Chương XV Chú dõng
1
Trong nắng xuân, một đám đàn ông đang đào đất bằng cuốc ở giữa cánh đồng rộng lớn của Từ Văn Cường. Đó là mấy người tá điền ở chỗ Từ Văn Cường, và Đại Hầu. Khoảng chừng năm người.
Đã gần nửa ngày trôi qua từ lúc bắt đầu đào.
Cái hố đã sâu quá đầu người. Khi đứng dưới đáy hố thì ngay cả Đại Hầu với thân hình to lớn cũng không thể với tay chạm đến mép hố được.
Lúc bắt đầu đào, họ đào theo hướng thẳng đứng từ trên xuống, nhưng hố càng sâu thì việc đưa đất lên càng mất công.
Thấy thế, Không Hải ra lệnh: “Ta không đào thẳng từ trên xuống nữa, hãy đào vát đi để tạo thành đường dốc...”
Không Hải xác định độ rộng lòng hố và góc đào, phân bố nhân lực đào đất và nhân lực vận chuyển đất lên trên, yêu cầu họ đổi phiên cho nhau để có thể duy trì công việc.
Sau khi được Không Hải chỉ dẫn, tiến độ công việc đã nhanh hơn gấp đôi.
Quan sát điều đó, Dật Thế bảo: “Không Hải à, cậu thật là một kẻ kỳ tài.”
Những chỉ dẫn của Không Hải vô cùng chuẩn xác, ngay cả những người đứng xem cũng nhận thấy năng suất đào hố đã được cải thiện rõ rệt.
Sau này khi về nước, Không Hải đã tham gia vào rất nhiều công trình xây dựng Ở Nhật Bản. Ngay tại Sanuki quê nhà, Không Hải đã thành công trong việc đắp đê bao cho hồ chứa Manno(*), một công trình khó tới mức mà các chuyên gia thời ấy đã phải bỏ cuộc. Chu vi hồ chứa ban đầu vào khoảng bốn dặm(**). Diện tích vào khoảng tám mươi mốt đinh bộ(***). Lòng hồ trải rộng trên ba thôn(****) là Shichikamura, Kannoson và Yoshinomura, nguồn nước tưới tiêu của mấy trăm làng trong khu vực đều phải dựa vào hồ chứa này. Năm nào mưa lớn cũng gây vỡ đê, không chỉ khiến nhà cửa, ruộng đồng ngập úng, mà còn làm chết bò, ngựa và người. Rồi thì mất mùa, dịch bệnh hoành hành.
(*) Hồ nhân tạo xây dựng lần đầu tiên vào khoảng đầu những năm 700, là công trình thủy lợi lớn nhất Nhật Bản thời bấy giờ.
(**) Không rõ đơn vị dặm mà tác giả nói đến ở đây nếu tính theo hệ mét thì dài bao nhiêu. Trong Tập 1 tác giả có giải thích đơn vị chiều dài “dặm” sử dụng ở Nhật Bản thời kỳ Hei’an tương đương 700m, như vậy 4 dặm chỉ tương đương 2,8km. Tuy nhiên, theo các số liệu người dịch tìm thấy trên Internet thì chu vi hồ chứa Manno lúc bấy giờ được cho là khoảng 10km.
(***) Tiếng Nhật: 町 歩 , là đơn vị diện tích cũ sử dụng tại Nhật Bản. 81 đinh bộ tương đương 81ha.
(****) Đơn vị hành chính “thôn” của Nhật Bản lớn hơn làng của Việt Nam, thôn bao gồm nhiều làng.
Các chức dịch và chuyên gia đã tốn mất một năm cho công trình đó, nhưng rốt đành bỏ cuộc và phải cậy đến Không Hải.
Vậy mà Không Hải đã hoàn thành công trình đó chỉ trong hơn một tháng(*). Xây dựng là một dạng thao tác lập luận lôgíc. Huy động hiệu quả sức người, sức ngựa để tạo nên những công trình hợp lý, với một quy trình và phương pháp hợp lý. Và dường như, đầu óc Không Hải rất hợp với công việc tư duy lôgíc như thế.
(*) Có thuyết nói Không Hải mất 3 tháng để hoàn thành công trình này.
Nói thêm nữa thì Không Hải rất giỏi thuật đắc nhân tâm và khéo biết cách dẫn dụ người khác.
“Dạo này tôi toàn bị bắt phải đào hố thôi thầy Không Hải ạ.”
Đại Hầu vừa đào đất vừa nói với lên từ dưới hố.
Đại Hầu có vẻ thật sự vui khi được làm việc dưới sự chứng kiến của Không Hải. Bùn bám đầy trên làn da trần của Đại Hầu, trộn với mồ hôi chảy thành dòng.
Trên miệng hố đã đặt sẵn một chiếc chum đổ đầy nước lạnh để mọi người có thể lấy gáo uống bất cứ lúc nào.
Không chỉ Không Hải và Dật Thế, ngay cả Liễu Tông Nguyên, Bạch Lạc Thiên, Trương Ngạn Cao, Từ Văn Cường cũng không chịu ngồi xuống ghế được kê dưới bóng liễu ngay gần đó, mà cứ đứng quanh miệng hố để nhòm xuống dưới. Có lẽ họ muốn tận mắt chứng kiến cái giây phút mà thứ gì đó sẽ hiện ra từ dưới hố.
Chỗ thấp nhất trong lòng hố đã sâu hơn chín thước(*).
(*) Một thước thời Đường tương đương 30-36cm. Một thước Nhật cũng vào khoảng 30cm.
“Vẫn đào tiếp hả thầy Không Hải?” Đại Hầu hỏi.
“Cứ đào tiếp cho đến khi có cái gì đó lộ ra.”
Không cần đợi sự xác nhận của Không Hải, đôi bàn tay Đại Hầu vẫn đang chuyển động.
Mùi hăng của đất xộc lên từ dưới hố.
“Không Hải à, rốt cuộc thì có thứ gì được chôn ở dưới này?” Dật Thế hỏi.
“Tớ chịu.” Không Hải trả lời, mắt vẫn nhìn xuống dưới hố.
Đúng lúc đó...
Có tiếng kim loại va vào một vật cứng.
“Có cái gì này!” Đại Hầu kêu lên trong hố.
Mũi cuốc của Đại Hầu đã chạm phải vật cứng gì đó ở trong đất.
Từ Liễu Tông Nguyên cho đến tất cả đám người đang đứng xung quanh miệng hố liền thò cổ ra để nhòm xuống dưới. Những kẻ đang làm việc dưới hố cũng dừng lại cả.
“Không biết là cái gì nhỉ?” Đại Hầu nói.
Đại Hầu bổ mấy nhát cuốc xuống chỗ đất quanh vật cứng, sau đó để cuốc sang một bên, quỳ xuống và lấy tay không bới đất ra.
“Ôi chà chà...” Đại Hầu kêu lên. “Thầy Không Hải, hóa ra nó là cái đầu người.”
Đại Hầu phủi sạch đất bám trên vật đó rồi đứng dậy và tránh sang bên để những người trên miệng hố có thể nhìn thấy nó.
Quả đúng là một cái đầu người. Nhưng tất nhiên không phải của người thật, mà là đầu người giả.
“Trông không rõ lắm.” Nói đoạn Không Hải đi xuống đáy hố.
Liễu Tông Nguyên, Bạch Lạc Thiên, Quất Dật Thế cũng đi theo. Để chừa chỗ, những người đào hố ngoại trừ Đại Hầu liền ra khỏi hố.
Năm người đứng quây quanh vật đó khiến cho lòng hố vốn khá rộng cũng trở nên chật kín. Đó là một cái đầu người tương đương kích thước thật, chỉ thò ra đến cổ từ trong đất. Không Hải ngồi xuống, sờ tay lên vật đó . Cứng. Nhưng không phải độ cứng của đá.
“Có vẻ như là một tượng dõng bằng đất nung.” Không Hải nói.
Vật đó có râu và ria, tóc búi tó. Khuôn mặt, mắt, mũi, miệng, tai được làm giống thật tới nỗi không ai nghĩ đó là tượng dõng.
“ Phong cách này theo lối thời nào?” Câu hỏi của Không Hải không nhằm vào một người nào cụ thể.
“Không rõ.” Liễu Tông Nguyên nói như thể đại diện cho ý kiến của tất cả mọi người, rồi lắc đầu.
Trương Ngạn Cao là người xuống dưới hố sau cùng, anh ta ngó qua vai Dật Thế rồi kêu lên: “Là... là nó!”
“Kẻ chui lên từ lòng đất đêm ấy rồi biến đi đâu đó đúng là có khuôn mặt giống như thế này.”
Giọng nói của Trương Ngạn Cao run run vì hào hứng và đượm một nỗi bất an vô cớ.
❖ 2 ❖Cho đến xế chiều thì họ đã đào lên được hai tượng dõng từ dưới hố.
Chúng được đặt đứng cạnh mô đất đắp quanh miệng hố. Đó là hai tượng dõng chiến binh ở tư thế đứng. Chúng lớn hơn người thật một cái đầu. Không khác mấy so với Đại Hầu.
Lúc đang đào pho thứ nhất lên thì Đại Hầu phát hiện thêm pho thứ hai: “Ái chà, còn một con như thế nữa được chôn ở đây này.”
Thế rồi, trong lúc mở rộng lòng hố để đưa hai pho đó lên thì lại phát hiện thêm bốn pho nữa.
“Cứ đà này thì đào đến bao giờ mới hết.”
Nghĩ như vậy nên họ quyết định tạm thời chỉ đưa hai pho đầu tiên lên khỏi hố. Hai tượng dõng đang đứng trước mặt mọi người dưới ánh nắng chiều chênh chếch. Cả hai đều mặc giáp chiến. Tất nhiên, không phải giáp thật, mà chỉ là một phần của tượng dõng. Chân dõng đi giày. Một pho đi giày đầu bằng mũi vuông, pho còn lại đi giày ống cao.
Cả hai tượng dõng đều có râu, nhưng đường nét khuôn mặt khác nhau.
Một pho cầm kiếm trên tay phải. Thanh kiếm đó không phải bằng đất nung mà là kiếm thật. Thực tế thì thanh kiếm không nằm trong tay pho tượng dõng chiến binh, mà rơi ở dưới chân. Tuy nhiên, tư thế của bàn tay phải có vẻ như đang nắm chuôi kiếm, giữa ngón cái và các ngón còn lại là một cái lỗ tròn như thể để đút thứ gì đó vào. Chắc hẳn là thanh kiếm rơi dưới chân kia đã từng nằm trong cái lỗ đó.
Pho tượng dõng còn lại cầm trên tay thứ gì đó giống như một cây thương bằng đồng, nhưng trong quá trình đào bới, cây thương bị mủn ra mất, thành thử chỉ lấy lên được mũi thương đồng.
Bên dưới giày là một cái bệ, cả hai đều đứng trên những chiếc bệ này.
“Xem ra đúng là tượng dõng thật.” Không Hải vừa ngắm hai pho tượng dõng vừa nói.
Dõng nghĩa là hình nộm giống như người thật. Hai pho tượng dõng này được làm bằng đất nung.
“Ôi chao, thật là hoàn hảo.” Liễu Tông Nguyên thốt lên đầy thán phục.
Bạch Lạc Thiên không nói lời nào, chỉ cắn môi với vẻ mặt hồ như tức giận.
“Không Hải này, nếu đây là dõng thì có nghĩa là...” Dật Thế nói đến đó thì nín bặt như thể không muốn nhắc đến những từ tiếp theo.
Dõng là hình nộm chôn trong mộ vua, tức một món đồ tùy táng. Nếu làm bằng gỗ thì gọi là mộc dõng, còn làm bằng đất nung thì gọi là đào dõng.
Ban đầu, theo tục lệ tuẫn táng, người sống bị chôn cùng vua trong mộ, nhưng sau này, người ta đổi sang dùng dõng.
Khổng Tử từng có câu:
Thủy tác dõng giả, kỳ vô hậu hồ! Vi kỳ tượng nhân, nhi dụng chi dã (*).
(*) Câu này nằm trong sách Mạnh Tử, phê phán tục dùng người thật để tuẫn táng lẫn tục làm tượng dõng thay cho người thật, nhưng được Mạnh Tử cho là do Khổng Tử nói.
(Kẻ đầu tiên khởi ra việc làm tượng dõng rồi thì cũng chẳng có hậu (tuyệt đường con cháu)! Bởi vì kẻ đó vẫn làm ra thứ giống người để dùng vậy.)
“Nếu xét theo vị trí này thì đây có lẽ là dõng của Tần Thủy hoàng đế.” Không Hải nói.
Sau đó, Không Hải quay lưng lại. Sừng sững ở xa kia là lăng mộ của Tần Thủy hoàng đế. Chiều cao ước đến bốn mươi lăm gian(*) (tám mươi mét), Đông Tây Nam Bắc mỗi chiều dài trên hai trăm gian (ba trăm sáu mươi mét). Đó là một cái gò khổng lồ và khá cao do con người xây nên.
(*) Gian là một đơn vị đo chiều dài dùng trong kiến trúc thời xưa ở Trung Quốc và Nhật Bản.
Vị trí mà Không Hải đang đứng trên ruộng bông nằm về phía Đông và cách lăng mộ Tần Thủy hoàng đế chừng một phẩy tám kilômét.
“Có lẽ vậy.” Liễu Tông Nguyên nói.
“Vấn đề là ở chỗ, Tần Thủy hoàng đế mất năm Thủy Hoàng thứ ba mươi bảy, nên nếu đây là đồ thật...” Dật Thế nói đầy hào hứng.
“Thì có nghĩa là nó đã trải qua hơn một ngàn năm rồi...” Không Hải nói tiếp.
Tần Thủy hoàng đế băng hà ở Bình Đài, Sa Khâu vào năm 210 trước Công nguyên.
Không Hải nhập Đường và đến Trường An vào năm 805.
Nghĩa là, nếu nói một cách chính xác, đã một ngàn lẻ mười bốn năm trôi qua kể từ lúc Tần Thủy hoàng đế qua đời.
Thật không biết nói sao...
Dật Thế dường như không có từ ngữ nào để tả về tầm vóc của dòng chảy thời gian ấy.
“Chắc chắn còn nhiều tượng dõng tương tự khác đang nằm khắp cả một vùng rộng lớn bên dưới cánh đồng này.” Không Hải nói.
“Sao có thể...” Người kêu lên thảm thiết là Từ Văn Cường.
“Thế thì đào sao xuể...” Đại Hầu pha trò nhưng chẳng ai cười.
“Thầy nói có thật không?” Liễu Tông Nguyên hỏi.
“Đúng vậy. Khi nãy tôi đã đi một vòng để xem xét khí đất nơi đây, cảm thấy như có những xác người vừa chết đang được chôn dưới đất này. Hơn nữa, chúng trải ra khắp cả cánh đồng...”
Không Hải rũ rũ người như để phủi sợi tơ nhện vô hình đang bám trên cơ thể.
“Vùng đất này đã bị yểm bởi một phép chú ghê gớm cả về quy mô lẫn sức mạnh. Lẽ dĩ nhiên, điều đó không có gì lạ vì đây là lăng mộ của Tần Thủy hoàng đế. Tuy nhiên...”
Không Hải thở dài, rồi nhìn khắp một lượt cánh đồng bông bát ngát.
Gió thổi làm lá bông non lay động.
Trên bầu trời xanh lơ lửng những đám mây trắng đang sáng lên dưới nắng chiều.
Không thể hình dung nổi...
Sao lại có thứ niệm tưởng phát ra những luồng khí hung hiểm đến vậy được chôn giấu bên dưới bầu trời trong sáng này?
Thật khó để giải thích điều mà Không Hải đang cảm nhận thấy cho những người không thể cảm nhận được nó.
Nhưng dường như ai nấy đều hình dung được những tượng dõng nhiều vô số, xếp trùng trùng điệp điệp dưới lớp đất này.
Không ai phá vỡ sự im lặng của Không Hải.
Một phép chú đã đi xuyên qua bằng ấy chiều dài không-thời gian.
“Thật rộng lớn biết bao...”
Đất đai và con người Đại Đường có vẻ cũng rộng lớn như bầu trời.
Có tiếng răng khẽ va vào nhau. Không Hải nhìn về phía đó thì thấy Bạch Lạc Thiên. Bạch Lạc Thiên đang run lên cầm cập.
Bạch Lạc Thiên dõi ánh mắt vào xa xăm, không hẳn nhìn trời, cũng không hẳn nhìn đất, môi chừng như muốn mím lại. Nhưng những cơn lẩy bẩy có vẻ đã không cho Lạc Thiên làm thế. Vì vậy mới có tiếng răng đập vào nhau.
Ánh mắt Bạch Lạc Thiên đang dõi vào bên trong mình thì đúng hơn là vào hư vô. Dường như có một cơn nhiệt huyết hay một niềm xúc động mãnh liệt nào đó đang kìm giữ thân thể người đàn ông này.
“ Sử ký của Tư Mã Thiên đoạn kể về lăng mộ Tần Thủy hoàng đế có viết: ‘Đào ba con suối, đổ đồng xuống mà đưa quách vào. Của hay vật lạ trong cung quán, của bá quan được chuyển tới cất đầy bên trong(*)’. Đây hẳn là những chiến binh được chôn cùng để bảo vệ cung điện ngầm dưới đất, vốn chính là lăng mộ của Tần Thủy Hoàng. Chúng ta đang tận mắt chứng kiến một phần của cái cung điện ngầm trong truyền thuyết ấy...” Đến giọng nói của Bạch Lạc Thiên cũng đang run lên.
(*) Đoạn này trích trong “Tần Thủy Hoàng bản ký”, Sử ký Tư Mã Thiên theo bản dịch của dịch giả Trần Quang Đức.
Người đàn ông này dường như đang cố chống lại luồng cảm xúc ồ ạt tuôn ra từ bên trong mình bằng cách nói thật nhiều.
Điều mà Tần Thủy hoàng đế muốn làm là xây dựng một cung điện nguy nga dưới lòng đất để sống ở đó sau khi chết. Ông ta muốn xây dưới lòng đất một cung điện giống y như cung điện trên mặt đất. Tương truyền công trình ấy đã được khởi công ngay trong năm Tần Vương Chính(*) tự xưng là Thủy hoàng đế sau khi bình định xong các nước khác.
(*) Tên thật của Tần Thủy Hoàng.
Tần Thủy hoàng đế huy động hơn bảy mươi vạn tội đồ và mất hơn hai mươi năm mà vẫn chưa hoàn thành.
Cung điện dưới lòng đất ấy về sau bị quân của Hạng Vũ tràn vào tấn công, cướp bóc và đốt phá.
Bạch Lạc Thiên đã để lại một bài thơ tựa đề là Thảo mang mang (*) viết về lăng mộ của Tần Thủy Hoàng.
(*) Nghĩa là “cỏ tốt bời bời”.
E Cỏ bời bời
B Cở bời bời, đất xanh xanh
O Xanh xanh, bời bời, ở nơi nao?
O Chân núi Ly Sơn Tần vương mộ
K Suối đã cạn khô, mộ hanh hao
F Thuở ấy đã tưởng rằng sâu, chắc
U Thủy ngân như bể sông cuộn nước
N Chân châu tựa nhật nguyệt trên cao
A Xây riêng trời đất trong chốn ấy
N Hòng đem phú quý mà đi sao?
D Sớm kia, bọn trộm đến đốt phá
F Miếu, quách ba tháng lửa ngút cao
R Thương thay ngọc quý nay phải trả
E Chẳng thể mang đi, còn chuốc họa
E Xa hoa thì tàn, sẻn thì yên
E Hung ấy cát ấy ở nhãn tiền
F Không tin, ngoảnh về Nam mà ngẫm
F Bá Lăng, Văn đế (*) mộ còn nguyên.
(*) Tức Hán Văn đế.
Mặc dầu vậy, Bạch Lạc Thiên chưa từng biết tới sự tồn tại của dõng trước đó.
Cả Liễu Tông Nguyên, Không Hải lẫn Dật Thế đều đã đọc qua Sử ký , nên điều mà Bạch Lạc Thiên nói tới dĩ nhiên đã có sẵn trong đầu họ như một kiến thức cơ bản.
Tuy nhiên, khi thấy người thi nhân nói bằng một giọng run run vì dòng cảm xúc dâng lên ào ạt trong lòng tới độ như muốn cuốn phăng mọi thứ, họ lại càng thêm thấm thía ý nghĩa của cảnh tượng mà mình đang chứng kiến.
“Chính là thứ này...” Trương Ngạn Cao hạ giọng thì thầm, rồi lại cất cao giọng: “Chính là thứ này ạ!”
“Thứ xuất hiện ở ruộng bông vào tháng Tám năm ngoái chính là thứ này.” Vừa nói dứt thì Trương Ngạn Cao lắc đầu. “À không. Tượng dõng này lúc nãy còn nằm ở trong đất nên không phải là nó. Nói đúng hơn thì khi ấy đã có một thứ giống hệt hình nộm này chui ra từ dưới đất.”
Có lẽ vì vừa nhớ lại sự việc xảy ra vào đêm hôm đó, nên mông Trương hơi lùi về phía sau, nhưng chân vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Nếu nhìn kỹ sẽ thấy khuôn mặt của mỗi chiến binh đều được tạo hình theo một cá tính riêng. Một pho có xương gò má nhô cao, đôi mắt đang trừng lên; trong khi pho kia có một khuôn mặt tẹt, mũi bè sang ngang, mắt nhỏ và dài. Sẽ hợp lý hơn nếu cho rằng người ta đã tạo hình khuôn mặt của các tượng dõng này dựa trên những hình mẫu chiến binh có thật, chứ không phải theo tưởng tượng. Lối tạo hình tả thực tới mức có thể cảm thấy các pho tượng dõng như sắp sửa cử động vậy.
Không Hải tiến lên đứng trước mặt một tượng dõng.
Không Hải đưa tay ra toan chạm vào pho tượng thì Trương Ngạn Cao kêu lên bằng một giọng thấp, nhưng gần như tiếng rú: “Thầy Không Hải!”
“Không sao.” Không Hải nói, rồi chạm vào pho tượng dõng.
Không Hải chậm rãi lần theo bề mặt tượng bằng các đầu ngón tay, rồi gập ngón tay lại và gõ lên đó.
Có tiếng kêu.
Qua tiếng kêu ấy và dáng vẻ của Đại Hầu lúc vác chúng lên, có thể thấy các pho tượng rỗng ở trong.
“Chỉ là một pho tượng dõng bằng đất nung, rất cứng...” Không Hải lẩm bẩm. “Nếu định cử động như người thật, chúng sẽ vỡ ngay.”
“Nhưng...”
“Ồ không, tôi không có ý nói ông Trương nhìn gà hóa cuốc. Các bộ hạ của ông khi ấy, kẻ thì bị giết, kẻ thì trọng thương, phải không nào?”
“Đúng vậy.” Trương Ngạn Cao đáp lại.
“Và ông cũng kể rằng, mới ít bữa trước lại có giọng nói vọng lên từ lòng đất và lại có thứ gì đó chui lên từ dưới ruộng, có đúng không?”
“Ph... phải.”
Hừm. Nói rồi Không Hải trầm ngâm một lát.
“Và từ bấy đến nay thứ đó chưa xuất hiện lại có đúng không?”
“Vâng.” Người trả lời là Từ Văn Cường, chủ nhân của cánh đồng bông.
“Buổi tối tôi sợ nên không dám đặt chân ra đây, nhưng ban ngày thì vẫn đi một vòng để xem xét ruộng đồng...”
Anh ta nói rằng dường như không có gì chui lên từ lòng đất nữa.
“Vậy thì rõ rồi.” Không Hải nói. “Ông Từ, ông có thể chuẩn bị giúp tôi một tấm chiếu to còn tốt, một ít rượu cùng đồ nhắm được không?”
Hả? Từ Văn Cường ngớ người ra, tỏ vẻ nghi hoặc.
“Trời có lẽ vẫn còn hơi lạnh, nhưng đêm nay chúng ta sẽ bày tiệc ở đây và chờ thứ ấy chui ra, được chứ các vị?”
“Ở đây?”
“Phải. Có thể sẽ khiến thửa ruộng quý giá của ông tanh bành chút xíu, nhưng nếu ta bứng mấy cây bông này sang chỗ khác thì chắc sẽ không bận gì. Hãy chuẩn bị sẵn càng nhiều lửa càng tốt. Tôi nghĩ đêm sẽ khá lạnh đấy.”
“Này... này cậu!” Dật Thế gọi giật Không Hải.
“Cậu khỏi lo. Đêm nay chắc không có mưa đâu.” Không Hải bảo Dật Thế.
“Tớ không nói chuyện ấy. Liệu có ổn không hả Không Hải?”
“Tớ chịu.” Không Hải đáp gọn lỏn.
“Dật Thế à, nếu thấy lo lắng, cậu có thể ngủ lại nhà ông Trương đêm nay. Các vị ở đây cũng xin chớ cả nể. Nếu không có ai, một mình tôi thức trọn đêm nay ở đây cũng được.”
“Có tôi nữa chứ.” Đại Hầu nói.
“Tôi cũng sẽ ở lại.” Liễu Tông Nguyên gật đầu một cách dứt khoát.
“Cả tôi nữa...” Bạch Lạc Thiên nhìn thẳng vào Không Hải, nói.
“Ồ. Vậy thì vui quá. Ông Lạc Thiên, đêm nay ta sẽ ngắm trăng Ly Sơn và làm thơ giống như Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi, ông thấy thế nào? Vừa hay có cả Liễu Tông Nguyên tiên sinh ở đây nữa. Chà chà, sẽ là một bữa tiệc vui đây...” Không Hải nói với giọng hào hứng.
“Còn Dật Thế, cậu tính sao?” Không Hải quay sang nhìn Dật Thế.
“Hừm hừm...” Dật Thế rên rỉ, rồi nói với giọng buông xuôi. “Thôi thì... tớ cũng ở lại vậy.”
❖ 3 ❖Họ đang uống rượu.
Ấy là Hồ tửu.
Đón thứ rượu làm từ nho bằng chén ngọc rồi đưa lên môi.
Họ trải chiếu ở giữa ruộng bông, ngồi quây thành vòng tròn.
Không Hải người nước Oa.
Quất Dật Thế.
Một thi nhân hiếm có trong đời, Bạch Lạc Thiên.
Một văn nhân trên đỉnh cao đơn độc, Liễu Tông Nguyên của Giang tuyết .
Họ châm cho nhau Hồ tửu, mặc hứng viết thơ ra giấy, rồi sang sảng ngâm lên dưới ánh trăng.
Dật Thế vừa xong.
“Đây rồi, lượt tiếp theo là tôi...”
Liễu Tông Nguyên đang cao hứng, liền thoăn thoắt múa bút viết ra một bài thơ rồi cất giọng ngâm. Sau đó đưa bút sang cho Bạch Lạc Thiên.
Bạch Lạc Thiên mặt hẵng còn khó đăm đăm nhưng loáng một cái cũng đã viết xong bài thơ.
Ly Sơn biên địa hạ cung điện
Xuân dạ kiểu nguyệt tưởng Tần vương
Hồ tửu dục ẩm vô quản huyền
Phong sách sách nguyệt mãn ngọc bôi...
Viết xong, Bạch Lạc Thiên bèn tự mình ngâm lên.
Bên cung điện dưới đất Ly Sơn
Đêm xuân trăng sáng nhớ vua Tần
Rượu Hồ muốn uống mà không nhạc
Trăng tràn chén ngọc, gió bâng khuâng...
Bạch Lạc Thiên không cười, hướng lên trời, ngâm như độc thoại bài thơ khá dài ấy. Một bài thơ đúng phong cách của người đàn ông này: tình ý đẹp đẽ, tròn đầy.
Tiếp theo đến Không Hải.
Cảnh cảnh tinh hà Nam thiên nguyệt
Ngọc bôi yết thiên tưởng Thái Chân
Kiểu nguyệt hàm thần đào túy nguyệt...
Rồi Không Hải cất tiếng ngâm:
Sông sao rực rỡ, trăng trời Nam
Chén ngọc nâng lên, nhớ Thái Chân
Môi ngậm trăng sáng, say trăng sáng...
Bài thơ Không Hải dựa theo ý “trăng tràn chén ngọc” trong thơ Bạch Lạc Thiên. Thái Chân ở đây tức là Dương quý phi. Khởi từ lời thơ của Bạch Lạc Thiên, thơ Không Hải nảy nở, sinh sôi, trôi chảy, tựa như chơi đùa với chữ nghĩa, tựa như câu thơ này say đắm trong câu thơ kia, rồi bỗng quay ngoắt thành một lời tự sự.
Ngủ một giấc thôi, bao mộng mị
Thoắt vui, thoắt khổ, mấy ai lường
Nhân gian, địa ngục, và thiên các
Chợt khóc, chợt ca, luống đoạn trường(*).
(*) Đoạn này trích từ bài Vịnh như mộng dụ của Không Hải, nguyên văn bằng âm Hán Việt như sau:
Nhất niệm miên trung, thiên vạn mộng
Sạ ngu, sạ khổ, bất năng trù
Nhân gian, địa ngục dữ thiên các
Nhất khốc, nhất ca, kỉ hứa sầu.
Lúc Không Hải dừng lại sau một hồi ngâm ngợi, Liễu Tông Nguyên mới cất giọng bùi ngùi không rõ là thở dài hay rên rỉ.
“Ôi chao, tôi ngạc nhiên quá thầy Không Hải ạ. Biết nói thế nào nhỉ? Thơ thầy tuy vượt ra ngoài cái lẽ của thơ, vậy mà lại dâng đầy cảm xúc mang tính thơ.”
Liễu Tông Nguyên không giấu nổi vẻ mặt ngạc nhiên trước Không Hải. Lời cảm thán cũng đầy thành thật.
“Bạch, cậu thấy thế nào?” Liễu Tông Nguyên hỏi Bạch Lạc Thiên.
“Chà, thật không ngờ...” Bạch Lạc Thiên trả lời ngắn gọn.
Dường như đang có một cảm xúc sâu kín nào đó dâng lên trong lòng, Bạch Lạc Thiên ngồi co một chân lên, đưa tay trái vòng qua đầu gối, tay phải vẫn cầm chén trong lúc hết dõi ánh mắt về phía cánh đồng ướt đẫm trăng đêm lại thơ thẩn nhìn xuống đáy hố. Tư thế ngồi bó gối của Bạch Lạc Thiên, ở một góc nhìn nào đó, trông như đứa trẻ đang dằn dỗi.
Đại Hầu đang đứng bên mép hố. Gã đàn ông hộ pháp này không uống rượu mà chỉ đứng khoanh tay nhìn xuống đáy hố.
Bên cạnh đó là chủ nhân của cánh đồng Từ Văn Cường và người bạn thân, một chức dịch Kim Ngô Vệ, Trương Ngạn Cao.
Tuy có chiếu, nhưng họ không ngồi trong chiếu. Hai người Từ Văn Cường và Trương Ngạn Cao có vẻ quá lo lắng nên không thể nâng chén.
Dưới đáy hố lộ ra vài pho tượng dõng, pho thì đang đào dở để lộ nửa thân trên, pho thì chỉ có phần đầu thò ra.
Những pho dõng ấy dễ phải đến một ngàn năm rồi mới được tiếp xúc với không khí. Chúng đang tắm trong ánh trăng.
Thế rồi...
Bạch Lạc Thiên, vẫn nhìn xuống đáy hố với gương mặt đầy vẻ ngậm ngùi, bỗng lẩm bẩm bằng một giọng trầm lắng.
“Thế nhân quả thật khó lường...”
“Khó lường thì mới là thế nhân.” Liễu Tông Nguyên nói.
“Ông Không Hải...” Bạch Lạc Thiên đột nhiên gọi Không Hải.
“Tôi đây.”
“Ông sống vì điều gì?”
“Câu hỏi khó quá.”
“À, vâng...”
Không cần nói thêm, Bạch Lạc Thiên cũng thừa biết chất lượng câu hỏi của mình.
“Hiểu được mình nên sống như thế nào tức là hiểu được mình là ai.” Bạch Lạc Thiên nói.
“Đúng vậy.” Không Hải gật đầu.
“Con người có ý nghĩa như thế nào trong cõi đời này là câu hỏi mà chẳng ai trả lời được. Hoặc phải mãi về sau, may ra lịch sử mới có câu trả lời. Nhưng đối với bản thân kẻ ấy...”
“Tôi hiểu điều ông đang nói.”
“Mình là ai không phải do thần thánh quyết định. Mà cuối cùng là do bản thân quyết định. Tự bản thân mình quyết định mình là ai và sẽ là ai.”
“...”
“Gần đây tôi mới dần hiểu ra điều ấy. Kẻ làm thơ Bạch Lạc Thiên lúc nào cũng mông lung, nhưng không mông lung đến như Bạch Cư Dị.”
“Nghĩa là...” Không Hải đợi câu nói tiếp theo của Bạch Lạc Thiên.
“Bởi vì trong những hoàn cảnh mà Bạch Cư Dị thấy mông lung, thì đôi khi thi nhân Bạch Lạc Thiên lại có câu trả lời rõ ràng rằng nên làm gì.”
“...”
“Ông Không Hải ạ, người ta là thi nhân vì người ta làm thơ. Nếu muốn trở thành thi nhân thì phải làm thơ. Tôi nên bỏ ngay công việc hiện giờ để chuyên tâm làm thơ mới phải. Nhưng người ta không thể chỉ sống bằng thơ. Con người sống trong đời thực với nhiều cương vị khác nhau. Vừa là con của ai đó, vừa là chức dịch, vừa là thi nhân, vừa là bằng hữu của vài người...”
“...”
“Chính vì có muôn vàn những cương vị khác nhau như thế thì mới là con người. Nếu có thể chọn ra một trong số muôn vàn cách sống ấy thì còn gì nhẹ nhàng, dễ chịu hơn...”
“Đúng vậy.”
“Tuy nhiên, ông Không Hải ạ, ít ra thì có vẻ tôi cũng là một kẻ ôm mộng làm thi nhân.”
Bạch Lạc Thiên uống một hơi cạn hết chỗ rượu bồ đào trong chén.
“Ông Không Hải, tài của ông tót vời lắm. Chỉ có điều...” Bạch Lạc Thiên ngập ngừng.
“Xin cứ nói tiếp đi ông Bạch.”
“À, vì tôi chưa diễn đạt được điều muốn nói. Tôi chưa tìm thấy từ ngữ phù hợp...”
“...”
“Phải rồi. Ông và tôi dường như đối lập nhau. Ý tôi là trong thơ...”
“Ông nói ‘trong thơ’ nghĩa là sao?”
“Nghĩa là, tài năng của tôi là để dành cho thơ. Nhờ vào thơ mà tài năng của tôi mới được tỏa rạng...”
“...”
“Còn đối với ông...”
“Với tôi thì sao?”
“Thơ dường như là để tôn cái tài của ông lên. Đối với ông, thơ hay hình thức thơ xem ra chỉ tồn tại trên đời này để thể hiện cái tài của ông ra mà thôi...”
Bạch Lạc Thiên trầm ngâm một lát rồi nói mà như chẳng nói với ai: “Liệu có hạnh phúc không nhỉ?”
“Ai hạnh phúc?” Liễu Tông Nguyên hỏi.
“Quý phi...” Bạch Lạc Thiên trả lời với vẻ mặt hầu như không cười, rồi im bặt.
❖ 4 ❖“Có vẻ như sắp bắt đầu rồi.”
Không Hải nói vậy sau đó không lâu.
“Cài gì sắp bắt đầu vậy?” Liễu Tông Nguyên hỏi.
“Ý tôi chỉ là có điều gì đó sắp bắt đầu thôi.”
“Điều gì sẽ xảy ra vậy Không Hải?” Dật Thế hỏi với giọng pha chút sợ hãi.
“Tớ chịu.” Không Hải đáp. “Nhưng nó đang mạnh dần lên.”
“Nhưng là cái gì mới được chứ?”
“Sức mạnh của phép chú yểm lên vùng này.” Không Hải trả lời trong lúc nhìn bâng quơ ra xung quanh.
Hồ như sức mạnh thần bí của ánh trăng rót xuống từ trên trời đang thấm sâu và bồi tụ ở lòng đất vậy.
Từ trường, từ tính, áp suất giữa mặt đất và không khí đang gia tăng.
Mặt trăng sắp đi qua kinh tuyến Nam. Hay nói cách khác, mặt trăng sắp lên tới đỉnh trên quỹ đạo của nó. Các pha của mặt đất đang biến đổi diện mạo. Nhưng chỉ có Không Hải mới cảm nhận được những thay đổi ấy.
Ánh trăng rọi vào lòng hố, tạo thành những mảng bóng đổ đậm nét trên mặt và thân thể các pho tượng dõng.
“N... nó chuyển động...” Từ Văn Cường kêu lên bằng một giọng sợ hãi.
Từ Văn Cường nhìn xuống đáy hố với vẻ mặt hốt hoảng. Những cột đuốc đặt quanh hố rung rinh phản chiếu trên gương mặt với đôi mắt mở to của Từ Văn Cường.
“Có chuyện gì vậy?”
“Ph... pho tượng dõng...”
Không Hải đứng dậy.
“G... gì thế...”
Dật Thế đứng dậy, rồi Liễu Tông Nguyên, Bạch Lạc Thiên cũng đứng dậy theo.
Không Hải chạy đến bên cạnh hố.
“Sao hả, Đại Hầu?” Không Hải hỏi Đại Hầu đang đứng bên mép hố.
“Hừm, tôi lơ đãng quá nên hình như đã bỏ lỡ mất...”
“Quả là nó đã chuyển động thật. Nhìn pho tượng dõng nhô nửa người khỏi mặt đất mà xem...”
Không Hải nhìn sang pho tượng dõng đó.
Nhưng không có vẻ gì là nó đã chuyển động. Chỉ có bóng của pho tượng dõng dưới ánh trăng đổ xuống đáy hố tối đen.
“C... cổ nó chuyển động. Nó ngả sang ngang như thế này này, rồi nó chớp mắt và nhìn tôi như người sống vậy.”
“Ông cứ bình tĩnh. Nó không hề chuyển động.” Không Hải nói, rồi đặt tay lên vai Từ Văn Cường. “Ông không nên nhìn thứ này nữa. Hãy ra kia nghỉ ngơi một chút.”
Sau đó Không Hải đưa mắt cho Dật Thế.
“Dật Thế, phiền cậu đưa ông Từ ra nghỉ ở chiếu giúp tớ.”
“Được rồi.” Mặt Dật Thế trắng bệch.
Dật Thế cầm lấy tay Từ, rồi bỗng quay lại hỏi: “Không Hải này, việc này cũng giống như phép trồng dưa ở Lạc Dương phải không?”
“Có lẽ thế.”
Phép trồng dưa là một trong những trò biểu diễn đường phố mà Không Hải và Dật Thế được xem lúc ghé qua thành Lạc Dương để đi tiếp tới Trường An ngay sau khi nhập Đường. Người làm phép ấy gieo hạt dưa xuống đất, làm cho nó lớn lên và ra quả ngay trước mắt người xem rồi bán cho họ. Phép này gây một sự ám thị mạnh lên người xem, từ đó khiến họ nhìn thấy những ảo giác không có thật.
Ông già Đan Ông chính là người đã diễn phép ấy. Họ vừa mới gặp lại Đan Ông vào cái đêm cách đây hai ngày ở mộ Dương quý phi.
Trong lúc dán mắt vào những pho tượng dõng với tâm trạng mong ngóng chúng chuyển động. Từ Văn Cường đã tự ám thị mình.
Đã thế, giữa lúc ấy Không Hải lại nói: “Sắp bắt đầu rồi.” Câu nói của Không Hải đã biến thành ngọn lửa mồi khiến Từ Văn Cường tưởng tượng ra ảo giác.
Phải hết sức đề phòng.
Kẻ địch hẳn đã biết được Không Hải và Liễu Tông Nguyên đang ở cánh đồng của Từ Văn Cường. Dù Không Hải và Liễu Tông Nguyên đã kín đáo rời thành Trường An, song chỉ cần cho ai đó nghe ngóng ở nhà Từ Văn Cường thì sẽ biết ngay.
Đúng lúc Dật Thế quay lại thì bỗng...
“Ừm...” Một giọng trầm, nghe như tiếng thì thầm, từ đâu đó vọng lại.
“Ừm...” Một giọng nói khác đáp lời.
“Tớ nghe thấy nó rồi, Không Hải...” Dật Thế nói.
“Ừ.”
“Lần này là thật hay giả?”
“Thật đấy.” Không Hải đáp.
“C... cái... cái pho tượng kia vừa mới nói thì phải...” Trương Ngạn Cao nói.
“Không phải.”
Không Hải lắc đầu một cách dứt khoát.
“Hoặc ít ra thì tai tôi đã nghe thấy vậy...”
“Không phải. Nghe này, các vị hãy giữ vững sự tỉnh táo của mình. Bằng không sẽ nguy ngập đó.”
Không Hải chưa kịp dứt lời thì những tiếng cười trầm đục cất lên.
Khực.
Khực.
Khà.
Khà.
“Trên mặt đất ồn ào quá nhỉ.”
“Trên mặt đất ồn ào thật đấy.”
Giọng nói này hòa vào giọng nói kia.
“Hơi sớm một chút nhưng đêm nay bọn ta sẽ ra chứ?”
“Hơi sớm một chút nhưng đêm nay bọn ta phải ra thôi.”
“Nào đi!”
“Nào đi!”
Họ nghe thấy những tiếng nói như vậy.
“Là thật chứ?” Dật Thế hỏi.
“Là thật.” Không Hải đáp.
Đúng lúc ấy, mặt đất nền hố chỗ gần với mép vách bỗng nhấp nhô chuyển động như thể có cái gì đó đang muốn chui ra.
“Ôi...” Bạch Lạc Thiên nghẹn lời.
Từ trong lòng đất dưới đáy hố mà Bạch Lạc Thiên nhìn xuống có cái gì đó chui ra. Bạch Lạc Thiên nhảy bật lại sau.
Từ dưới đất, những ngón tay to lớn đang trồi dần lên.
“Không Hải, lần này thì sao?” Dật Thế hỏi.
“Là thật đấy...” Không Hải đáp.
❖ 5 ❖Bàn tay phải thò lên từ lòng đất, những ngón tay quặp xuống theo hình móc câu quào mạnh dưới ánh trăng, hồ như đang tìm kiếm thứ gì đó có thể nắm lấy làm điểm tựa bò lên.
Tiếp theo là bàn tay trái.
Giống như tay phải, ban đầu các ngón tay xuất hiện, rồi đến bàn tay, cổ tay, cánh tay trồi lên.
Sau đó đến đầu...
“Lại có con nữa trồi lên kìa, Dật Thế!” Không Hải thét lên.
Không Hải chưa kịp dứt lời thì đã thấy những ngón tay mới lồm ngồm hiện ra từ một vị trí khác.
Chúng đang chuyển động.
“Làm thế nào bây giờ? Phải làm thế nào bây giờ?” Dật Thế ré lên, tóm lấy tay áo bên trái của Không Hải.
“Bình tĩnh nào!” Không Hải vừa nhìn xuống đáy hố vừa nói.
Trong lúc ấy, phần đầu của pho tượng dõng chiến binh đã trồi hẳn lên khỏi mặt đất.
“Ái chà chà, bọn này gớm thật...” Đại Hầu kêu lên đầy hưng phấn.
Trương Ngạn Cao, Liễu Tông Nguyên, Bạch Lạc Thiên đang đứng trên miệng hố nhìn xuống với ánh mắt sững sờ.
Pho tượng dõng chui ra sau cũng đã bắt đầu lộ phần đỉnh đầu.
“Thầy Không Hải, để tôi ném mấy tảng đá vào đầu chúng nhé?” Đại Hầu nói.
“Đừng, cứ để kệ bọn chúng.”
Dưới ánh trăng, hai pho tượng dõng đang bò ra từ lòng đất giống như hai con côn trùng khổng lồ trước sự chứng kiến của tất cả.
“Cứ kệ chúng đấy Đại Hầu, sẽ phải mất một lúc nữa chúng mới chui lên hẳn. Trong lúc chờ đợi, phiền anh mang rượu đến đây cho ta được không? Mang cả phần của Liễu tiên sinh, Bạch tiên sinh và Dật Thế nữa.”
“Rõ!” Đáp dứt lời, Đại Hầu liền đi đến bàn tiệc gần đó để lấy rượu bồ đào và mấy cái chén ngọc.
“R... rượu à?” Dật Thế nói rồi nhìn Không Hải.
“Ờ.”
Không Hải gật đầu xong thì cũng là lúc Đại Hầu mang rượu tới.
“Tôi mang tới rồi đây.”
“Các vị thấy sao? Lúc này chúng ta đang chứng kiến một cảnh tượng hiếm thấy, hãy coi đó là món mồi nhắm.”
Không Hải rót rượu bồ đào vào chén ngọc, rồi đưa cho từng người.
“Thật là...” Liễu Tông Nguyên vẫn giữ nguyên nét mặt, đón lấy chén rượu bồ đào.
“Đây là phong cách Oa quốc sao?” Bạch Lạc Thiên nói rồi đỡ lấy chén rượu.
Dật Thế, rồi Đại Hầu cũng cầm chén trên tay.
“Giờ thì chúng ta hãy cùng chờ xem.”
Vậy là Không Hải đã nắm hoàn toàn quyền chủ động trong bối cảnh này.
**e*f*f**
Một lát sau...
Pho tượng dõng chui ra trước đã lên khỏi mặt đất, tiếp đến là pho tượng dõng chui ra sau. Bọn chúng đang đứng đó. Tuy nói là trên mặt đất, song kì thực thì vẫn đang ở dưới hố.
“Cuối cùng thì bọn ta cũng ra đây rồi.”
“Cuối cùng thì bọn ta cũng ra đây rồi.”
Hai pho tượng dõng nói với nhau và đứng đối diện nhau dưới hố.
Phần đầu của pho tượng dõng cao ngấp nghé miệng hố. Gần như chỉ cần bước ra một bước là có thể giẫm chân lên đầu tượng dõng.
“K... Không Hải...”
Dật Thế gọi Không Hải, như muốn hỏi: phải làm sao bây giờ?
“Ừm.”
“Ừm.”
Hai pho tượng dõng ngúc ngắc phần thân trên, nhưng cử động có phần cứng ngắc. Kiểu cử động ở những con rối thì đúng hơn là ở người.
“Ồn ào quá nhỉ.”
“Ồn ào thật đấy.”
Hai pho tượng dõng xoay đầu, ngước về phía người vừa phát ra tiếng nói à Dật Thế với ánh mắt sáng quắc.
“Ối giời ơi!” Dật Thế lùi lại phía sau.
Hai pho tượng dõng chậm rãi cất bước. Chúng đi theo con đường dốc được tạo ra để lên mặt đất.
Tất cả đều kinh hãi lùi lại phía sau, duy chỉ có Không Hải vẫn đứng yên.
“Này này, Không Hải, nguy hiểm đấy!” Dật Thế gọi với từ đằng sau.
Nhưng Không Hải vẫn đứng đó như nghênh đón hai pho tượng dõng chiến binh.
Đại Hầu ném chiếc chén đang cầm trên tay xuống đất, vớ lấy cây cuốc gần đó, tiến tới cạnh Không Hải.
Không Hải cẩn thận đút chén ngọc vào trong bọc áo, nói: “Đại Hầu, chớ vội ra tay cho đến khi có hiệu lệnh của ta...”
“Biết thế, nhưng nếu thấy nguy cấp thì tôi vẫn cứ ra tay mà không đợi ý thầy đâu...”
Hai pho tượng dõng mỗi pho đều đeo một cây kiếm bên hông. Thân mình tuy là “dõng” nhưng đôi kiếm đó có vẻ như là kiếm thật.
Lần trước, khi các pho tượng dõng xuất hiện, đã có mấy người chức dịch bị giết chết.
“Thầy Không Hải, thầy lùi lại đi.” Trương Ngạn Cao cầm kiếm trên tay, đứng chắn trước mặt Không Hải cùng với năm chức dịch nữa.
“Không sao đâu. Nếu có gì xảy ra chắc Đại Hầu sẽ lo liệu được.”
“Nhưng thầy Không Hải à, sẽ nguy hiểm cho thầy đấy.”
“Không sao, tôi có chuyện cần nói với chúng.”
“Nói chuyện với chúng?”
“Phải. Vì vậy, phiền ông Trương hãy cảnh giới xung quanh giúp tôi.”
“Có cái gì ở xung quanh thưa thầy?”
“Tôi chưa thể nói là cái gì, chỉ xin ông hãy làm theo lời tôi.”
Trong lúc Trương Ngạn Cao còn đang phân vân thì hai pho tượng dõng đã ra khỏi hố.
“Mau đi ông...”
Không Hải giục Trương Ngạn Cao, rồi bước về phía tượng dõng. Đại Hầu đi cạnh Không Hải.
Hai pho tượng dõng đưa mắt nhìn Không Hải.
Không Hải dừng bước ở một khoảng cách vừa đủ. Hai tay nắm chặt cán cuốc, Đại Hầu tiến thêm nửa bước so với Không Hải rồi mới dừng lại.
“Xem kìa!”
“Xem kìa!”
Hai pho tượng dõng lên tiếng.
“Mi là kẻ đã làm bọn ta thức giấc sớm hơn một ngày phỏng?”
“Mi là kẻ đã phá vỡ giấc mơ của bọn ta phỏng?”
Hai pho tượng dõng đưa đôi mắt vô hồn, không hề chớp về phía Không Hải.
Nhìn thật kỹ thì thấy con mắt chỉ là một hình tròn được tô màu trắng để làm nhãn cầu rồi vẽ thêm đồng tử ở chính giữa. Chúng không phải đôi mắt sống, mà chỉ là đôi mắt vô hồn.
“Làm gì có, ta chỉ giúp các ngươi đỡ mất công hơn thôi.” Không Hải nói.
“Giúp bọn ta?”
“Đỡ mất công?”
“Phải.”
“Công gì?”
“Đỡ thế nào?”
“Chính là cái công khai quật các ngươi lên đó. Rồi cả cái công đưa các ngươi từ dưới lên nữa.”
“Gì cơ!?”
“Gì cơ!?”
“Thôi nào, chuyện này rốt cuộc là sao?” Không Hải hỏi.
“Chuyện này là chuyện nào?”
“Là sao nghĩa là sao?”
“Các ngươi làm cái trò này là vì điều gì? Để cho mục đích gì?” Không Hải hỏi.
“Hừ hừ.”
“Khà khà.”
Hai pho tượng dõng cất tiếng cười.
“Ông sai khiến hai con dõng này để định làm gì vậy?”
Không Hải dùng cách gọi ông. Hơn nữa còn nói thẳng ra là “sai khiến hai con dõng này”.
Không Hải dường như đang nói chuyện với một đối tượng khác, chứ không phải với hai pho tượng dõng. Không Hải đang hỏi một kẻ khác không phải tượng dõng bằng cách thông qua tượng dõng.
“Chà chà, vì cái gì nhỉ?”
“Ừm, vì cái gì nhỉ?”
“Ông cho tôi biết được chứ?”
“Không nói được đâu.”
Hai pho tượng dõng trả lời ráo hoảnh.
“Nhất định xin ông nói cho tôi biết điều đó.” Không Hải nói thêm.
“Nhiều lời quá nhỉ.”
“Ờ, nhiều lời quá.”
Hai pho tượng dõng đáp lại như vậy.
“Nếu gặp phải một con ruồi vo ve quấy rầy thì làm thế nào?”
“Nếu gặp phải một con ruồi vo ve quấy rầy thì hãy đập chết.”
Một pho tượng dõng đưa tay nắm lấy chuôi kiếm.
Đúng lúc nó tuốt kiếm ra thì...
“Hây!” Một tiếng hét vang lên từ miệng Đại Hầu, rồi một tiếng bộp nặng trịch, cánh tay vẫn đang cầm chặt chuôi kiếm của pho tượng dõng liền rơi xuống đất.
Đại Hầu đã bổ cây cuốc đang nắm bằng cả hai tay từ trên xuống. Mũi cuốc chặt đứt cánh tay dõng cắm phập vào đất. Nó cắm sâu tới mức không dễ gì mà nhổ lên ngay được.
Pho tượng dõng bị cụt mất cánh tay không có vẻ gì đau đớn, dùng cánh tay còn lại tấn công Đại Hầu. Đại Hầu buông hai bàn tay khỏi cán cuốc, lao thẳng vào pho tượng dõng. Hai thân hình va vào nhau, vang lên một âm thanh nặng trịch như thể hai tảng đá.
Hai lồng ngực tì chặt vào nhau, không bên nào chịu nhúc nhích. Thân hình hộ pháp của Đại Hầu gần như không thua kém gì pho tượng dõng.
Bàn tay trái của pho tượng dõng tóm lấy cổ họng Đại Hầu, trong khi bàn tay trái của Đại Hầu tóm lấy cổ họng của pho tượng dõng. Còn bàn tay phải của Đại Hầu thì nắm lấy cổ tay bàn tay trái của pho tượng dõng đang tóm lấy cổ họng mình.
Có thể thấy một sức mạnh ghê gớm đang dồn lên bàn tay phải của Đại Hầu. Vì bàn tay đó đang run lên bần bật.
Pho tượng dõng còn lại không tham gia vào cuộc đấu ấy mà chỉ đứng ngoài quan sát.
“Không Hải...” Dật Thế gọi.
Ý Dật Thế muốn hỏi, cứ để mặc Đại Hầu như thế có ổn không?
“Để ta giúp một tay nhé, Đại Hầu...” Không Hải hỏi.
“Không hề hấn chi. Cỡ này thì tôi vẫn lo liệu được. Nhưng con dõng này tuy là hình nộm mà có sức mạnh kinh hồn...”
Đại Hầu vẫn còn nói được nghĩa là bàn tay pho tượng dõng vẫn chưa siết hết cỡ vào họng Đại Hầu.
“Vì ta đang ở đúng vị trí đó. Hơn nữa lại là một đêm trăng tròn...”
Đúng lúc Không Hải nói câu đó thì...
“Khự khự...”
Bàn tay phải Đại Hầu đã gỡ được bàn tay trái của pho tượng dõng khỏi cổ họng mình.
“Đồ khốn...”
Bàn tay trái đang tóm lấy cổ họng pho tượng dõng của Đại Hầu thoạt nhìn như thể vừa chọc thủng đầu đối phương. Nhưng không phải vậy. Chẳng qua vì lực bóp của Đại Hầu quá mạnh đã khiến cổ dõng gãy rời ra.
Đầu dõng rơi xuống đất, phát ra một tiếng kêu rồi vỡ tan.
Đại Hầu vừa thở phào một hơi rõ to và đang lau trán thì pho tượng dõng không đầu bỗng đưa bàn tay trái tóm lấy Đại Hầu.
“Á à...”
Đại Hầu ôm lấy pho tượng dõng, lẳng mạnh xuống đất, rồi giờ bàn chân phải đạp thẳng xuống ngực pho tượng dõng đã nằm ngửa lên trời. Trong lúc Đại Hầu tìm cách rút chân ra khỏi ngực pho tượng dõng thì đối thủ thứ hai liền tham chiến.
“Đại Hầu, đằng sau!” Không Hải thét lên.
Pho tượng dõng còn lại đang định tấn công Đại Hầu từ phía sau.
“Ối!” Người kêu lên là Dật Thế.
Nhưng Không Hải đã hành động trước khi Dật Thế cất lên tiếng kêu.
Không Hải áp hai bàn tay vào lưng pho tượng dõng khi nó vừa rút kiếm ra và sắp sửa tấn công Đại Hầu.
“Đất điệt tha, a hổ lạc, quật lạc phạt để, hổ thích nỏa tóa, lụ trà, giả giá, giả giá chiếc, ni a bôn, nhã sát đa, sát đa sát diên đa, sát dã, tóa ha...”(*)
(*) Câu thần chú này tác giả viết theo lối phiên âm thẳng từ tiếng Phạn sang tiếng Nhật, tuy nhiên do sự hạn hẹp trong kiến thức của mình, người dịch chỉ tìm được bản phiên âm Hán Việt thường sử dụng ở Việt Nam dựa trên bản dịch chữ Hán của nhà sư Huyền Trang đời Đường, nên xin được dùng theo lối phiên âm này.
Khi những câu chú bằng tiếng ngoại quốc lầm rầm phát ra từ miệng Không Hải, chuyển động của pho tượng dõng thay đổi rõ rệt. Mọi chuyển động đột nhiên chậm lại.
Đó là Đà La Ni trong Quyển năm trăm bảy mươi mốt của Đại Bát Nhã .
Đại ý lời chú như sau.
“Chú viết: Chớ có gây hại, này những kẻ muốn gây hại. Hỡi các vị hộ trì chính pháp, hỡi chư vị phẫn nộ tôn thần! Hãy phá tan! Hãy đoạn diệt! Hãy tận diệt tà ma! Quy kính cầu niệm.”
Trong lúc chuyển động của pho tượng dõng chậm lại, Đại Hầu đã kịp rút chân ra và túm lấy cây cuốc đang cắm ngập trong đất...
“Hây aa!”
Lưỡi cuốc xẻ dọc từ đỉnh đầu, qua phần mặt trước, rồi xuống tới ngực pho tượng dõng. Mặc dầu vậy, pho tượng dõng vẫn còn cử động, Không Hải bèn niệm Đà La Ni một lần nữa, tức thì pho tượng dõng khựng lại rồi đổ vật ra bất động sau khi đi được một, hai bước.
❖ 6 ❖Một thoáng im lặng...
Rồi những tiếng tán thưởng dậy lên từ trong đám người đứng xem.
“Giỏi quá, Không Hải, Đại Hầu!” Người đầu tiên chạy đến là Dật Thế.
Theo sau là Liễu Tông Nguyên, Bạch Lạc Thiên, Trương Ngạn Cao, rồi đến Từ Văn Cường vẫn theo dõi diễn biến từ xa cho đến lúc này...
Năm chức dịch vẫn đứng ở vòng ngoài để cảnh giới theo lệnh của Không Hải.
Khi mọi người đã tề tựu đông đủ, Không Hải nói.
“Này Đại Hầu, phiền anh mang cho tôi một pho tượng dõng ở đằng kia đến đây được không?”
“Chuyện vặt ấy mà...”
Đại Hầu đi đến bên miệng hố, vác một bước tượng dõng đào được lúc ban ngày đến.
“Này Không Hải, cậu định làm gì vậy?”
Dật Thế hỏi Không Hải, mặt căng ra vì tò mò.
“Cậu sẽ biết ngay thôi.” Không Hải không trả lời thẳng vào câu hỏi của Dật Thế.
Không Hải lệnh cho Đại Hầu xếp ba bức tượng dõng nằm song song trên mặt đất. Một bức đào lên từ ban ngày và hai bức vừa chui ra từ lòng đất khi nãy.
“Bây giờ, thưa các vị...” Không Hải thích thú nhìn khắp lượt tất cả mọi người, rồi tiếp: “Trong ba bức tượng dõng đang được xếp ở đây có hai bức không phải được chôn từ đầu trong lăng mộ của Tần Thủy hoàng đế.”
“Hai bức đó chính là hai bức mà Đại Hầu vừa đập vỡ.”
“Chúng khác nhau như thế nào hả Không Hải?”
“Tớ sắp giải thích đây, Dật Thế.”
Không Hải cầm lấy cuốc.
“Đại Hầu, mang đuốc cho tôi được không?”
Đại Hầu lấy một cành cây đã bén lửa trong bó đuốc đem tới soi lên những bức tượng dõng.
“Trước tiên mời cái vị xem cái này...”
Không Hải vừa nói dứt lời liền bổ bừa một nhát cuốc xuống bức tượng dõng còn lành lặn. Lưỡi cuốc trúng vào phần bụng tạo thành một lỗ thủng trống hoác.
“Các vị thấy sao?” Không Hải hỏi.
Liễu Tông Nguyên nhoài người ra trước để ngó vào.
“Chẳng hiểu.” Dật Thế nói.
“Nhìn kỹ sẽ thấy.”
“Thôi nào Không Hải, cậu nói luôn ra đi, đừng làm ra vẻ nữa.”
Dật Thế nói với Không Hải, mặt đã hơi đỏ bừng.
“Bức tượng này làm rất khéo, tuy nhiên cấu tạo của nó chỉ là một bức tượng dõng thông thường.”
Không Hải cúi xuống bức tượng dõng mà mình vừa đập thủng, cầm một mảnh vỡ lên và đưa cho mọi người.
“Nhưng bức này thì khác.”
Không Hải nhặt một mảnh vỡ của bức tượng dõng bị Đại Hầu quật ngã lúc nãy đưa cho Liễu Tông Nguyên.
“Ra là vậy, đúng là khác nhau thật.” Liễu Tông Nguyên gật gù.
Ngay lập tức, những người khác liền vây lấy Liễu Tông Nguyên.
Họ nhòm vào thứ trên tay Liễu Tông Nguyên, rồi cũng gật gù.
“Đúng thật.”
“Khác nhau thật.”
Mặt trong của mảnh vỡ trên tay Liễu Tông Nguyên được dán kín bởi thứ gì đó màu đen.
“Có lẽ khác ở chỗ này.” Liễu Tông Nguyên nói.
“Ông tinh lắm.”
“Đây rốt cuộc là cái gì?” Liễu Tông Nguyên chỉ vào mớ màu đen hỏi?
“Đấy là tóc.”
“Tóc?”
“Phải. Có lẽ là tóc phụ nữ. Tóc được dán kín bên trong hai bức tượng dõng này.”
“Để làm gì?”
“Để điều khiển.”
“Điều khiển gì?”
“Những bức tượng dõng này. Các vị đã thấy chúng vừa chuyển động phải không?”
Không Hải lại cúi xuống hai bức tượng dõng lúc nãy, nhặt cánh tay của chúng lên.
“Các vị xem. Đây là khớp khuỷu tay, nó có thể cử động được.”
Không Hải nắm chặt cánh tay đó, rồi lắc chỗ khớp nối. Quả nhiên cánh tay đó cử động được là nhờ chỗ khớp nối này.
“Các vị xem tiếp cái này.”
Không Hải chỉ vào phần ngực của bức tượng dõng không đầu đang nằm ngửa. Trên đó có những nét vẽ kiểu như hoa văn.
“Đó là gì?” Bạch Lạc Thiên hỏi.
“Thần chú của ngoại quốc. Đây chắc hẳn là chữ Hồ.” Không Hải nói rồi nhìn sang Đại Hầu.
“ Khi lời cầu nguyện của chúng ta đầy khắp, các linh hồn sẽ trú ngụ vào đây! Ý nghĩa của nó là như vậy.” Đại Hầu nói.
“Đại Hầu, anh lật sấp cái này cho ta được chứ?”
Y lời Không Hải, Đại Hầu lật bức tượng dõng không đầu sang tư thế nằm sấp.
“Hãy nhìn chỗ này.”
Không Hải chỉ vào lưng bức tượng dõng.
“