Chương X Diệu Thích Bồ Tát
❖ 1 ❖
Buổi tối.
Ngày hôm đó Không Hải đã cùng Quất Dật Thế đi đến gặp An Tát Bảo. Dật Thế và Đại Hầu giờ đang tề tựu trong phòng Không Hải. Trên mặt sàn gỗ là tấm thảm Ba Tư Không Hải mua được ở chợ Tây. Ba người ngồi xếp bằng trên thảm, theo cách riêng của mình. Không Hải ngồi cạnh án thư kê gần cửa sổ, chống khuỷu tay phải lên mặt án. Dật Thế ngồi chếch về phía bên trái Không Hải, còn Đại Hầu thì ngồi xây lưng ra cửa.
Khi cái thân hình đồ sộ của Đại Hầu chui vào phòng Không Hải, cả căn phòng bỗng như hẹp lại. Đại Hầu dùng vuông vải điều buộc mái tóc dài ra sau, nhưng không thể buộc hết, tóc vẫn dựng lên bời bời.
Đèn được thắp trong góc phòng, ánh lửa dỏ rung rinh. Mùi dầu cháy lẩn khuất trong không khí của căn phòng,
Không Hải nhìn Dật Thế và Đại Hầu một lượt, rồi cất tiếng với vẻ mặt như một đứa trẻ đang chờ đợi điều gì vui thú lắm: “Để xem nào.”
Sau đó quay sang Đại Hầu hỏi: “Việc ta nhờ, anh đã tìm ra gì chưa?”
“Tôi đã phát hiện ra nhiều thứ.” Đại Hầu đáp.
“Phát hiện được gì?” Không Hải hỏi.
Đạỉ Hầu vừa toan mở miệng thì Dật Thế đã cướp lời: “Này Không Hải, các cậu đang nói về chuyện gì thế?”
“Buổi sáng tớ đã nói với cậu trên đường tới chỗ anh Mohammed rồi còn gì?”
“À, cậu bảo rằng có mấy việc nhờ Đại Hầu ấy hả?”
“Ờ, chính là chuyện ấy.” Nói đoạn, Không Hải lại quay sang Đại Hầu.
“Ừm, biết bắt đầu từ chuyện nào nhỉ?” Đại Hầu đưa ngón tay to tướng lên gãi đầu sồn sột.
“Từ đâu cũng được. À phải rồi, anh đã tìm ra chỗ ở của Lưu Vân Tiêu hiện nay chưa?”
“Tôi tìm ra rồi.”
Nghe Đại Hầu nói thế, Không Hải liền nhào người ra: “Ồ...”
“Lưu Vân Tiêu đang ở nhà Lữ Gia Tường bên Thái Bình Phường.”
“Lữ Gia Tường?”
“Là đồng liêu của Lưu Vân Tiêu. Tôi tìm đến nhà người đầy tớ của Lưu Vân Tiêu, rồi hỏi dò ra, nhưng nghe nói Lưu Vân Tiêu đã hóa dại đến nửa phần rồi.”
“Ừm.”
“Hình như Lưu Vân Tiêu bị con yêu mèo bảo rằng hắn ta sắp chết.”
“Sắp là bao lâu?”
“Thấy bảo một tháng nữa thì chết.”
“Nó nói hồi nào?”
“Ngày mười lăm tháng Hai. Thế nên có vẻ Lưu Vân Tiêu tin chắc rằng mình sẽ chết trước ngày mười lăm tháng Ba, tức tháng này.”
“Hôm nay là mùng năm, vậy là còn khoảng mười ngày nữa.”
“À, còn một chuyện thú vị nữa tôi nghe được.”
“Chuyện gì?”
“Về Thanh Long Tự, nghe bảo bên ấy sẽ đến xem xét tình hình của Lưu Vân Tiêu một lần nữa.”
“Khi nào?”
“Nghe đâu là sẽ sớm thôi, nhưng còn ngày giờ cụ thể thì...”
“Hừm.” Không Hải vẫn tì tay phải trên án thư, lấy ngón trỏ gõ gõ lên mặt bàn.
“Cuối cùng thì đã đến lúc nhân vật có máu mặt phải xuất đầu lộ diện chăng?” Không Hải nói.
Gương mặt Không Hải nở ra một nụ cười khoái trí.
“Tiếp theo là chuyện của Lệ Hương...”
“Lệ Hương ở Nhã Phong Lâu hả?”
“Vâng.”
“Lệ Hưong hiện giờ có vẻ như đang ở Bình Khang Phường.”
“Ồ.”
“Việc này thì rất tình cờ. Chả là tôi đến Nhã Phong Lâu để tìm xem trong đám đàn ông thường hay qua lại kỹ viện này có ai là khách quen của Lệ Hương hay không.”
“Ừ.”
“Thế mà chỉ riêng trong ngày hôm nay tôi đã tìm được mấy người liền. Tôi mới lén hỏi thì một gã trong số đó bảo rằng ít bữa trước có nhìn thấy một người giống như Lệ Hương ở bên ngoài.” Từ lúc nào, giọng Đại Hầu đã oang oang.
“Thế rồi sao hả Đại Hầu?” Người hỏi là Dật Thế.
“Gã ấy nói đã nhìn thấy mặt Lệ Hương ở trước nhà một đạo sĩ hay phương sĩ gì đó không rõ lắm. Nhưng hình như gã ấy còn bảo chưa kịp cất tiếng gọi thì Lệ Hương đã chui tuột vào trong ngôi nhà ấy mất.”
“Sao lại hình như?”
“Thú thật với thầy là người hỏi giúp tôi mấy chuyện này chính là Mẫu Đơn. Nghe nói trong đám khách của Mẫu Đơn có mấy người trước kia là khách ruột của Lệ Hương nên tôi đã nhờ em ấy hỏi hộ.”
“Tên của vị đạo sĩ hay phương sĩ đó là gì?”
“Cái đó thì tôi không biết. Có lẽ gã ấy chỉ đoán thế thôi, vì trước cửa nhà của đạo sĩ hay phương sĩ có tấm biển đề ‘Ở đây có xem số mệnh’.”
“Ra là vậy...” Dật Thế gật gù.
“Nhưng địa điểm của ngôi nhà thì anh biết chứ?”
“Tôi chắc là biết. Tôi đã hỏi kỹ việc này...”
“Thế còn tông tích nhà Lưu Vân Tiêu cũng như lai lịch của Lệ Hương đã có manh mối gì chưa?”
“Chưa ạ, việc đó tôi vẫn chưa tìm hiểu...”
Đại Hầu hơn hớn cười, rồi lại đưa tay gãi đầu.
“Thôi cứ tạm thế đã. Trong một ngày mà thu hoạch được như thế là giỏi lắm rồi.” Không Hải nói.
“Còn việc này nữa ạ.” Đại Hầu đổi sang giọng nghiêm chỉnh. “Thầy còn nhớ có dạo sáng nào thầy cũng che tay lên bông mẫu đơn không ạ?”
“Ờ.”
“Không hiểu sao cái cành hoa đó đang bắt đầu hé nụ.”
“Vậy hả...”
“Thầy nói vậy hả là sao? Mà rốt cuộc thầy đã làm gì với cành hoa đó?”
“Không có gì đặc biệt. Ta chỉ thầm mong sao cành hoa đó sẽ nở ra những đóa mẫu đơn đẹp đẽ nhất ở Tây Minh Tự này...”
Không Hải vừa nói đến đấy thì bên ngoài nhác có bóng người.
“Không Hải...” Có tiếng gọi ngoài cửa. Giọng của Chí Minh.
“Tôi đây.” Không Hải thưa.
“Tôi vào được chứ?” Lần này là giọng Đàm Thắng.
“Xin mời.” Không Hải đáp.
Cửa mở ra, đầu tiên là Chí Minh xuất hiện. Còn Đàm Thắng đứng ngay bên cạnh Chí Minh. Tay trái Đàm Thắng cầm đĩa đèn. Có một ngọn lửa đỏ cháy leo lét.
“Các thầy tìm tôi có việc gì?” Không Hải hỏi.
“Cậu có rảnh một chút không?” Đàm Thắng hỏi.
“Để làm gì ạ?”
“Hiện có một vị khách đang ở chơi Tây Minh Tự. Bọn tôi muốn cậu gặp vị khách này.”
“Vị khách như thế nào ạ?”
“Một nhà sư mà bọn tôi quen, tên là Phụng Minh.
“Sư Phụng Minh!?”
“Phụng Minh bên Thanh Long Tự...” Đàm Thắng nói.
“Chẳng phải cậu vẫn muốn sang Thanh Long Tự đó sao?” Chí Minh nãy giờ im lặng bỗng lên tiếng.
Không Hải thoáng im lặng, đoạn gật đầu đồng ý: “Vậy xin vâng lời các thầy.”
“Phụng Minh tỏ ra rất quan tâm lúc bọn tôi kể về cậu. Phụng Minh bảo muốn được gặp cậu một lần nên bọn tôi mới tới đây kêu cậu.”
Đàm Thắng nói đến đấy thì Không Hải đã kịp đứng dậy.
“Tôi dẫn theo Dật Thế và Đại Hầu được chứ ạ?”
“Tất nhiên rồi.” Chí Minh nói.
“Việc tối nay như thế là tạm xong, chúng ta đi cả chứ?” Không Hải hỏi.
“Dạ vâng.” Đại Hầu đáp, rồi nhỏm dậy, vóc ngưòi lừng lững.
“Nếu vậy thì đi thôi.” Dật Thế đứng dậy theo.
Ba người được Chí Minh và Đàm Thắng dẫn đến gặp Phụng Minh.
❖ 2 ❖Đàm Thắng cầm đèn đi trước, Chí Minh, Không Hải, Đại Hầu, Dật Thế lần lượt theo sau. Họ xuyên qua một hành lang dài và rẽ trái mấy lần. Hành lang tối hun hút.
Người đi đầu là Đàm Thắng dừng lại trước một cánh cửa nhỏ.
“Phụng Minh, bọn tôi đưa Không Hải tới rồi đây.” Đàm Thắng cất tiếng.
Đàm Thắng cứ thế đẩy cửa, rồi đi vào trong phòng. Chí Minh, Không Hải, Dật Thế, Đại Hầu cũng lần lượt bước vào.
Đó là một căn phòng chỉ rộng tương đương với chỗ ở của Không Hải. Sàn lát bằng gỗ. Ngoài cửa sổ ở cuối phòng thì hầu như chẳng có gì khác. Chẳng có cả án thư lẫn chăn màn.
Đây có vẻ là loại phòng dành cho khách phương xa, giống như Không Hải. Tuy nhiên, vì hiện nay chưa có ai dùng đến nên nó được dành cho những người thỉnh thoảng tới chới Tây Minh Tự nghỉ lại qua đêm.
Trong góc phòng có một đĩa đèn làm bằng sắt. Trên đó leo lét một ngọn lửa đỏ. Dưới ánh đèn mờ tỏ ấy, một vị sư đang ngồi trên sàn.
Kiết già phu tọa...
Tuổi có lẽ lớn hơn Không Hải một chút, đâu vào khoảng ba lăm, ba sáu.
Khi nhìn thấy Phụng Minh, Không Hải thoáng chút sững sờ.
Dật Thế hình như cũng ngay lập tức nhận ra điều giống với Không Hải.
“Không... Không Hải, nhìn kìa!” Dật Thế lạc cả giọng.
Không Hải im lặng gật đầu với Dật Thế.
Thân thể của vị sư Phụng Minh đó đang lơ lửng trên không trung, cách mặt sàn chừng năm tấc*.
Một tấc xấp xỉ 3cm.
“Phụng Minh...”
Có tiếng Chí Minh gọi, thân thể của Phụng Minh liền thoắt hạ xuống sàn, trở về tư thế kiết già thông thường.
Phụng Minh mở mắt, để lộ ra đôi cơn ngươi đen long lanh. Đôi mắt đó nhìn Không Hải.
“Tôi là Không Hải.” Không Hải xưng tên ngắn gọn. “Tôi là lưu học tăng tới từ Oa quốc. Hiện tôi đang nương nhờ Tây Minh Tự.”
Liền sau Không Hải, hai người kia cũng tự giới thiệu.
“Tôi là Quất Dật Thế.”
“Còn tớ thì được gọi là Đại Hầu.”
“Tôi là Phụng Minh.” Vị sư đó nói.
“Nghe nói thầy từ Thanh Long Tự sang phải không?”
Nghe Không Hải hỏi vậy, Phụng Minh gật đầu, rồi sau đó lại khẽ lắc đầu.
“Đúng là hôm nay tôi sang đây từ Thanh Long Tự, nhưng nói đúng ra thì hơi khác.”
“Hơi khác như thế nào?” Không Hải hỏi.
“Kỳ thực thì tôi cũng như thầy.”
“...”
“Tôi cũng là một lưu học tăng sang đây để học Mật.”
“Thầy từ đâu tới?” Không Hải hỏi.
Phụng Minh khẽ đưa mắt về phía Không Hải, nói: “Từ Tây Tạng...”
❖ 3 ❖Đoàn Khiển Đường sứ do Đằng Nguyên Cát Dã Ma Lữ làm sứ thần nhập thành Trường An vào tháng Mười hai, năm Diên Lịch thứ hai mươi ba (tức năm 804 theo Tây lịch). Như đã nói đến ở trước, nhập thành Trường An vào tháng Mười hai cùng năm không chỉ có sứ thần của Nhật Bản. Ngoài Nhật Bản còn có sứ thần của hai nước nữa.
Trong Cựu Đường thư có viết: Tháng Mười hai, Thổ Phồn, Nam Chiếu, Nhật Bản cùng cử sứ sang triều cống.
Thổ Phồn chính là Tây Tạng vậy.
Còn Nam Chiếu là một nước mới nổi lên ở vùng Vân Nam, của những tộc người nói tiếng Tây Tạng, Miến Điện.
Không Hải có biết việc sứ thần Thổ Phồn cùng nhập thành Trường An một dịp với mình.
Vương quốc Thổ Phồn do vua Songtsen Gampo khai sinh vào nửa trước thế kỷ thứ Bảy. Tức là khoảng gần hai trăm năm trước khi Không Hải nhập Đường. Sau khi sáp nhập Thổ Dục Hồn lúc đó đang đứng trước nguy cơ diệt vong dưới sức ép của hai triều đại Tùy, Đường, vào nửa sau thế kỷ thứ Bảy, Thổ Phồn vươn ra chiếm lĩnh cực phía Đông và vành đai phía Nam con đường thông thương từ Đông sang Tây mà ngày nay được gọi là Con đường tơ lụa, rồi nổi lên thành một cường quốc đe dọa cả đế quốc Đại Đường kể từ sau loạn An Lộc Sơn.
Vào thời kỳ Không Hải nhập Đường, Thổ Phồn đã là một nước lớn mà Oa quốc, một đảo quốc ở Đông hải chẳng thể nào sánh nổi.
Phụng Minh, người ngồi trước mặt Không Hải đến từ Vương quốc Thổ Phồn ấy.
“Sứ thần Thổ Phồn tới Trường An vào tháng Mười hai năm ngoái, phải chăng thầy cũng tới đây vào dịp ấy?” Không Hải hỏi.
“Không. Tôi tới Đường từ sáu năm trước để học Mật.” Phụng Minh trả lời.
Nét mặt Phụng Minh cũng giống như Không Hải hay người Oa khác, nhưng nước da thì tối màu hơn so với người Oa. Anh ta gây cho người khác cái ấn tượng như thể là một hòn sắt có hình người.
“Phụng Minh là anh tài bậc nhất ở Thanh Long Tự đó.” Đàm Thắng đứng bên cạnh Không Hải nói xen vào.
“Mọi người nói rằng có lẽ đằng nào thì Phụng Minh cũng sẽ được truyền cho cả hai bộ Mật là Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới.” Chí Minh tiếp ngay lời Đàm Thắng.
“Ồ...” Không Hải thốt lên đầy vẻ thán phục.
Mật giáo khi được truyền vào Đường, tức là Mật giáo hậu kỳ “thuần Mật”, có hai dòng hay nói cách khác là hai hệ thống thường vẫn được gọi là Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới. Nếu trình bày một cách hết sức giản lược thì Mật giáo theo dòng Kim Cương Đỉnh Kinh giảng về nguyên lý tinh thần tức là Kim Cương Giới, còn Mật giáo theo dòng Đại Nhật Kinh giảng về nguyên lý vật lý tức là Thai Tạng Giới.
Mật giáo Kim Cương Giới được một nhà sư Thiên Trúc có tên là Kim Cương Trí* truyền sang, còn Mật giáo Thai Tạng Giới thì được một nhà sư Thiên Trúc khác là Thiện Vô Úy* truyền sang.
Tên tiếng Phạn là Vajrabohdi.
Tên tiếng Phạn là Subhakarasinha.
Người thâu nhận cả hai bộ Mật giáo, vốn là hai dòng phát triển riêng rẽ ở quê hương Thiên Trúc, chính là Huệ Quả. Nhà Đường là nơi mà lần đầu tiên hai dòng Mật giáo hợp lại làm một. Kẻ nào được Huệ Quả truyền cho cả hai dòng Mật thì kẻ ấy sẽ đứng trên tột đỉnh của Mật giáo.
Có lẽ đằng nào thì Phụng Minh cũng sẽ được truyền cho cả hai bộ Mật là Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới.
Nếu những lời ấy của Chí Minh là sự thật thì Phụng Minh này hẳn sở hữu một tài năng vô song, còn trên cả những lời khen ngợi của Đàm Thắng.
“Thế thì giỏi quá.” Không Hải hồn nhiên thốt lên đầy thán phục.
Không đợi được mời, Không Hải liền ngồi ngay xuống đó. Một cách thật tự nhiên, Không Hải và Phụng Minh đang ở trong tư thế đối diện nhau.
“Không Hải, thi thoảng tôi vẫn được nghe Chí Minh và Đàm Thắng kể về thầy.” Phụng Minh nói trong lúc chăm chú nhìn Không Hải bằng đôi mắt long lanh ẩn chứa những tia sáng mạnh mẽ. “Tôi nghe được rằng, cả về thư pháp lẫn văn chương, không ai dám nghĩ thầy là người ngoại quốc. Chí Minh còn bảo rằng, những người giỏi chữ như thầy ở Trường An hiện nay, đếm được không quá số ngón trên một bàn tay...”
“Đâu có chuyện đó. Bữa trước, ở chỗ nọ, tôi được xem khổ thơ của một vị nào đó đang viết dở, nhưng đọc lên mới thật hoàn hảo làm sao. Tôi không nén nổi sự kinh ngạc và càng thấm thía một điều: chỉ có thể là Trường An, kinh đô nhà Đường mới có chuyện một người vô danh mà lại viết ra được áng thơ như thế...” Không Hải nói. “Khi đến Tây Minh Tự, tôi đã được Vĩnh Trung, một nhà sư nước tôi từng nương nhờ ở đây, cho xem mấy bài thơ của một vị có tên là Bạch Lạc Thiên, những bài thơ ấy cũng khiến tôi thật kính phục. Hỏi ra mới hay, vị có tên là Bạch Lạc Thiên ấy cũng chỉ là một lại viên vô danh mà thôi.”
“Kìa, thầy không cần phải khiêm tốn thế. Hồi nãy, tôi đã được thưởng lãm thư pháp và thơ của thầy, tôi cũng nhận thấy thầy quả là một bậc kỳ tài. Thầy có những góc nhìn rất riêng.” Phụng Minh nói, không có vẻ gì là tâng bốc, mà theo kiểu nghĩ gì nói nấy. Như thể nhìn thấy một hòn đá trong vườn thì liền nói ra đúng như những gì mà mình thấy: “Ở kia có hòn đá.”.
“Tôi được biết Phật giáo cũng được truyền sang cả Thổ Phồn và hình như ở nước thầy, Phật giáo được gọi là Choe phải không?” Không Hải hỏi.
“Phải.”
“Nếu nói theo Phật giáo thì Choe có nghĩa là Pháp phải không?”
“Đúng là như vậy.”
“Thầy đã từng đến Kailasa* rồi chứ?”
Tên một ngọn núi ở Tây Tạng, được coi là thánh địa của Phật giáo Tây Tạng, đạo Bon, Hindu giáo, Kỳ Na giáo.
Nghe Không Hải hỏi đến câu đó, lần đầu tiên trên môi Phụng Minh khẽ nở một nụ cười.
“Tôi hiểu rằng thầy vừa hỏi, tôi có phải là tín đồ của đạo Bon không, đúng thế chứ?”
“Đúng.”
“Tôi thật ngạc nhiên vì thầy biết tới cả đạo Bon của Thổ Phồn và tên ngọn núi Kailasa là thánh địa của đạo ấy. Ở nước tôi, Kailasa được gọi là Kangrinboqê. Đúng như thầy hỏi, tôi đã từng đi tới núi Kailasa. Vì cha tôi là một tín đồ của đạo Bon và tôi cũng từng có thời kỳ là tín đồ của đạo Bon. Phần lớn tín đồ Phật giáo ở Thổ Phồn vốn trước đây là tín đồ đạo Bon, hoặc là những người tin theo cả hai.” Phụng Minh nói.
Đạo Bon là tôn giáo đã tồn tại ở Thổ Phồn từ trước khi Phật giáo du nhập vào. Người ta nói gốc gác của nó có mối liên hệ với tôn giáo của Iran. Bắt nguồn từ tôn giáo của bộ tộc dMu thờ thần sự sống (Bla), đạo Bon phát triển lên, sau đó Phật giáo từ Trung Quốc và Ấn Độ tràn vào trên nền tảng đạo Bon, kết hợp với đạo Bon rồi cuối cùng phát triển thành Mật giáo Tây Tạng mà thường vẫn được gọi là Lạt Ma giáo, tuy nhiên đó lại là một câu chuyện khác không có liên quan gì ở đây.
“Thế còn thầy...” Phụng Minh hỏi ngược lại Không Hải. “Thầy tới Trường An để học Mật phải không?”
“Phải.” Không Hải trả lời.
“Nếu vậy sao thầy không tới Thanh Long Tự ngay?”
“Vì tôi còn có nhiều việc phải làm trước khi tới Thanh Long Tự.”
Một cách tự nhiên, câu chuyện đã trở thành cuộc đối đáp giữa Không Hải và Phụng Minh.
“Chẳng hạn như việc gì?”
“Tiếng Phạn.” Không Hải đáp.
“Ra vậy.”
Có vẻ Phụng Minh ngay lập tức hiểu ý Không Hải khi nhắc đến tiếng Phạn.
“Nhưng tiếng Phạn thì học ở Thanh Long Tự cũng được chứ sao.”
“Ngoài ra còn có những thứ khác mà tôi muốn học.”
“Là những thứ gì?”
“Chẳng hạn như cách làm bút. Hay cách làm giấy. Hay cách chặn dòng sông. Hay cách làm thế nào để bắc cầu qua sông sâu. Hay cách tổ chức của kinh đô nhà Đường.”
“Hóa ra là như vậy.”
“Mật đối với tôi nghĩa là cái bao gồm tất cả những thứ ấy.”
“Nói cách khác, đối với thầy thì đó chính là Mật nhất thừa*?”
Tiếng Phạn là Ekayana, nghĩa là cỗ xe duy nhất đưa chúng sinh đến giác ngộ.
“Phải.” Không Hải đáp.
“Vậy sẵn đây tôi xin được hỏi thầy về chuyện đó.” Phụng Minh dứt khoát gật đầu, rồi hỏi Không Hải: “Thầy đã đọc Lý thú kinh rồi phải không?”
“Phải.”
“Vậy câu đầu tiên trong Thanh Tịnh Cú là gì?”
“Diệu Thích.” Không Hải đáp.
Lý thú kinh mà Phụng Minh nhắc tới là một trong những kinh điển viết về tư tưởng căn bản và quan trọng nhất của Mật giáo. Kinh điển này nói rằng, tình yêu, sắc dục giữa nam và nữ chính là cảnh giới thanh tịnh của Bồ Tát.
Không Hải đã được đọc bài kinh ấy ở Nhật Bản. Cậu đã nếm trải sự choáng váng khi lần đầu tiên đọc đến. Lúc ấy, Không Hải đã trải qua cảm xúc như thể trời và đất giao hòa với nhau.
Cậu gật đầu vỡ lẽ. Một cảm xúc như thể trời vừa quang mây.
Bài kinh ấy khẳng định rằng, dục vọng và đói khát nơi con người-cái tôi, hay nói rộng hơn là tất cả những gì gắn liền với con người đều là tốt. Rằng mọi dục vọng tự nhiên nơi thể xác và tâm hồn của con người đều là “cảnh giới trong sạch của Bồ Tát”.
Thứ nằm bên trong xác thịt Không Hải đâu chỉ có tài năng. Bên trong xác thịt ấy còn có những dục vọng mạnh gấp bội người thường và hơn cả chính tài năng ấy.
Đã từng có không ít đêm Không Hải ngủ trên núi mà phải nghiến răng vì thèm muốn xác thịt đàn bà. Sự mãnh liệt của những dục vọng đen tối ấy, trong khoảnh khắc lần đầu tiên được đọc những câu kinh kia, đã biến thành một cái gì đó sáng lòa với nguyên sức mạnh của nó.
Như thể con người-cái tôi đã hóa thân y chang vào trong đó vậy.
Diệu thích thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Đó là câu thanh tịnh cú thứ nhất. Dịch ra có nghĩa là: Câu trong sạch diệu thích, chính là ngôi vị của Bồ Tát vậy.
“Diệu thích” trong tiếng Phạn là Surata. Surata tức là cảm giác sung sướng, hay khoái cảm sinh ra khi trai và gái giao hoan. Hay nói cách khác, cảm xúc tuyệt diệu khi trai gái giao hoan chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát vậy.
Phần thanh tịnh cú này có cả thảy mười bảy câu, nên được gọi là thập thất thanh tịnh cú.
Chẩng hạn trong đó có một câu giảng rằng “Dục tiễn” cũng là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát. “Dục tiễn” ý là mũi tên của dục vọng. Khi trai nhìn thấy gái, hoặc gái nhìn thấy trai, thì mũi tên dục vọng bay xuyên qua tim cũng chính là một cảnh giới trong sạch của Bồ Tát vậy.
Lại nữa, kinh cũng giảng rằng “Ái phược” là một cánh giới trong sạch của Bồ Tát. “Ái phược” tức là mong muốn độc chiếm đối phương, hay nói cách khác là việc trói buộc đối phương và bán thân bằng ái tình.
Trong thực tế thì đó là cảnh tượng mà trai gái trần truồng ôm ấp nhau, tứ chi quấn quýt lấy nhục thể của nhau. Điều này cũng được Lý thú kinh cho là một cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Diệu thích thanh tịnh cứ thị Bồ Tát vị
Dục tiễn thanh tịnh cứ thị Bồ Tát vị
Xúc thanh tinh cứ thị Bồ Tát vị
Ái phược thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Nhất thiết tự tại chủ thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Kiến thanh thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Thích duyệt thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Ái thanh thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Mạn thanh thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Trang nghiêm thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Ý từ trạch thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Quang minh thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Thân lạc thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Sắc thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Thanh thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Hương thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Vị thanh tịnh cú thị Bồ Tát vị
Hà dĩ cố nhất thiết Pháp tự tính thanh tịnh
Cố Bát nhã Ba la mật đa thanh tịnh.
Dịch nghĩa:
Cảm xúc tuyệt diệu (khởi sinh khi trai gái giao hoan) chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Mũi tên dục vọng (bay qua) chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Chạm (vào thân thể nhau) chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Trói buộc và bị trói buộc bởi ái tình chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Được làm chủ sự tự tại trong mọi việc chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Nhìn (bằng đôi mắt yêu đương) chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Niềm sung sướng vô bờ bến chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Ấp ủ tình yêu chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Lòng dạ xao xuyến chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Tô điểm bản thân chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Được thỏa lòng chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Tâm trí bừng sáng (vì được thỏa lòng) chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Thân được vui sướng chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Dáng (của người yêu trong mắt) chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Giọng (của người yêu trong tai) chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Hương (của người yêu nơi đầu mũi) chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Vị (của người yêu nơi đầu lưỡi) chính là cảnh giới trong sạch của Bồ Tát.
Vì rằng tất cả các Pháp này tự tính thảy đều trong sạch, nên mới nói huệ đáo bỉ ngạn là trong sạch vậy.
❖ ❖ ❖
Đây là phần thập thất thanh tịnh cú, tức mười bảy câu trong sạch, ở trong Lý thú kinh .
Nghe Không Hải đáp rằng: “Diệu thích”, Phụng Minh bèn nhìn thẳng Không Hải mà hỏi: “Vậy thầy đã từng nếm qua diệu thích chưa?”
“Rồi.” Không Hải trả lời không chút đắn đo.
“Nó thế nào?”
“Về diệu thích?”
“Phải.”
“Nó rất được.” Lần này Không Hải cũng vẫn trả lời không chút phân vân.
“Tôi hiểu...” Hình như Phụng Minh vừa thoáng nở một nụ cười mỉm.
Chí Minh và Đàm Thắng đang định mở miệng nói điều gì đó, nhưng rồi lại thôi.
Người tu hành có giới luật.
Nữ phạm, tức là hành vi mà người tu hành phá giới bất dâm và có quan hệ với đàn bà, sẽ phải chịu tội to.
Người tu hành ngoài việc quan hệ với đàn bà, còn bị cấm uống rượu, ăn thịt bởi giới luật, tuy nhiên vẫn có không ít người phá giới. Và tất nhiên, Tây Minh Tự dưới triều đại nhà Đường cũng không thuộc vào ngoại lệ.
Tuy không phải ngoại lệ, song nếu bị ai đó hỏi rằng đã từng ngủ với đàn bà chưa, thì cũng khó mà trả lời một cách tỉnh bơ rằng đã từng.
Vì vậy, câu hỏi “Có biết diệu thích không?” cũng đồng nghĩa với câu hỏi “Đã từng ngủ với đàn bà chưa?”
Không Hải đã thẳng thắn trả lời là có khi bị Phụng Minh hỏi. Không những thế, khi bị hỏi tiếp là mùi vị đàn bà thế nào, Không Hải đã trả lời, mà nếu nói theo cách suồng sã thì là: “Rất ngon.”
Dù có che đậy bằng lớp vỏ ngôn từ như thế nào đi chăng nữa thì nội dung câu chuyện rốt cuộc vẫn vậy.
Chính vì thế mà Chí Minh và Đàm Thắng đã kinh ngạc tới mức suýt chút nữa thì kêu lên.
Chuyện quan hệ với đàn bà nếu là trước khi đi tu thì không nói làm gì, nhưng nếu là sau khi đã trở thành tăng môn thì, vì một khi đã chính tai mình nghe thấy, Chí Minh và Đàm Thắng buộc lòng phải thi hành một hình phạt nào đó đối với Không Hải.
Tuy nhiên, Phụng Minh đã không hỏi tiếp rằng, “Thầy biết diệu thích trước hay sau khi đi tu?”, khiến không ai khác mà chính Chí Minh và Đàm Thắng thở phào nhẹ nhõm. Giả sử Không Hải bị hỏi như vậy và đúng là cậu đã nếm trải diệu thích sau khi trở thành sư, thì chắc chắn cậu vẫn sẽ không đắn đo mà trả lời là sau khi đi tu.
Dẫu cho Lý thú kinh viết gì đi chăng nữa thì đó rốt cuộc cũng chỉ là một trong vô số các kinh điển Phật giáo mà thôi. Lý thú kinh là Lý thú kinh , mà giới luật là giới luật.
Khác với tâm trạng như vậy của Chí Minh và Đàm Thắng, lúc này còn có hai người nữa đang chưa thể theo kịp câu chuyện. Đó là Quất Dật Thế và Đại Hầu.
Cả hai đều đại khái nắm được câu chuyện đang xoay quanh chủ đề trai gái, nhưng xem ra không hiểu hết các chi tiết. Mặc dầu vậy, song có vẻ Dật Thế cũng nhận ra rằng Không Hải không hề bị lép vế trước vị sư tới từ Thổ Phồn.
Sau đó câu chuyện chuyển sang đề tài về Nhật Bản và Thổ Phồn một hồi lâu.
“Tôi từng tu hành ở Đại Chiêu Tự, một tăng viện của Thổ Phồn, tuy nhiên từ trước đó tôi đã rất hứng thú với Mật giáo, nên mới tới Trường An để học Mật.” Phụng Minh nói.
“Nhân tiện xin cho hỏi, thầy Phụng Minh sang Tây Minh Tự này là có việc gì?” Không Hải hỏi.
“Sáng ngày mai tôi phải có việc sang bên Thái Bình Phường...”
Nói đoạn, Phụng Minh dừng lời như để dò xét Không Hải.
“Vâng.”
“Tuy nhiên đi từ Tân Xương Phường nơi có Thanh Long Tự thì khí mất thời gian nên tôi mới sang Tây Minh Tự để nghỉ lại trước một đêm.”
Diên Khang Phường nơi có Tây Minh Tự cách Thái Bình Phường chừng một phường rưỡi. Có thể coi là gần như sát nách nếu so với việc phải đi từ Tân Xương Phường nằm ở mép Đông thành Trường An.
“Thầy đến đâu của Thái Bình Phường?”
“Nhà của Lữ Gia Tường.”
“Ồ...”
“Tôi chắc là thầy cũng biết, hiện nay có một người tên là Lưu Vân Tiêu đang ở trong nhà của Lữ Gia Tường.”
“Rồi sau đó?”
Không Hải không trả lời là biết hay không.
Có tiếng Dật Thế nuốt nước bọt đánh ực.
“Sau đó có vẻ sẽ rất thú vị đấy.” Phụng Minh nói rồi nhìn Không Hải.
“Ngày mai, nếu tôi mời thầy đi cùng, thầy có đi không?”
Phụng Minh bất ngờ hỏi.
Dặt Thế nhìn sang Không Hải với ánh mắt như muốn nói: Thôi nào...
“Chắc chắn.” Không Hải đáp.
“Vây ta sẽ khởi hành vào cuối giờ Thìn sang Tị*.”
Tức khoảng 9 giờ sáng.
“Được.”
Đoạn trao đổi giữa Không Hải và Phụng Minh về vụ việc của Lưu Vân Tiêu chỉ có vậy.
Sau đó hai người lại nói chuyện về Thổ Phồn một lúc.
Cuối cùng, Không Hải kết thúc câu chuyện: “Vậy thôi, cũng đã muộn rồi.”
Không Hải chuẩn bị đứng dậy thì Phụng Minh cất tiếng: “Xin hãy chờ chút đã.”
“Trên mặt thầy có tượng gì đó như sắp xảy ra rất nhiều chuyện nguy hiểm cho thầy...”
“Vậy sao?” Không Hải nhìn Phụng Minh với vẻ mặt tỉnh bơ.
“Tôi xin tặng món này sẽ có ích cho thầy.”
Phụng Minh nói rồi nhắm mắt và bắt đầu lầm rầm niệm chú.
“Om vajra ratna hum...”
Vừa niệm, Phụng Minh vừa nâng hai bàn tay đang xòe ra vè phía trước, rồi từ từ chắp lại trước ngực.
“Namo akasa-garbhaya om alika mali mull svaha.”
Khi niệm xong thì hai bàn tay Phụng Minh đa chắp vào nhau.
Phụng Minh mở mắt.
“Chân ngôn Hư Không Tạng Bồ Tát?” Không Hải cất tiếng.
“Đúng vậy.” Vừa nói, Phụng Minh vừa chậm rãi mở hai bàn tay ra.
“Nhìn kìa...” Dật Thế khẽ gọi.
Giữa hai bàn tay xòe ra của Phụng Minh có một viên ngọc đang tỏa ra ánh hoàng kim nhạt.
“Tôn ngọc ư?” Không Hải chăm chú nhìn viên ngọc lấp lánh.
“Đây là tôn ngọc của Hư Không Tạng Bồ Tát.” Phụng Minh nói. “Xin tặng thầy viên ngọc này. Có nó, thì đêm nay thầy dẫu có ngủ say đến đâu cũng không loài ma quỷ nào dám đến gần thầy...”
“Tạ ơn thầy.” Không Hải đưa hai tay ra, đỡ lấy viên ngọc đang tỏa ánh hoàng kim nhạt từ tay Phụng Minh.
Khum các đầu ngón tay lại như để bao bọc lấy viên ngọc, Không Hải đưa lên áp vào trán. Viên ngọc tỏa ánh hoàng kim nhạt bỗng chui tọt vào bên trong trán Không Hải.
“Vậy thì tôi cũng xin đáp lễ thầy bằng một món gì đó.” Không Hải nói rồi nhắm mắt lại.
Câu thần chú lầm rầm phát ra từ môi Không Hải.
“Namah sarvatathagatebhyah sarvamukhebhyah sarvatha trat candamaharosana kham khahi khahi sarvavighanam hum trat ham mam...”
Đó là Hỏa Giới Chú nằm trong chú Bất Động Minh Vương.
Trong lúc niệm chân ngôn, Không Hải xòe lòng bàn tay trái, đưa cao ngang ngực rồi ngửa lên trời, sau đó úp lòng bàn tay phải lên trên. Vừa tiếp tục niệm, Không Hải vừa chậm rãi nhấc bàn tay phải lên khỏi lòng bàn tay trái.
“Không Hải...” Dật Thế ngồi bên cạnh khẽ kêu lên.
Cùng với đà đưa lên của bàn tay phải, giữa lòng bàn tay phải và lòng bàn tay trái dần hiện ra một vật. Một cọng cây mảnh màu hoàng kim mọc ra từ lòng bàn tay trái, rồi lớn dần theo đà đưa lên của bàn tay phải. Khi lòng bàn tay phải của Không Hải rời hẳn ra khỏi lòng bàn tay trái thì vật ấy đã mọc lên rõ ràng. Một bông hoa màu hoàng kim nhạt nở ra trên đầu cọng thân mảnh màu hoàng kim. Không những thế, bông hoa đó còn mang hình ngọn lửa và đang rung rinh trên đầu cọng.
“Đây là hoa cát tường của Bất Động Minh Vương.” Không Hải nói. “Xin tặng lại thầy bông hoa này.”
“Xin nhận của thầy.” Phụng Minh nói, rồi đưa hai tay ra.
Bông hoa cát tường trên lòng bàn tay trái của Không Hải chuyển sang tay Phụng Minh. Phụng Minh áp bông hoa có màu hoàng kim nhạt vào cổ họng mình. Bông hoa liền chui tọt vào trong họng Phụng Minh.
Không Hải và Phụng Minh đưa mắt nhìn nhau.
“Vậy thôi...”
“Vậy thôi...”
Cả hai cùng đồng thời cất tiếng, rồi Không Hải thết yên đứng dậy.
“Giỏi thật...” Từ nãy tới giờ vẫn ngồi khoanh tay theo dõi cuộc thù tạc giữa hai người, Đại Hầu chỉ lẩm bẩm thốt ra được như thế rồi đứng dậy.
Còn Dật Thế thì đã đứng lên từ bao giờ.
“Xin cáo từ.” Không Hải nói xong liền bỏ lại căn phòng sau lưng.
Một ngày dài đối với cả Không Hầi lẫn Dật Thế đã khép lại như vậy.
❖ 4 ❖Mặc dù đã về đến phòng nhưng Dật Thế còn chưa hết hưng phấn, hai mắt vẫn sáng lấp lánh.
“Ui chà chà, tớ sướng quá Không Hải ơi!”
“Sướng gì cơ?” Không Hải hỏi.
“Thì về việc cậu không hề kém cạnh cái gã Phụng Minh người Thổ Phồn ấy.”
“Kém cạnh?”
“Chứ sao. Lúc sang bên đó, thấy hắn ta lơ lửng trong không trung, tớ lạnh toát hết cả người.”
“Tưởng gì chứ chuyện đó hả?”
“‘Tưởng gì chứ chuyện đó hả’, cậu đùa chắc, một người bằng xương bằng thịt ngồi lơ lủng trong không trung đấy. Chẳng phải một việc phi thường sao...”
“Ừ thì phi thường thật, nhưng sao nào?”
“Nhưng sao nào, ý cậu bảo việc đó chẳng có gì ghê gớm chứ gì?”
“Tớ không nói thế.”
“Nhưng cái kiểu nói của cậu thì rõ là vậy. Nếu không nghĩ rằng mình cũng làm được điều đó thì cậu đã không nói cái kiểu ấy.”
“Cũng không phải là tớ không làm được...”
“Cậu bảo sao!?” Dật Thế kêu lên thảng thốt trước giọng điệu ráo hoảnh của Không Hải.
“Thật hả Không Hải? Cậu làm được hả? Ôi trời...” Giọng Dật Thế cao vống lên.
“Tớ chỉ nói rằng, không phải là tớ không làm được thôi mà.”
“Nhưng tóm lại là cậu làm được phải không?”
“Tớ làm đưọc.”
“Tớ yên tâm rồi.” Dật Thế nói.
“Yên tâm cái gì?”
“Vì nếu có gì gã Phụng Minh đó làm được mà cậu lại không làm được thì tớ sẽ cảm thấy không cam lòng chứ sao...”
“Tại sao lại không cam lòng?”
“Vì tớ yêu quý cậu, Không Hải à. Nếu cậu lép vế trước gã đó thì chính là Nhật Bản bị lép vế.”
“Nhật Bản cơ à...” Không Hải lẩm nhẩm với chính mình như thể vừa nghe thấy một câu nói không ngờ tới bật ra từ miệng Dật Thế.
Không Hải nhìn Dật Thế với ánh mắt như muốn nói “không ngờ những lời lẽ ấy lại được thốt ra từ miệng Dật Thế” khi Dật Thế bảo rằng “Nhật Bản chỉ là một xó nhà quê nhỏ bé nếu đem so với Đại Đường”.
“Không Hải này, tớ tự biết rất rõ tính cách của mình. Chỉ chực so sánh người này vói người kia. Luôn có xu hướng so mình với người khác, từ đó mà phân cao thấp...” Dật Thế thành thật giãi bày.
“Đúng là ở cậu có cái tính cách đó.”
“Không Hải à, thú thật là hồi còn ở Nhật Bản, tớ cứ nghĩ tớ là thiên tài. Quan lại chỉ toàn một lũ phàm phu tục tử, chẳng ai ở cái xứ này đánh giá đúng tài năng của tớ. Tớ từng nghĩ rằng, Trường An là nơi anh tài bốn phương hội tụ, nên nếu sang đó thì biết đâu sẽ có kẻ thật sự hiểu được tài năng của mình...”
“Ừm.”
“Tớ đã nghĩ rằng mình sẽ ra vào vương cung nhà Đường như đi chợ, giao hảo với những người tài ấy, châm rượu cho nhau, đàm đạo những chuyện cao sang, rồi được tán dương rằng, nói đến Oa quốc thì phải nói đến Quất Dật Thế. Ây dà, tớ đã nghĩ rằng mọi chuyện sẽ như thế...”
Dật Thế quay sang nhìn Không Hải.
“Nhưng Không Hải ơi, khi tớ gặp cậu, rồi tới Trường An này, tớ mới thấm thía một điều. Dù tớ có được gọi là thiên tài này nọ đi chăng nữa, thì cũng chỉ ở trong ranh giới nước Nhật mà thôi.”
Dật Thế nói bằng một giọng ngậm ngùi.
“Thật may là tớ có cậu làm bạn. Nếu không có cậu thì ở Trường An này, hẳn là tớ đã trở nên một kẻ rúm ró mất rồi.”
“Hừm.”
“Không Hải ạ, tớ kém xa cậu. Nhưng thật lạ lùng là tớ lại không cảm thấy ấm ức khi mình kém xa cậu.”
“Tớ nghĩ rằng, vì cậu thật sự phi thường.” Dật Thế nói tiếp bằng một giọng vẫn còn dư âm của sự hưng phấn.
Trường An, kinh đô nhà Đường lúc này chỉ thu gọn trong một căn phòng ở Tây Minh Tự, Dật Thế ngắm nhìn ánh lửa trên đĩa đèn dầu đang cháy trong căn phòng đó.
“Tớ thấy nhớ da diết cái nước Oa nhỏ bé ấy...” Dật Thế nói.
Và rồi, ánh lửa sau chót của một ngày dài được thổi tắt.