. Tớ không biết ở Đường người ta gọi nó là gì.”
“Nó là loại trùng như thế nào?”
“Nó không phải loại trùng bình thường.”
“Ồ.”
“Lòai trùng này trông như là một con nhưng lại không phải một con.”
“Nghĩa là sao!?”
“Rất nhiều con trùng nhỏ cùng loại quấn vào nhau để thành một con trùng lớn như thế.”
“Ồ.”
“Nếu tách làm đôi nó sẽ thành hai con, tách tiếp làm tư nó sẽ thành bốn con, lại tách tiếp làm tám nó sẽ thành tám con, tám con sẽ thành mười sáu con...”
“Thế thì có mà vô cùng à?”
“Loại trùng ấy là như thế.”
“Hừm.”
“Dù chia nhỏ đến đâu, loài trùng ấy vẫn giữ nguyên hình dạng như vậy.”
“Thật vậy hả?”
“Ừ. Vốn dĩ đó là loại trùng có ở khắp nơi.”
“Cậu bảo sao?”
“Nó có ở trong không khí của căn phòng này, ở bên ngoài, nói chung là không đâu không có.”
“Sao cơ!?”
“Thú thật là ngay cả tớ cũng không thể phân biệt được thứ vừa rồi là trùng hay là cái gì khác. Mỗi lần tớ thấy, chúng lại mang một hình dạng khác nhau, nhưng có vẻ như tất cả đều cùng một loại.”
“Trời!” Dật Thế chăm chú nghe Không Hải nói tới nỗi quên cả đưa chén lên miệng.
Lúc đó đã sắp nửa đêm.
“Dường như loài trùng này có thể cảm ứng được ý nghĩ của con người rồi theo đó tụ lại trong cơ thể người.”
“Ý nghĩ của con người?”
“Phải.” Không Hải đáp, rồi đưa mắt sang Ngọc Liên hỏi. “Em Ngọc Liên, cách đây hơn hai tháng một chút, em có bị ai oán hận điều gì không?”
“Oán hận ấy ạ?”
“Nếu thấy loài trùng này, thì đối phương thường sẽ là đàn bà.”
“Đàn bà?”
“Không phải một người đàn bà bình thường, mà là một người đàn bà có quen biết với phương sĩ hoặc đạo sĩ.”
“Ôi chết.” Không Hải vừa dứt lời thì Mẫu Đơn kêu lên. “Nếu thế thì là chị Lệ Hương rồi.”
“Lệ Hương?” Người hỏi là Dật Thế.
“Vâng. Cũng không có gì là lạ nếu chị Lệ Hương oán hận chị Ngọc Liên.”
“Ồ!” Không Hải reo lên vẻ thích thú, rồi hỏi: “Đã có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Trong số những kẻ sủng ái chị Lệ Hưong có một người tên là Lưu Vân Tiêu...”
Mẫu Đơn vừa nói đến đó thì Ngọc Liên cất tiếng nhắc nhở: “Kìa, Mẫu Đơn!”
“Em nghĩ nói ra thì sẽ tốt hơn chị ạ. Mình nói cho huynh Không Hải biết ở đây để ngộ nhỡ sau này có chuyện gì.”
“Để ngộ nhỡ sau này có chuyện gì là sao?”
“Nếu như con trùng ban nãy ám vào chị Ngọc Liên là do chị Lệ Hương giở trò gì đó, thì tuy nay đã lấy được nó ra, nhưng biết đâu nó lại tiếp tục ám vào thì sao.”
Mẫu Đơn nói chí phải.
Ngọc Liên toan nói gì, song lại thôi. Có vẻ nàng đã quyết định để mặc Mẫu Đơn nói hết phần mình.
“Lưu Vân Tiêu là một chức dịch của Kim Ngô Vệ, thường xuyên lui tới Hồ Ngọc Lâu này. Nhưng không phải bằng tiền của mình đâu, mà là tiền xoay xở bằng cách nào đó. Không thế thì còn lâu mới thành khách hàng ruột ở đây được.”
“Hồ Ngọc Lâu ăn thông sang một kỹ lâu nữa tên là Nhã Phong Lâu, bên trong đó cũng tương tự thế này. Cơ mà lối vào thì riêng biệt. Kỹ nữ tiếp các khách vào theo lối Nhã Phong Lâu là người Đường, còn các khách đi lối Hồ Ngọc Lâu thì do bọn em tiếp, nhưng những khi đông khách thì cũng không cứ, chỉ là bề ngoài phân chia ra thế thôi.” Mẫu Đơn vừa quan sát Không Hải vừa kể.
“Lưu Vân Tiêu ban đầu là khách của Nhã Phong Lâu và người tiếp đón luôn là chị Lệ Hương.”
“Thế rồi sao?”
“Thế rồi bẵng đi một dạo, ông Lưu không thấy đến nữa.”
“Phải chăng là hết tiền?” Dật Thế nói chen vào.
“Hình như không phải thế. Hoặc cũng có thể là như thế nhưng rồi có lẽ ông ấy lại xoay đâu được tiền, nên từ cuối năm ngoái lại thấy ông ấy bắt đầu ghé quán, cơ mà đúng đận đó thì chị Lệ Hưong lại đang cặp với một vị khách khác, thành thử chị Ngọc Liên mới tiếp thay.”
Giọng kể của Mẫu Đơn đã trở nên hoàn toàn thân mật.
“Hình như sau dạo đó, ông Lưu đã thích hẳn chị Ngọc Liên, nên lần nào tới ông ấy cũng cho đòi chị Ngọc Liên...”
“Vì thế nên Lệ Hưong mới...” Dật Thế tiếp lời.
“Nhưng chỉ qua câu chuyện ấy thì không thể chắc chắn được có phải Lệ Hương đã làm việc đó hay không.” Không Hải lên tiếng.
“Nhưng lúc nãy chẳng phải huynh đã nói rằng, người đó phải quen biết phương sĩ hoặc đạo sĩ hay sao?”
“Lệ Hương có quen người nào như thế à?”
“Chắc chắn là chị Lệ Hưong đã được vị đạo sĩ hay phương sĩ quen biết ấy dạy cho một phép bùa chú nào đó để yểm rồi.”
“Nhưng chưa chắc đã phải như vậy.”
“Nghĩa là sao ạ?”
“Vì những người có tâm địa cực kỳ đáng sợ thì không cần phải ếm chú, chỉ cần có tâm niệm đó thôi là đã có thể gây ra chuyện ấy rồi.”
“Thế thì chính là chị Lệ Hương rồi.”
“Tại sao?”
“Em nhớ có lần chị ta đúng từ dưới nhìn theo chị Ngọc Liên đang đi lên cầu thang với một vẻ mặt rất khủng khiếp.”
“Xem ra chị ta khá đáng sợ đấy nhỉ.”
“Đúng đấy ạ.” Mẫu Đơn nói xong liền đưa mắt về phía Ngọc Liên. “Chị Ngọc Liên...”
“Sao em!?”
“Nhân tiện, hay là ta kể luôn chuyện đó đi?” Mẫu Đơn nói.
“Vẫn còn chuyện gì nữa à?” Dật Thế hỏi.
“Chuyện này, theo như lời chị Ngọc Liên kể, thì Lưu Vân Tiêu gần đây có vẻ rất lạ.”
“Lạ như thế nào?”
“Hình như vì thế mà bẵng đi một thời gian ông ấy không đến kỹ lâu nữa, nhưng sau khi ghé trở lại rồi thì ông Lưu vẫn cứ rất lạ. Đúng thế không, chị Ngọc Liên?”
Bị Mẫu Đơn hỏi, Ngọc Liên mới ngập ngừng gật đầu: “Ờ... Ừ.”
“Lạ như thế nào?” Không Hải hỏi lại.
“Đâu như là có yêu quái đang ám trong nhà ông Lưu.”
“Bị yêu quái ám?”
“Thấy bảo đó là một con mèo.”
“Con mèo?”
“Nên là bây giờ ông Lưu chẳng biết phải làm sao. Mà vợ ông ấy cũng bị con mèo chiếm mất...”
“Bị mèo chiếm mất là sao?” Người cất tiếng là Dật Thế. Giọng điệu như thể muốn nói làm gì có chuyện đó.
“Không những thế, thấy bảo con mèo còn có khả năng tiên tri nữa cơ.” Người nói là Mẫu Đơn. Rồi nàng bỗng đổi sang giọng thì thào: “Theo chuyện chị Ngọc Liên kể thì con mèo đó đã tiên tri rằng Đức Tông hoàng đế sẽ chết...”
“Sao cơ?” Bàn tay đang đặt trên bàn của Đật Thế siết chặt lại.
“Làm cách nào con mèo đó cũng không chịu đi, nên hình như Thanh Long Tự sẽ phải ra tay.” Mẫu Đơn nói ra câu đó với vẻ mặt hớn hở.