← Quay lại trang sách

Chương XVI Triều Hành
1

Tây Minh Tự.

Màu xanh của lá hòe mỗi ngày một đậm hơn. Những chồi non lấm tấm đầu cành ngày nào đã trở nên mập mạp, rồi xòe ra và chẳng mấy chốc đã biến thành những phiến lá non.

Năm nay xuân đến sớm hơn thường lệ. Ánh nắng hiền hòa chiếu xuống trung đình.

Không Hải và Quất Dật Thế đang đứng dưới những phiến lá non ấy.

“Lá vẫn chưa bung ra hết, vậy mà nụ hoa đã mập bằng ngần này rồi...”

Đó là cây mẫu đơn mà hằng ngày Không Hải vẫn thường che tay lên. Chỉ có duy nhất một nụ hoa đơm ra từ giữa cành, nó đang lớn lên từng ngày một cách khác thường.

“Là do cậu làm phải không?”

“Ờ, chắc là vậy.”

Không Hải đáp cụt lủn.

Dật Thế chuyển ánh mắt từ cành mẫu đơn sang Không Hải, nói: “Tớ không thể nắm bắt hết được con người cậu, Không Hải ạ. Ngay từ đầu, tớ đã thấy cậu là kẻ không biết đâu mà lần, nhưng sau khi đến Trường An, tớ lại càng cảm thấy thế...”

“Tớ thấy cậu hợp với đất Đường này hơn là Nhật Bản.”

“Vậy hả?”

“Tớ nhớ cái đêm bốn hôm trước, đối mặt với con mèo đó, cậu chẳng hề tỏ ra sợ hãi mà điềm nhiên như không.”

“Không phải thế. Kỳ thực thì lúc đó rất nguy cấp. Chúng ta thoát được chính là nhờ Đan Ông.”

“Tớ chẳng thấy thế chút nào. Hoặc ít ra, nếu không vì bọn tớ làm vướng bận, thì một mình cậu đã có thể đương đầu với con mèo đó rồi.”

Dật Thế không tiếc lời tán dương.

Ngày tiếp theo và ngày tiếp theo nữa của cái đêm hôm ấy, họ đã đào thêm mấy chỗ nữa trên ruộng bông mà Đan Ông chỉ cho và tìm thấy được cả thảy mười bức tượng dõng.

Tất cả đều được viết Hồ chú trên ngực và khắc ba chữ “Linh”, “Túc”, “Động” sau lưng. Các bộ phận ở chân và tay được chế tác khéo léo sao cho dễ dàng cử động. Khi đập vỡ các bức tượng, họ thấy cơ man tóc người bên trong lòng tượng.

Liễu Tông Nguyên lấy các bộ phận: đầu, tay, chân và thân mình, đủ để ghép lại thành một bức tượng hoàn chỉnh mang về. Đồng thời cắt cử hai chức dịch ở lại đề phòng có chuyện.

“Tôi để những người này lại đây coi chừng ruộng bông ít lâu. Nếu có biến thì phải báo ngay cho tôi.” Liễu Tông Nguyên nhắc Từ Văn Cường như vậy trước khi rời đi.

“Từ hôm ấy liệu có xảy ra thêm chuyện gì không nhỉ?”

“Chẳng có gì xảy ra ở cái ruộng bông ấy nữa đâu. Có lẽ là như vậy.”

“Nhưng Không Hải này, kẻ xuất hiện đêm đó là ai vậy? Là mèo? Hay là...”

“Là người.”

“Người hóa thành mèo?”

“Không phải.” Không Hải lắc đầu. “Chỉ là có kẻ đã điều khiển con mèo ấy, và đôi lúc hắn ta xuất hiện dưới cái lốt của nó.”

“Là người ư...”

“Hẳn là như vậy rồi.”

“Nhưng kẻ điều khiển con mèo ấy rốt cuộc đang định làm gì?”

“Làm sao tớ biết được chuyện đó.”

“Nhưng chẳng phải cậu vẫn cho rằng, sự việc ở nhà Lưu Văn Tiêu và sự việc bức tượng dõng trên cánh đồng bông của Từ Văn Cường có liên quan với nhau đấy thôi.”

“Ờ.”

“Cỡ ấy thì tớ đây cũng hiểu. Vì con mèo chúng ta gặp ở nhà Lưu Văn Tiêu cũng xuất hiện ở cái ruộng bông đó.”

“Ừ.”

“Nhưng lúc ấy cậu đã hỏi con mèo về Dương quý phi. Vậy cậu cho rằng câu chuyện của Quý phi cũng liên quan tới những sự việc này phải không?”

“Ờ, đúng vậy.”

“Tại sao cậu đoán ra điều đó?”

“Cậu không biết à?”

“Ừ.”

“Thử nghĩ xem.”

“Tớ chẳng thể kết nối được các tình tiết.”

“Này nhé, cậu hãy nhớ lại lời con yêu xuất hiện ở nhà Lưu Văn Tiêu xem...”

“Cậu đánh đố tớ à. Nhiều thế làm sao mà trả lời được.”

“Chẳng hạn con yêu từng nói: Hay là ta sẽ siết cổ ngươi bằng dải lụa này nhé? Cậu còn nhớ chứ?”

“Ừ.”

“Ở Mã Ngôi Dịch, Bạch Lạc Thiên đã kể rằng Quý phi bị thắt cổ chết bằng một dải lụa.”

“Hừm.”

“Hơn nữa, người vợ của Lưu Văn Tiêu bị con yêu ám vào đột nhiên biến thành bà lão rồi múa theo Thanh bình điệu từ của Lý Bạch đúng không?”

“Ừ hừ hừ.” Dật Thế rên lên.

Ở thời điểm đó, Dật Thế đã biết bài Thanh bình điệu từ được viết ra để dành riêng cho Dương quý phi.

Thực ra vì biết được điều này nên Không Hải mới quyết định đến Mã Ngôi Dịch.

“Hóa ra là như vậy à.”

“Phải.”

“Nhưng ai đã mang thi thể của Quý phi đi mất? Phải chăng là con mèo đó...”

“Chà, việc đó thì thế nào nhỉ...”

“Tớ nhớ ra rồi, Không Hải. Mặt sau của nắp quan tài bằng đá đầy những vết cào rướm máu, phải không nào? Ai đã tạo ra những vết cào ấy? Theo tớ đoán, thì có vẻ như Quý phi sau khi bị chôn xuống, vì một cớ nào đó đã sống lại, trong lúc vùng vẫy đặng thoát ra, đã lấy móng tay cào vào nắp quan tài và để lại những vết ấy.”

“Nếu cậu đoán thế thì chắc là đúng như thế đấy.”

“Đừng có trả lời thờ ơ vậy chứ Không Hải. Thế cậu nghĩ sao về việc đó?”

“Ờ, thì tớ cũng giống cậu thôi.”

“Giờ nghĩ lại vẫn thấy lạnh người. Nếu mình bị chôn xuống đất, rồi bỗng tỉnh dậy trong quan tài như thế, thì biết làm sao nhỉ? Chắc là mình cũng sẽ cào vào nắp quan tài, rồi phát điên trước khi chết lại một lần nữa mất...”

Dật Thế rụt vai, rồi hơi rúm người lại như thể vừa tưởng tượng ra cảnh mình tỉnh dậy bên trong chiếc quan tài chôn dưới đất.

“Không Hải này, ngài Liễu Tông Nguyên nhờ đọc hộ bức văn cũng là vì có liên quan tới việc này phải không...”

“Bức văn của ngài Triều Hành ấy hả?”

Triều Hành, tức là một người Oa có tên A Bội Trọng Ma Lữ.

“Ừ.”

“À, hình như sắp tới giờ sứ giả của ngài Liễu Tông Nguyên đến rồi đấy.”

“Ừ...” Không Hải gật đầu.

Hôm nay là ngày Không Hải và Dật Thế được Liễu Tông Nguyên vời đến. Mục đích là để đọc bức văn được cho là do A Bội Trọng Ma Lữ viết hiện đang ở trong tay Liễu Tông Nguyên.

Tuy nhiên, đây là bức văn mật, nên để tránh người khác biết được, Liễu Tông Nguyên không định sẵn địa điểm gặp nhau.

“Tôi sẽ cho người đến đón các vị.” Liễu Tông Nguyên nói. “Chỉ cần đi theo người đến đón, người ấy sẽ đưa các vị tới chỗ tôi.”

Thời gian theo ước định chính là sáng hôm nay.

Tiếng hiểu cổ đã dứt. Sai nhân của Liễu Tông Nguyên có thể đến vào bất cứ lúc nào.

Hai người vừa nói đến đó thì Đại Hầu xuất hiện và gọi: “Thầy Không Hải...”

Sau đó anh ta đi về phía Không Hải và Dật Thế. Theo sau là một người đàn ông gầy gò, thoạt nhìn giống như một con cáo già.

Bộ dạng của ông ta giống một văn nhân hơn là chức dịch. Hai bên mép để hàng ria giống như một nét phết nhẹ. Đôi mắt ti hí như mắt thú đầy cảnh giác.

“Đây là sứ giả do Liễu Tông Nguyên tiên sinh cử đến.” Đại Hầu thấp giọng nói.

Người đàn ông đi sau Đại Hầu kính cẩn cúi đầu chào Không Hải và Dật Thế.

“Tôi là Hàn Dũ.”

Không Hải và Dật Thế đáp lễ, rồi lần lượt xưng tên.

“Tôi đến để đón các vị...”

Hàn Dũ nói, đôi mắt đầy cảnh giác vẫn không rời khỏi Không Hải.

“Sau đây tôi sẽ dẫn các vị tới chỗ Liễu Tông Nguyên, tuy nhiên tôi có điều phải báo trước với các vị.”

“Điều gì vậy?”

“Về bức văn của Triều Hành.”

Nói đoạn, vẻ mặt Hàn Dũ tỏ ra u sầu.

“Có chuyện gì chăng?”

Trước khi trả lời câu hỏi của Không Hải, Hàn Dũ đưa mắt nhìn quanh để xem quanh đó có ai đang nghe trộm câu chuyện của mình không.

Nhưng không có bóng người nào.

Mặc dầu vậy, như thể vẫn chưa yên tâm, Hàn Dũ phải đợi qua vài nhịp thở mới cất tiếng trả lời.

“Kỳ thực thì, bức văn của Triều Hành đã bị ai đó đánh cắp đêm qua.”

Hàn Dũ hít một hơi thật sâu sau khi nói hết câu, cứ như thể ông ta đã phải dùng phần lớn không khí trong phổi để nói ra câu đó vậy.

“Thật vậy sao?” Dật Thế hỏi lại.

“Vâng, đúng là như vậy.” Hàn Dũ đáp lại rành rõ.

❖ 2 ❖

Tiếng bánh xe bằng gỗ nghiến lên đá sỏi, dội dọc theo sống lưng qua mông.

Không Hải và Quất Dật Thế đang ở trên xe ngựa.

Khoang xe có hai băng ghế quay mặt vào nhau dành cho bốn người ngồi. Không Hải và Dật Thế ngồi cạnh nhau, phía đối diện là Hàn Dũ.

Khoang xe được phủ bạt vì vậy người bên ngoài không thể thấy họ.

“Tôi được lệnh không được nói gì cho đến khi tới nơi...”

Hàn Dũ nói như vậy với Không Hải và Dật Thế lúc xe bắt đầu lăn bánh. Kể từ giây phút đó, ông ta chỉ im thin thít.

Xe ngựa ra khỏi Diên Khang Phường liền đi về hướng Đông. Chạy được một đoạn thì rẽ sang hướng Nam ở góc Sùng Đức Phường, rồi tiếp theo rẽ sang hướng Tây ở góc Tuyên Nghĩa Phường.

“Không Hải này,” Dật Thế nói nhỏ với Không Hải như vừa nhận ra điều gì đó, “Chẳng phải bọn mình đang quay lại chỗ cũ hay sao?”

Các con phố lớn nằm giữa các phường chạy theo hình bàn cờ, chỉ có hai hướng Nam-Bắc và Đông-Tây. Ban đầu, chiếc xe đi theo hướng Đông, nhưng ở chỗ rẽ tiếp theo đã ngược về hướng Tây, nói cách khác thì xe đã quay lại chỗ cũ.

“Tại sao lại phải đi vòng thế?”

Chạy thêm một lúc nữa, chiếc xe liền rẽ lên hướng Bắc. Như vậy tức là nó lại quay lại chỗ cũ.

“Không Hải à, thế nghĩa là sao?”

“Chắc là họ muốn kiểm tra xem có bị bám đuôi hay không ấy mà.”

Nếu phát hiện có kẻ bám đuôi thì sao?

Không Hải ngả lưng vào chỗ tựa, vẻ như muốn nói: Đằng nào cũng sẽ tới nơi thôi.

Xe ngựa chạy lộp cộp hồi lâu, rồi đi qua một cổng phường nào đó.

“Hình như là Vĩnh Lạc Phường.” Dật Thế nói bâng quơ.

Ebook~Fun~Free

Một lát sau thì xe dừng lại.

“Xin mời các vị xuống.” Hàn Dũ nói.

Xuống khỏi xe, nhìn xung quanh, Không Hải và Dật Thế thấy mình đang đứng ở trung đình của một ngôi nhà có bờ tường lợp ngói bao quanh.

Không thấy bóng người.

Vài ba gốc hòe.

Có một khóm mẫu đơn vừa đơm chồi và một cái ao. Bên bờ ao, một cây liễu lớn đang rủ cành thướt tha xuống mặt nước.

Ngôi nhà cũng ra gì đấy chứ! Ánh mắt Dật Thế nhìn Không Hải như muốn nói vậy.

“Mời các vị theo lối này...” Hàn Dũ nói, rồi cất bước.

Không Hải và Dật Thế đi theo sau. Họ bước qua cửa vào trong ngôi nhà.

Bên trong cũng không thấy bóng người.

Họ đi qua một gian phòng có bếp lò, các dụng cụ nấu nướng, để vào sâu hơn...

“Đây rồi...” Hàn Dũ dừng lại.

Trước mặt ông ta là một cánh cửa.

“Tôi đã đưa ông Không Hải và ông Dật Thế đến đây.” Hàn Dũ nói vọng vào căn phòng sau cánh cửa.

“Xin hãy đưa các vị ấy vào trong này.”

Giọng nói quen thuộc của Liễu Tông Nguyên vọng ra từ bên trong.

❖ 3 ❖

Liễu Tông Nguyên đang ngồi phía sau chiếc bàn, bên phải là cửa sổ.

Không Hải và Dật Thế ngồi xuống đối diện với Liễu Tông Nguyên.

Hàn Dũ ngồi nhìn thẳng ra ô cửa sổ nằm bên trái Không Hải và Dật Thế.

Trên bàn đã bày sẵn trà và đồ ngọt. Quả hạnh(*) khô và một vài loại bánh Hồ.

(*) Một loại mơ.

“Đây là nhà bạn tôi. Tôi đã nói khó để bạn tôi đi vắng ngày hôm nay. Bạn tôi không biết tôi gặp ai, thậm chí cả việc tôi đã đến đây...”

Liễu Tông Nguyên nói, rồi chăm chú nhìn Không Hải và Dật Thế.

“Thật không phải phép khi mời các vị đến theo cái cách như thế này.”

“Ồ không.”

“Vì dù sao, nội dung câu chuyện cũng cần được giữ bí mật.”

“Tiên sinh không cần phải giữ ý với chúng tôi. Nhân tiện, tình hình ở cánh đồng bông của ông Từ sau hôm đó chắc là không có gì lạ xảy ra chứ?”

“Mỗi ngày một lần đều có tin báo về, nhưng không có gì đặc biệt.”

“Ông đã báo cáo về vụ việc bức tượng dõng hôm đó chưa?”

“Rồi. Tôi đã bẩm báo với Vương tiên sinh về việc đó...”

“Vương tiên sinh nói sao?”

“Tiên sinh bảo tạm thời chớ có để lộ cho ai biết. Tiên sinh cũng lệnh truyền cho các binh sĩ và Kim Ngô Vệ giữ kín, nên trước mắt tôi chỉ còn cách làm như vậy...”

“Đằng nào thì việc này cũng sẽ trở thành đề tài xì xào bàn tán của bàn dân thiên hạ thôi.”

“Tôi cũng e là thế.”

“Vương tiên sinh định tính thế nào?”

“Tiên sinh bảo sẽ tìm thời điểm thuận tiện để tâu với Thuận Tông hoàng đế. Cùng với mấy việc khác nữa...”

“Mấy việc khác nữa là việc gì vậy?”

“Chắc là mấy việc như mộ Quý phi bị quật phá, chuyện xảy ra ở nhà Lưu Vân Tiêu, rồi cả việc Phụng Minh bên Thanh Long Tự đang bảo vệ cho Lưu Vân Tiêu.”

“Về phần Lưu Vân Tiêu, cho đến lúc này dường như cũng chưa có chuyện gì xảy ra.”

“Còn khoảng ba ngày nữa thì đến ngày mùng mười như đã định phải không?”

“Tôi nghĩ là còn khoảng đó.”

Không Hải và Liễu Tông Nguyên thong thả chuyện trò.

Hẳn là trước khi đi vào chủ đề chính, Liễu Tông Nguyên muốn vừa nói dăm ba câu chuyện phiếm với Không Hải vừa thầm sắp xếp trong đầu những gì định nói. Mà không, có lẽ chỉ đơn giản là anh ta đang tự xác nhận lại xem có nên nói ra hay không thôi.

“Còn về chuyện bức văn của Triều Hành tiên sinh...”

Liễu Tông Nguyên nói tới đó liền thở dài.

“Tôi nghe nói đã bị đánh cắp phải không?”

“Đúng vậy.”

“Ông có biết ai đã đánh cắp không?”

“Không.”

LIễu Tông Nguyên khẽ lắc đầu.

“Nhà tôi có một cái kho, trong đó có một chỗ chuyên cất giấu những giấy tờ bí mật. Sáng nay tôi vào xem thì đã thấy bức văn của Triều Hành tiên sinh biến mất.”

“Sao lại có chuyện đó.”

“Việc tôi giữ bức văn của Triều Hành tiên sinh có một vài người biết, bao gồm cả Hàn Dũ đây, nhưng chỉ mình tôi biết chỗ cất giấu nó.”

“Nhưng ai đó đã đánh cắp bức văn?”

“Phải...”

“Liệu có thể là một tên trộm nào đó lẻn vào và tình cờ mang đi mất không?”

“Trong kho còn nhiều món quý giá khác, nhưng những món đó lại không hề bị đánh cắp.”

“Như vậy có nghĩa là...”

“Kẻ trộm ngay từ đầu đã nhắm tới bức văn của Triều Hành tiên sinh.”

“Ông có manh mối gì về kẻ trộm không?”

Liễu Tông Nguyên lặng lẽ lắc đầu trước câu hỏi của Không Hải.

“Không.”

“Nhưng như vậy thì có thể hiểu rằng, bức văn ấy khá quan trọng với một ai đó.”

“Đúng vậy.”

“Rốt cuộc thì bức văn đó như thế nào?”

“Như tôi đã nói với thầy, tôi không đọc được nội dung của nó, vì nó được viết bằng tiếng nước Oa. Tuy viết bằng thứ chữ mà chúng tôi vẫn dùng, nhưng chỉ là dùng chữ của chúng tôi để ghi lại tiếng nước Oa, nên phi người nước Oa, chẳng ai có thể đọc được.”

“Ông đã từng nhờ ai biết tiếng Oa đọc hộ chưa?”

“Chưa.”

Liễu Tông Nguyên lại lắc đầu.

“Vì tôi nghĩ rằng, những người không xứng đáng thì không nên biết nội dung bức văn đó. Tôi chỉ nghe nói, nội dung trong đó có nhiều chỗ liên quan đến cái chết của Dương quý phi...”

“Nói như vậy nghĩa là?”

“Người cho tôi bức văn đó đã nói như vậy.”

“Người cho ông bức văn đó là ai?”

“Việc đó thì tôi chưa thể tiết lộ vào lúc này. Ngay cả việc nói về sự tồn tại của bức văn với những người ngoại quốc như các vị, tôi cũng đã phải băn khoăn rất nhiều.”

Liễu Tông Nguyên nhìn Không Hải.

“Tôi đã nghe Bạch Cư Dị kể về chuyện ở mộ Dương quý phi nên biết được rằng thi thể của Quý phi không có ở đó. Thầy Không Hải ạ, vì thầy đã biết điều đó rồi nên tôi mới nảy ra ý định nói cho thầy biết về bức văn của Triều Hành...”

“Nhưng nó đã bị đánh cắp ngay trước thời điểm chúng ta gặp nhau.”

“Phải.”

Liễu Tông Nguyên gật đầu, rồi nói tiếp.

“Còn một chuyện nữa mà tôi chưa tiện nói với thầy.”

“Về người đã cho ông bức văn?”

“Một chuyện khác.”

“Là chuyện gì vậy?”

“Là về Lưu Vân Tiêu mà tôi nhắc tới ban nãy.”

“Chuyện là như thế nào?”

“Tôi đã nghe về việc có một con mèo lạ xuất hiện ở nhà Lưu Vân Tiêu và tiên đoán cái chết của Hoàng đế. Bọn tôi vẫn giữ kín chuyện này với Hoàng đế, nhưng sau khi điều tra, dò xét thì phát hiện ra một điều.”

Liễu Tông Nguyên tạm ngừng lời, nhìn sang Không Hải.

“Xin ông cứ tiếp tục.”

“Kỳ thực thì Lưu Văn Tiêu không phải là không có dính dáng tới cái chết của Quý phi.”

“Ồ.” “Tất nhiên, nói như thế không có nghĩa là bản thân Lưu Văn Tiêu có dính dáng trực tiếp tới Quý phi.”

“Vậy thì liên quan như thế nào?”

“Cha của cha của Lưu Văn Tiêu, tức là ông nội Lưu Văn Tiêu, là người có liên quan tới vụ việc của Dương quý phi. Ông ta tên là Lưu Vinh Tiêu.”

“Lưu Vinh Tiêu?”

“Phải. Lưu Vinh Tiêu là một trong những cận vệ hộ giá Huyền Tông hoàng đế lánh về đất Thục trong loạn An Sử, nhân vật này đã đi theo Hoàng đế tới tận đất Thục.”

“Ra là vậy.”

“Hơn nữa, ông ta lại là một trong những nhân vật trung tâm cầm đầu đám binh sĩ mưu đồ phản loạn ở Mã Ngôi Dịch. Lưu Vinh Tiêu cũng tham gia vào việc chém chết và bêu đầu anh họ Quý phi là Dương Quốc Trung trên mũi giáo, đồng thời ép Huyền Tông hoàng đế giết chết Quý phi. Nghe nói chính Lưu Vinh Tiêu đã bêu đầu Hàn Quốc phu nhân, một trong những người chị của Quý phi, trên mũi giáo.”

“Thật là...”

“Người kể cho tôi việc này chính là Bạch Cư Dị.”

“Là ông Bạch...”

“Cậu ấy đang toan tính điều gì đó nên đã tìm hiểu rất nhiều về Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi suốt bấy lâu nay. Cậu ấy biết kha khá về hai người này.”

“Như vậy là ta đã có được hình dung sơ bộ về toàn bộ sự việc.”

“Đúng vậy. Tất cả những sự việc khuấy động Trường An hiện giờ xem ra đều có dính dáng tới Quý phi.”

Nói rồi như mới chợt nhớ ra, Liễu Tông Nguyên đặt tay lên bàn.

“Chết thật, tôi quên mất. Tôi đã chuẩn bị trà bánh sẵn đây rồi mà cứ mải chuyện...”

Liễu Tông Nguyên đang định bỏ trà vào tách thì Hàn Dũ giành lấy hộp trà từ tay Liễu Tông Nguyên: “Để đó tôi làm.”

Hàn Dũ thả vào mỗi tách đã bầy sẵn trên bàn một nhúm trà, rồi đứng dậy và rót nước nóng vào trong tách.

Nước tuy đã hơi nguội, song vẫn thấy được màu trà từ từ thôi ra.

Sau khi hớp một hai ngụm trà, Dật Thế đưa quả hạnh khô lên miệng. Còn Không Hải chỉ khẽ chạm môi vào tách.

❖ 4 ❖

“Thế còn về việc bức văn...”

Đợi cho đến khi không khí lắng xuống, Liễu Tông Nguyên một lần nữa gợi lại câu chuyện.

“Vâng.”

“Có vẻ như đó là một bức thư mà Triều Hành tiên sinh gửi cho Lý đại nhân.”

“Tức là Lý Bạch phải không ạ?”

“Đúng vậy.”

“Nhưng tại sao Triều Hành lại gửi thư cho Lý Bạch...”

“Thầy Không Hải hẳn cũng biết, hai vị đó đã có lúc giao du với nhau.”

“Tôi có biết. Tôi đã đừng đọc bài thơ Lý Bạch viết tặng Triều Hành vì tưởng Triều Hành đã chết.” Không Hải nói.

Triều Hành, tức là A Bội Trọng Ma Lữ, quyết định trở về Nhật Bản vào năm Thiên Bảo thứ mười hai (năm 753). Trọng Ma Lữ vốn rất được Huyền Tông hoàng đế yêu mến, nên dù nhiều lần tấu trình xin trở về Nhật Bản, nhưng Hoàng đế mãi vẫn không chịu.

Cuối cùng thì Hoàng đế cũng chấp thuận cho Triều Hành về nước vào năm Thiên Bảo thứ mười hai, trước khi Không Hải nhập Đường năm mươi mốt năm.

Triều Hành đã lên thuyền khởi hành về Nhật Bản, nhưng do gặp bão trên biển, nên thuyền rốt cuộc lại trôi dạt vào đất Đường.

Không biết Triều Hành vẫn còn sống và đã trở lại đất Đường, nên khi nghe tin Triều Hành chết vì gặp bão, Lý Bạch đã để lại một bài thơ như sau:

Khốc Triều Khanh Hành

Nhật Bản Triều khanh từ đế đô

Chinh phàm nhất phiến nhiễu Bồng Hồ

Minh nguyệt bất quy trầm bích hải

Bạch vân sầu sắc mãn Thương Ngô.

(Dịch thơ: Khóc Triều Hành

Nhật Bản Triều khanh(*) rời đế đô

Một mảnh buồm dong cõi Bồng Hồ(**)

Trăng sáng không về, chìm bể biếc

Màu buồn mây trắng kín Thương Ngô(***).)

(*) Tiếng tôn xưng người khác.

(**) Tức Bồng Lai.

(***) Còn có tên gọi Uất Châu Sơn, là một ngọn núi ở ngoài biển.

Bức văn nay đã thất lạc được cho là của A Bội Trọng Ma Lữ gửi cho Lý Bạch.

“Hừm!” Người kêu lên là Dật Thế. “Chuyện này thật là đáng tiếc Không Hải ạ. Giá mà được tận mắt đọc bức văn ấy...”

Dật Thế rên lên tiếc rẻ.

“À còn việc này nữa thầy Không Hải. Nội dung toàn bộ bức văn thì như tôi đã nói, nhưng tôi vẫn còn nhớ tựa đề của phần mở đầu bức văn ấy...”

“Ông đọc được sao?”

“Không, tôi không đọc được, nhưng những chữ đó là chữ Đường, nên tôi vẫn còn nhớ.”

“Ông có thể viết ra đây được chứ?” Không Hải hỏi.

“Được. Tôi nghĩ chắc là được.”

“Vậy xin ông hãy viết giúp.

“Chỉ có điều...”

Liễu Tông Nguyên áp hai tay vào ngực, động tác như để kiểm tra bên trong bọc áo. Hình như anh ta không chuẩn bị giấy và bút.

“Giấy bút thì tôi có đây.”

Không Hải lấy từ bọc áo ra bút, mực, nghiên và giấy rồi đặt lên bàn.

“Ồ, vậy thì tôi sẽ viết ngay đây.”

Liễu Tông Nguyên đón lấy bút nghiên từ Không Hải, rồi trải rộng giấy ra.

Sau khi chấm đẫm bút vào nghiên mực và im lặng suy nghĩ một lát, Liễu Tông Nguyên bắt đầu đưa bút.

Các chữ Hán thoăn thoắt hiện ra trên giấy. Tuy là chữ Hán, nhưng không phải Hán văn, mà là dạng văn tự của Đại Hòa(*). Đây là lối dùng chữ Hán để ký âm có tên gọi là Vạn Diệp Giả Danh(**).

(*) Tức Yamato, tên gọi cổ của Nhật Bản.

(**) Tiếng Nhật đọc là Manyogana, đây là lối ký âm bằng chữ Hán được dùng trong tập thơ cổ nổi tiếng Vạn Diệp Tập (Manyoshu) nên được gọi là Manyogana.

“Tôi nghĩ đoạn đó thế này.”

Liễu Tông Nguyên xoay ngược tờ giấy lại rồi đưa ra trước mặt Không Hải và Dật Thế.

Không Hải và Dật Thế đưa mắt nhìn xuống tờ giấy.

“Ồ!”

“Đây là...”

Cả Không Hải lẫn Dật Thế đều đồng thời khẽ ồ lên.

“Không Hải à, việc này chẳng phải cũng là một việc tày trời hay sao?”

“Ừ.” Không Hải đang nhìn những dòng chữ mà Liễu Tông Nguyên vừa viết ra với ánh mắt sáng lạ thường.

“Những chữ đó viết gì vậy?”

Liễu Tông Nguyên nhoài người ra trước vì không nén nổi tò mò.

“Những chữ này đại ý nói đến việc đưa Dương quý phi sang Oa quốc.”

“Sao cơ!”

Liễu Tông Nguyên nín thở.

Đoạn ấy viết như sau:

Thừa mệnh Huyền Tông hoàng đế, Khiển Đường sứ nước Oa là A Bội Trọng Ma Lữ sẽ đưa Thái Chân sang Oa quốc.

❖ 5 ❖

A Bội Trọng Ma Lữ nhập Đường vào năm 717 Tây lịch với tư cách lưu học sinh trên đoàn thuyền Khiển Đường sứ thứ tám, khi ấy A Bội Trọng Ma Lữ mười bảy tuổi.

Lúc bấy giờ là thời đại của Huyền Tông hoàng đế, đế quốc Đại Đường tựa như một bông mẫu đơn đại đóa bung nở rực rỡ.

Kể từ khi nhập Đường, Trọng Ma Lữ tự xưng là Triều Thần Trọng Mãn(*) một thời gian rồi mới đổi tên sang lối Đường là Triều Hành.

(*) Âm Nhật đọc là Asonchuman.

Xin nhắc lại thân thế của Trọng Ma Lữ như đã nói đến ở trước, Trọng Ma Lữ là con của A Bội Thuyền Thủ(*), sinh ra ở nước Oa vào năm 701.

(*) Âm Nhật đọc là Abe-no-Funamori.

Năm 701 cũng là năm mà Lý Bạch sinh ra ở Đường. Vì vậy, Lý Bạch và Trọng Ma Lữ là đồng niên, trong khi Không Hải và Bạch Lạc Thiên cũng xấp xỉ tuổi nhau.

Đi cùng Trọng Ma Lữ trên đoàn thuyền Khiển Đường sứ thứ tám còn có Cát Bị Chân Bị(*) và nhà sư Huyền Phưởng(**). Sau khi nhập Đường, Trọng Ma Lữ vào học ở Thái học, tức là trường đào tạo quan lại. Rồi ông dự kỳ thi khoa cử và đỗ tiến sĩ. Tuy xuất thân ở nước Oa, một quốc đảo phía Đông nhỏ xíu so với Đại Đường thời bấy giờ, nhưng ông đã làm tới hiệu thư ở Tả Xuân Phường Tư Kinh Cục(***), một chức quan hầu cận bên thái tử.

(*) Âm Nhật đọc là Kibi-no-Makibi.

(**) Âm Nhật đọc là Genbo.

(***) Xuân Phường là một cơ quan giúp việc cho thái tử dưới triều nhà Đường, trong đó có Tư Kinh Cục là bộ phận sao chép, tu sửa kinh thư.

Đại Đường thời kỳ này có tính quốc tế hóa rất cao. Bất kể là người Hán, người Oa hay người Hồ, ai cũng có thể được bổ vào những vị trí quan trọng tùy theo năng lực. Hệ thống khoa cử tuy có mặt xấu là việc đỗ đạt được quyết định bằng hối lộ hoặc quan hệ, nhưng cũng có những mặt tiến bộ kể trên.

Trọng Ma Lữ sau đó kinh qua chức tả thập di, rồi lên tới tả bổ khuyết. Tả thập di và tả bổ khuyết là các chức quan hầu cận và chuyên can gián thiên tử, do vậy mà Trọng Ma Lữ thường xuyên được ở cạnh và trò chuyện trực tiếp với Huyền Tông.

Huyền Tông yêu mến tài năng và con người của A Bội Trọng Ma Lữ. Đó vừa là niềm hạnh phúc, vừa là nỗi bất hạnh của Trọng Ma Lữ.

Năm 733, Đa Trị Bí Quảng Thành(*) dẫn đầu đoàn thuyền Khiển Đường sứ thứ chín nhập Đường, Trọng Ma Lữ tâu lên Huyền Tông xin cho về cố quốc cùng sứ đoàn nhưng không được chuẩn tấu. Ngược lại, Huyền Tông còn cất nhắc Trọng Ma Lữ lên tới chức vệ úy thiếu khanh. Đây là chức quan trật tòng tam phẩm, nên thật không ngoa khi nói rằng, Trọng Ma Lữ đã đạt đến tột đỉnh hoạn lộ mà một người nước ngoài có thể với tới được.

(*) Âm Nhật đọc là Tajhi-no-Hironari.

Năm 752, đoàn thuyền Khiển Đường sứ thứ mười do Đằng Nguyên Thanh Hà(*) dẫn đầu cập bến. Khi sứ đoàn của Đằng Nguyên Thanh Hà chuẩn bị quay lại Nhật Bản vào năm 753, Trọng Ma Lữ một lần nữa dâng biểu xin Huyền Tông cho về cố quốc, lần này Hoàng đế chuẩn y, Trọng Ma Lữ rốt cuộc đã có thể lên đường về nước.

(*) Âm Nhật đọc là Fujiwara-no-Kiyokawa.

Trong sứ đoàn lần ấy, có một vị Đường tăng được mời sang Nhật Bản, rồi sống cho đến cuối đời ở đó là Giám Chân.

Trọng Ma Lữ bấy giờ đã năm mươi ba tuổi.

Một người bạn của Trọng Ma Lữ là Vương Duy khi ấy đã gửi tặng một bài thơ, tiêu đề Tống bí thư Triều giám hoàn Nhật Bản quốc.

Tích thủy bất khả cực

An tri thương hải Đông

Cửu Châu hà xứ viễn

Vạn lý nhược thừa không

Hướng quốc duy khán nhật

Quy phàm đán tín phong

Ngao thân ảnh thiên hắc

Ngư nhãn xạ ba hồng

Hương thụ Phù Tang ngoại

Chủ nhân cô đảo trung

Biệt ly phương dị vực

Âm tín nhược vi thông.

(Dịch thơ: Tiễn bí thư giám Triều Hành về Nhật Bản

Tích Thủy đâu là tận,

Thương Hải đâu là Đông?

Cửu Châu(*) xa ngút mắt

Vạn dặm chỉ thinh không

Nhằm mặt trời cố quốc

Buồm về mặc gió dong

Mình ba ba đen nhẫy

Mắt luồng chiếu đỏ lòm

Chủ nhân trong cô đảo

Hương thụ ngoài phù tang

Biệt ly chia hai cõi

Tin tức làm sao thông?)

(*) Tức là đảo Kyushu, một trong bốn hòn đảo chính nằm ở phía Nam quần đảo Nhật Bản.

Bài thơ được làm theo luật ngũ ngôn, các câu chẵn vận âm với nhau. “Tích Thủy” là biển, “Thương Hải” là vùng biển được cho là có ngọn núi nơi thần tiên trú ngụ.

Vào thời Đường, người ta quan niệm rằng Nhật Bản chính là nước Bồng Lai, nơi các vị thần tiên sinh sống.

Trong các hình vẽ thuật lại những tích truyện theo truyền thuyết, có mô tả một loài động vật giống như con rùa khổng lồ nổi trên mặt biển và cõng nước Bồng Lai ấy ở trên lưng, “mình ba ba” chính là nói đến mình con rùa ấy.

Khi ấy, Vương Duy năm mươi lăm tuổi.

Trọng Ma Lữ cuối cùng cũng đã có thể quay về Nhật Bản. Bài thơ nổi tiếng dưới đây của ông được cho là do ông sáng tác trên con thuyền trước khi rời bến.

Bầu trời trải mênh mông

Ngước mắt trông về chốn xa xăm

Vầng trăng ta đang thấy

Có phải vầng trăng từ thuở trước

Mọc trên đầu ngọn Mikasa?(*)

(*) Mikasa là tên một đỉnh núi ở Nara, Nhật Bản. Bài thơ này được làm theo thể thơ Tanka truyền thống của Nhật Bản với nhịp phách 5.7.5.7.7, người dịch đã cố gắng để có thể mô phỏng theo nhịp phách này. Nguyên văn bài thơ bằng tiếng Nhật như sau: 天の原ふりさけ見れば春日なる三笠の山に出でし月かも .

Bài thơ này có một bản dịch chữ Hán. Tấm bia khắc bài thơ vẫn còn ở Trường An cũ, tức Tây An ngày nay. Bên trái tấm bia khắc bản dịch chữ Hán của bài thơ, còn bên phải khắc bài thơ tặng Triều Hành của Lý Bạch.

Bản dịch chữ Hán của bài thơ như sau:

Kiều thủ vọng Đông thiên

Thần trì Nại Lương biên

Tam Lạp sơn đỉnh thượng

Tưởng hựu kiểu nguyệt viên

(Dịch thơ:

Ngẩng đầu lên trời Đông

Lòng ngóng về Nại Lương(*)

Ngỡ là vầng trăng sáng

Xưa ở Tam Lạp sơn(**).)

(*) Phiên âm chữ Hán của Nara.

(**) Phiên âm chữ Hán của đỉnh núi Mikasa, thuộc Kasuga, Nara.

Mặc dù thuyền đã xuất bến, nhưng do gặp bão ở trên biển, nên rốt cuộc Trọng Ma Lữ lại quay trở về Đường.

Nói rõ hơn một chút thì đoàn thuyền Khiển Đường sứ khi ấy gồm có bốn chiếc. Thanh Hà và Trọng Ma Lữ đi trên chiếc thuyền số một và cập bến Okinawa bình an vô sự. Nhưng sau đó thì gặp phải giông lớn trên biển trong lúc đi lên Amami-Oshima, khiến thuyền bị dạt xuống tận Việt Nam ngày nay.

Khi nổ ra loạn An Sử, Trọng Ma Lữ bấy giờ năm mươi lăm tuổi đang ở cùng với Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi.

Loạn nổ ra vào năm Thiên Bảo thứ mười bốn (755). Lúc đó Huyền Tông hoàng đế đã cùng Dương quý phi rời Trường An để lánh về đất Thục, người ta cho rằng A Bội Trọng Ma Lữ cũng đi theo cùng. Như đã nói tới, đến giữa đường thì xảy ra sự kiện phản loạn của binh sĩ ở Mã Ngôi Dịch, Dương quý phi bị giết chết theo lệnh của chính Huyền Tông. Nếu Trọng Ma Lữ ở cùng Huyền Tông thì chắc chắn ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc ấy.

Hết loạn, Huyền Tông từ đất Thục về lại Trường An, Trọng Ma Lữ trở thành tả tán kị thường thị. Sau khi Huyền Tông chết, trong những năm Thượng Nguyên đời Túc Tông, Trọng Ma Lữ được bổ làm Trấn Nam đô hộ và nhậm chức tại Hà Nội ngày nay.

Năm 766, Trấn Nam đổi thành An Nam, Trọng Ma Lữ được bổ làm An Nam tiết độ sứ.

Một năm sau, năm 767, Trọng Ma Lữ được cho thôi chức và quay về Trường An, rồi mất sau đó ba năm tại Trường An vào tháng Chạp, năm Đại Lịch thứ năm đời Đại Tông, tức năm 770 theo Tây lịch.

Ông hưởng thọ bảy mươi tuổi...

Khi ấy, Huyền Tông, Dương quý phi và cả Lý Bạch đều không còn trên dương thế.

Ấy là lịch sử viết như vậy.

Tuy nhiên...

Lịch sử cũng truyền lại hậu thế một vài chủ thuyết khác nhau về Dương quý phi. Điểm mấu chốt trong các chủ thuyết này là Dương quý phi, tức Dương Ngọc Hoàn không chết ở Mã Ngôi Dịch mà đã lánh sang nước Bồng Lai.

Nước Bồng Lai, tức là chỉ Nhật Bản. Thật khó mà tin ngay những thuyết kiểu như thế, tuy nhiên trên thực tế đã từng có tới mấy ngôi mộ của Dương quý phi ở Nhật Bản.

Một trong số đó nằm ở Nison-in(*), trên mảnh đất nhìn ra vịnh Yuya thuộc bán đảo Mukatsuku, tỉnh Yamaguchi. Mộ được làm bằng đá, có hình tháp năm tầng.

(*) Tên một ngôi chùa, phiên sang âm Hán là Nhị Tôn Viện.

Có một thuyết giải thích về sự tích của ngôi mộ như sau.

Dương quý phi chết ở Mã Ngôi Dịch thực ra chỉ là thế thân, còn Quý phi thật đã sang đến Nhật Bản bình an vô sự.

Thuyết cũng nói rằng, người vạch ra kế này chính là Cao Lực Sĩ, hoạn quan thân cận nhất của Huyền Tông hoàng đế, và Trần Huyền Lễ, kẻ đã gây ra cuộc phản loạn của binh sĩ, hay nói cách khác chính là kẻ thù của Quý phi.

Cao Lực Sĩ là người được Huyền Tông ra lệnh giết Quý phi, còn Trần Huyền Lễ là một trong những kẻ chủ mưu gây ra cuộc phản loạn, là kẻ chịu trách nhiệm kiểm tra xem Quý phi còn sống hay đã chết. Vì vậy, nếu đây là mưu kế của hai người này thì việc cứu mạng và giúp Quý phi trốn thoát không hẳn là không thể.

Nói cách khác, thuyết này cho rằng kẻ chủ mưu tạo phản ở Mã Ngôi Dịch Trần Huyền Lễ đã rủ lòng thương đối với Dương quý phi đang sắp phải chịu cái chết. Do đó, Trần Huyền Lễ đã bàn với Cao Lực Sĩ, giết một đứa thị tì để làm thế thân và thả cho Quý phi trốn đi.

Việc này xem ra khả thi chính vì Trần Huyền Lễ sẽ là người khám nghiệm tử thi của Quý phi trên chiếc kiệu mà Cao Lực Sĩ đặt Quý phi lên, nhưng liệu lịch sử có đúng như vậy không?

Một thuyết nữa thì cho rằng người ra tay ngầm cứu Dương quý phi khi ấy chính là An Lộc Sơn.

Có sách sử viết rằng, An Lộc Sơn mặc dù lớn tuổi hơn Quý phi nhưng lại trở thành con nuôi của Quý phi là vì hai người đã thông gian với nhau. Nếu xét đến tuổi tác của Huyền Tông thì khó mà nghĩ một Dương quý phi trẻ trung lại cảm thấy thỏa mãn với cuộc sống khuê phòng, hơn nữa chuyện các cung nữ lén lút dẫn tình nhân vào tẩm thất cũng không hiếm trên thực tế. Tuy nhiên, cứ giả sử rằng giữa Quý phi và An Lộc Sơn có mối quan hệ như vậy đi chăng nữa, thì việc An Lộc Sơn ra tay cứu mạng Quý phi trong tình huống đó là chuyện khó có thể nghĩ tới.

Ta quay lại với sự tích của ngôi mộ ở vịnh Yuya.

Quý phi chất lương thảo lên một con thuyền lớn, rồi nhằm thẳng Nhật Bản và nhổ neo ở vùng bờ biển mà nay là Thượng Hải. Con thuyền ấy trôi dạt đến vịnh Yuya.

Tương truyền sau khi dẹp xong loạn An Sử, Huyền Tông vẫn không quên được Quý phi, mới sai phương sĩ sang Nhật Bản đem tặng cho Quý phi hai bức tượng Phật. Quý phi cũng trao cho vị phương sĩ một cây trâm để tặng Huyền Tông, còn mình thì lưu lại Nhật Bản cho đến cuối đời...

Đây là truyền thuyết Dương quý phi vượt biển đến Yuya.

Cũng phải nói thêm, ở khu vực Ansa thuộc Mukatsuku có phát lộ một thanh gươm đồng lưỡi thuôn đúc liền chuôi, thanh gươm đồng đúc liền chuôi đó chứng tỏ vùng đất này đã từng có sự giao lưu với lục địa, người ta lấy đó làm căn cứ để cho rằng Dương quý phi đã tới đây, tuy nhiên theo ý kiến cá nhân tác giả thì căn cứ này không có nhiều tính thuyết phục.

Dẫu sao thì việc tồn tại một tháp đá được cho là mộ Dương quý phi ở Nison-in thuộc vùng Kuzu là có thật. Tháp đá năm tầng này nằm ở chính giữa, xung quanh còn có mười lăm, mười sáu tháp đá năm tầng khác mà người ta đồ là mộ của các thị giả đi cùng Quý phi. Các tháp đá này tương truyền được chế tác vào thời Kamakura(*).

(*) Là thời kỳ Mạc phủ đặt tại Kamakura, kéo dài từ năm 1185-1333.

Trong ngôi chùa Senyuji ở Kyoto có một bức tượng Bồ Tát. Bức tượng này được đặt tại Quan Âm đường và được gọi là Dương quý phi Quan Âm. Như đã nói ở trên, có sách cho rằng, vị phương sĩ được lệnh của Huyền Tông đi tìm Dương quý phi đã tìm tới nước Bồng Lai và để lại hai bức tượng Phật do Huyền Tông ký thác.

Có thuyết nói, một trong hai bức tượng đó chính là Dương quý phi Quan Âm. Tuy nhiên, sự tích của chùa Senyuji lại có nội dung hơi khác.

Đó là một bức tượng Bồ Tát đầu đội mũ vương phi, tay cầm hoa trắng, tuy nhiên theo sự tích, bức tượng do Huyền Tông sai làm để tưởng nhớ cái chết của Quý phi, sau này được nhà sư Trạm Hải(*) chùa Senyuji sang Đường du học vào năm Thiên Chính thứ bảy (1579) mang về.

(*) Âm Nhật đọc là Tankai.

Trong Đô danh sở đồ hội (*) có viết:

(*) Là tập sách địa chí giới thiệu các danh thắng ở Kyoto phát hành dưới thời Edo.

Bản tôn thánh Quan Âm ở Quan Âm đường là bức tượng được tạc y hệt dung mạo Dương quý phi để cầu cho sự an lạc nơi chín suối của Quý phi lúc Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi chia lìa. Bức hoành phi “Phổ Đà Lạc Sơn” cũng là bút tích của Huyền Tông hoàng đế.

Và có một điều thú vị là chùa Senyuji được cho là do chính Không Hải dựng lên.

Cũng trong Đô danh sở đồ hội có đoạn:

Bản tự thoạt kỳ thủy do Hoằng Pháp Đại Sư( *) khai cơ, kế đến năm Tề Hành thứ ba dưới sự trị vì của Văn Đức Đế (**) được Tả Đại Thần Fujiwara-no-Otsugu xây dựng lại, đổi sang Thiên Thai Tông, lấy hiệu là Tiên Du Tự (***) . Bởi do núi này thường có tiên nhân tới chơi.

(*) Tức Không Hải.

(**) Tức Thiên hoàng Montoku.

(***) Âm Nhật đọc là Senyuji.

Ở Atsuta thần cung(*) cũng có một truyền thuyết kỳ quái như sau.

(*) Tên một ngôi đền thần đạo ở tỉnh Ai chi.

Truyền thuyết kể rằng chính vị thần chủ ở đó đã phái Dương quý phi xuống gặp Huyền Tông. Khi biết được Huyền Tông hoàng đế nhà Đường có ý định thâu tóm luôn Nhật Bản sau khi bình định xong hơn bốn trăm châu của Trung Quốc, vị thần chủ đã cử một người đẹp nghiêng nước là Dương quý phi tới Đại Đường hòng khiến cho nước này rơi vào nội loạn.

Vì vậy, khi loạn An Sử nổ ra, Dương quý phi hoàn tất sứ mệnh và chết ở đó, nhưng hồn phách thì bay về nước Bồng Lai, ẩn mình ở đất ấy, đất ấy chính là Atsuta.

Loạn yên, Huyền Tông sau khi trở về Trường An liền sai một phương sĩ có tên là Dương Thông U đi tìm nơi ẩn náu của linh hồn Dương quý phi, vị phương sĩ này dò la được hồn Dương quý phi đang ở núi Bồng Lai của Nhật Bản. Sau khi gặp linh hồn Quý phi, vị phương sĩ quay về Đường, thuật lại với Huyền Tông, Huyền Tông nghe tin thì than trời đau đớn, bệnh càng thêm nặng mà chết...

Truyền thuyết là như vậy.

Cốt truyện kiểu như thế còn có thể thấy trong Tiên truyền thập di (*) và Hiểu phong thư.

(*) Là sách viết về thần tiên của đạo sĩ Đỗ Quang Đình sống ở thời nhà Đường.

Đông Hải quỳnh hoa tập (*) cũng nói đến việc Từ Phúc được lệnh của Tần Thủy hoàng đế đi tìm thuốc trường sinh bất lão ở núi Bồng Lai đã đến Atsuta và nói: “Đây chính là cung Bồng Lai rồi.”

(*) Tập thơ văn chữ Hán do nhà sư Isho Tokugan thuộc dòng Lâm Tế sống ở thời Muromachi viết.

Theo sự tích của Atsuta thần cung, nấm mộ của Dương quý phi nằm về phía Tây Bắc của chính điện. Sau đó được di dời về miếu Kiyomizu và chôn tại đó.

Hơn nữa, ở Atsuta thần cung trước đây có một cái cổng gọi là Xuân Xao Môn. Cổng này được dựng ở phía Đông chính điện vào năm Chu Điểu nguyên niên (năm 686), đến năm Trinh Hưởng thứ ba (năm 1686) thì chuyển về lối tham bái phía Đông nhân việc cải tạo lại đền, và bị cháy rụi do cuộc tập kích của Hoa Kỳ vào tháng Ba năm Chiêu Hòa thứ hai mươi (năm 1945). Chỉ có tấm hoành phi “Xuân Xao Môn” được gỡ xuống là không bị cháy và vẫn còn nguyên. Xuân Xao Môn chính là tên một biệt cung của Dương quý phi.

Như vậy, ở nhiều nơi trên đất nước Nhật Bản, vẫn còn những vùng đất hoặc hiện vật có liên quan tới Dương quý phi.

Ở Trung Quốc cũng có một truyền thuyết tương tự.

Dương quý phi truyền thuyết cố sự kể rằng, trong số các thị tì của Dương quý phi có một người họ Trương rất được Quý phi yêu mến. Người thị tì họ Trương đã mặc y phục của Quý phi để chết thay cho Quý phi. Trương thị múa giỏi, tư dung lại rất giống Quý phi. Nàng hay múa cùng Quý phi nên thường được Quý phi và Huyền Tông hoàng đế chiều chuộng.

Trương thị vô cùng kính trọng Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi nên trong lòng luôn mong mỏi được đền đáp ơn nghĩa đó khi có dịp.

Một ngày, khi loạn An Sử nổ ra, binh lính của An Lộc Sơn đã tiến đánh tới tận hoàng cung. An Lộc Sơn đòi đưa Quý phi ra khỏi hoàng cung và giết đi. Khi ấy, người xin chết thay cho Quý phi chính là Trương thị. Nàng bước lên phía trước, nói: “Nô tì xin được chết thay cho Quý phi”, rồi mặc y phục của Quý phi vào, tiến đến trước mặt An Lộc Sơn và nhận lấy cái chết.

Trương thị được chôn dưới mộ thay cho Quý phi.

Còn Quý phi thì cải trang thành dân thường, trốn đến Tứ Xuyên, sau đó lên một tàu buôn và sang Nhật Bản.

Đây là thời kỳ trị vì của Nữ đế Thiên hoàng Koken(*).

(*) Phiên sang âm Hán là Hiếu Khiêm.

Cuốn sách đó cũng viết rằng, Khiển Đường sứ Triều Hành, tức A Bội Trọng Ma Lữ, đã dàn xếp để Dương quý phi và Thiên hoàng Koken gặp nhau. Lúc bấy giờ, Dương Ngọc Hoàn để chứng minh mình chính là Quý phi đã đích thân múa điệu “Nghê thường vũ y” ở trong cung.

Tại sao lại có một truyền thuyết như vậy còn lưu lại?

Một trong những lý do có thể nghĩ tới đó là Trường hận ca của Bạch Lạc Thiên.

Bối cảnh của cuốn tiểu thuyết này là năm 805, khi ấy Bạch Lạc Thiên vẫn còn chưa cho ra đời Trường hận ca.

Trên thực tế, thiên trường ca này xuất hiện vào năm 806, ngay sau khi Không Hải về nước.

Câu chuyện trong Trường hận ca đã trở thành bối cảnh cho rất nhiều truyền thuyết ở Nhật Bản, ấy là chuyện không có gì phải nghi ngờ.

Cao trào trong thiên trường ca này chính là đoạn một phương sĩ trong khi đi tìm linh hồn đã chết của Dương quý phi theo lệnh Huyền Tông hoàng đế đã tình cờ đến được cung Bồng Lai và gặp nàng ở đó. Quý phi đã rút cây trâm trên tóc mình, bẻ làm đôi, rồi đưa một nửa cho phương sĩ mang về trao Huyền Tông.

Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ

Bất kiến Trường An kiến trần vụ

Duy tương cựu vật biểu thâm tình

Điến hạp kim hoa ký tương khứ

Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến

Thoa tích hoàng kim hạp phân điển

Đãn giao tâm tự kim điến kiên

Thiên thượng nhân gian hội tương kiến

Lâm biệt ân cần trung ký từ

Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri:

Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh điện

Dạ bán vô nhân tư ngữ thì

“Tại thiên nguyệt tác tỷ dực điểu

Tại địa nguyện vi liên lý chi”

Thiên trường địa cửu hữu thì tận

Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ.

(Dịch thơ:

Cõi trần ngoảnh lại mà hay

Trường An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!

Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú?

Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi

Thoa vàng hộp khảm phân đôi

Nửa xin để lại nửa thời đem đi

Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc

Tựa hoa vàng bên chắc không phai

Thời cho cách trở đôi nơi

Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau

Ân cần dặn mấy câu lâm biệt

Lời thề xưa lòng biết với lòng

Là đêm trùng thất ngồi chung

Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người

Xin kết nguyện chim trời liền cánh

Xin làm cây cành nhánh liền nhau

Thấm chi trời đất dài lâu

Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi…(*))

(*) Bản dịch thơ của cố thi sĩ Tản Đà. Người dịch sử dụng bản dịch của cố thi sĩ Tản Đà cho toàn bộ bài thơ Trường Hận ca kể từ đây trở đi.

Sau đó phương sĩ liền quay lại Trường An.

Hầu e hết b các o truyền o thuyết k về f Dương u quý n phi f ở r Nhật e Bản e đều bắt nguồn từ bài thơ này.

Có sách của Nhật Bản nói rằng, Bạch Lạc Thiên đã sáng tác Trường hận ca dựa theo truyền thuyết vừa kể trên, nhưng khả năng ngược lại có lẽ là cao hơn. Câu chuyện trong truyền thuyết có trích dẫn một đoạn trong Trường hận ca , như vậy có thể suy luận rằng truyền thuyết Dương quý phi vượt biển sang Nhật Bản được sáng tác sau sự ra đời của Trường hận ca .

Vậy nhưng…

Bối cảnh nào đã dẫn đến sự ra đời của Trường hận ca làm nguồn gốc cho các truyền thuyết?

Trước khi nói về các truyền thuyết xung quanh Dương quý phi, thiết nghĩ cũng nên đề cập đến một vài sự thật lịch sử ở đây: có một sự thật là Huyền Tông hoàng đế sau khi quay lại Trường An đã từng có ý định cải táng cho Dương quý phi.

Trước hết, ta hãy điểm qua những sự thật lịch sử đó.

Đại từ điển bách khoa thế giới của Nhà xuất bản Heibonsha có viết như sau: “Huyền Tông sau khi về Trường An, đã bí mật cải táng, nhưng không rõ mộ đặt ở đâu.”

Cuốn Lịch sử thế giới (4. Đường và Ấn Độ) của Nhà xuất bản Chuo-Koronsha cũng viết: “Vào tháng Mười hai cuối năm 757, Huyền Tông hoàng đế trở về Trường An trong niềm day dứt khôn nguôi về nấm mồ đã chôn Quý phi ở ven đường Mã Ngôi. Mặc dù được can gián là chưa đến lúc, nhưng Thái thượng hoàng vẫn lén sai hoạn quan cải táng cho Quý phi. Tấm thân mỡ màng ngày nào nay đã trở thành bộ xương tàn, chỉ có chiếc túi thơm bằng gấm là vẫn như xưa. Chiếc túi thơm là kỷ vật nàng mang trên mình trước đây do hoạn quan mang về lại khiến Huyền Tông chìm vào nỗi đau buồn của kỷ niệm.”

Những đoạn trích dẫn nêu trên đều căn cứ vào các ghi chép của “Dương quý phi truyện” trong Cựu Đường Thư hoặc Tư trị thông giám do Tư Mã Quang thời Bắc Tống biên soạn.

Nhân nói đến Cựu Đường Thư , phần “Dương quý phi truyện” trong đó kể rằng: “Khi Huyền Tông định táng Quý phi sang một chỗ đất khác thì Quý phi được bọc bằng một tấm chăn tía trong mộ, khi ấy đã bắt đầu thối rữa. Duy chỉ có chiếc túi thơm là không mục nát mà vẫn còn nguyên.”

Túi thơm là loại túi may bằng vải đựng nhiều loại gỗ thơm khác nhau để lấy hương.

Tác giả của Dương quý phi truyền thuyết cố sự thì viết về việc cải táng như sau: “Không có bằng chứng nào cho thấy mộ của Dương quý phi đã được sửa sang lại như cũ sau khi bị đào lên. Tại sao lại không viết rõ hơn về việc cải táng Quý phi sang một chỗ đất khác?”

Sự thật thì trong Cựu Đường Thư lẫn Đường Thư đều chỉ nhấn mạnh vào chi tiết chiếc túi thơm vẫn còn nguyên vẹn, mà hầu như không đả động gì đến việc di cốt của Quý phi có ở đó hay không.

Vì vậy mà thậm chí còn có thuyết cho rằng, chẳng hóa ngôi mộ ở Mã Ngôi Dịch chỉ là mộ chôn mũ áo, tức “y quán mộ” mà thôi sao?

“Nếu chính sử không ghi rõ, phải chăng là Quý phi vẫn chưa chết?” Tác giả của Dương quý phi truyền thuyết cố sự đã đặt nghi vấn như vậy.

Cũng trong sách này, ở một đoạn khác lại viết, thi thể của Quý phi tuy đã được mai táng nhưng do chiến tranh loạn lạc nên đã bị thất lạc mất.

Vậy là những hoạn quan đảm nhiệm việc đào mộ Quý phi để cải táng đã không bẩm báo với Huyền Tông về sự thật đó.

Lại có chuyện kể rằng, một binh sĩ làm nhiệm vụ dọn dẹp nơi hành hình đã tìm thấy một chiếc hài của Dương quý phi ở nơi đó, anh ta bèn mang về nhà nhưng từ chiếc hài tỏa ra một mùi hương rất lạ.

Ở đây có điểm gì đó khá tương đồng với những mô tả về thi giải tiên(*), người đắc đạo thành tiên khi bay lên trời sẽ bỏ lại y phục, giày dép và thi thể cũng biến mất khỏi huyệt mộ.

(*) Đạo giáo quan niệm tiên có ba bậc: thiên tiên, địa tiên và thi giải tiên. Đạo sĩ sau khi đắc đạo có thể vứt bỏ thân xác mà lên cõi tiên hoặc làm cho thân xác biến mất, chỉ để lại y phục, mũ mão mà bay lên trời, phép đó gọi là thi giải.

Dù sao thì trên thực tế đã có rất nhiều sách vở viết về cái chết của Dương quý phi, và thật thú vị là phần lớn trong số đó đều cho rằng Dương quý phi vẫn còn sống sau sự kiện Mã Ngôi Dịch.