← Quay lại trang sách

Chương XIX Bái Hỏa giáo
1

Trong chiếc lư đặt trên bàn thờ, lửa luôn cháy bập bùng không dứt.

Không gian bên trong tòa nhà xây bằng gạch trắng hoàn toàn tĩnh lặng, mùi lửa hồ như đã lẫn vào không khí.

Chùa Ba Tư…

Tức là đền thờ Hiên giáo.

Hiên giáo, nói theo cách ngày nay là đạo Zoroaster. Tôn giáo này thờ thần lửa, nên còn được gọi là Bái Hỏa giáo.

Không Hải và Dật Thế đang ngồi trước mặt An Tư Tế trong ngôi đền ấy.

An Tư Tế là người Tây Hồ. Hốc mắt lồi ra trước, sống mũi cao. Con ngươi hơi có màu xanh bích.

Mặc dù có tên riêng theo kiểu người Tây Hồ, nhưng ở Trường An, ông được gọi bằng tên chữ Hán là An.

“Cảm ơn cậu đã ra tay giúp cho việc của Từ Văn Cường.” An Tư Tế nói.

Ba người ngồi đối diện nhau qua một chiếc bàn kiểu Tây Hồ. Ghế là loại có tựa lưng làm bằng gỗ trắc. Sau một thôi một hồi hỏi han về Mohammed, rồi chuyện đông chuyện tây với An Tư Tế, Không Hải bèn đi vào chủ đề chính.

“Thật ra hôm nay tôi đến đây là có việc muốn hỏi An Tư Tế…”

“Việc gì vậy? Tôi rất sẵn lòng trả lời cậu nếu đó là việc tôi biết.”

“Chả là lần trước An Tư Tế có kể cho tôi nghe về ‘Karapan’.”

“Ồ, phải rồi. Tôi nhớ là có kể về Karapan với cậu.”

“An Tư Tế bảo rằng Karapan là những phù thủy thờ tà đạo ở Ba Tư…”

“Đúng, đúng. Tôi có nói vậy, nhưng mục đích chính của cậu là hỏi về các Karapan đó hả?”

“Vâng. Nếu được, xin An Tư Tế nói chi tiết hơn về Karapan.”

Nghe Không Hải nói xong, An Tư Tế gật đầu, khẽ hắng giọng.

“Karapan là một từ Ba Tư cổ, vốn bắt nguồn từ Karp.”

“Karp là gì ạ?”

“Karp có thể hiểu là ‘những người làm công việc tế lễ’…”

“Có thể hiểu như là Bà La Môn ở Thiên Trúc được không ạ.”

“Hoàn toàn có thể hiểu như thế. Vì tôi nghĩ các vị thần của Bà La Môn và các vị thần của Karapan đều chỉ là một mà thôi.”

“Nói như vậy nghĩa là?”

“Thần tộc mà Karapan thờ phụng là Deva. Cũng có những Karapan thờ Asura thuộc thần tộc Deva này.”

“Asura chính là…”

“Hình như trong Phật giáo các vị gọi là A Tu La.”

“Ra vậy. Thế thì Deva mà các Karapan thờ phụng chính là Daeva mà các Bà La Môn thờ phụng, phải không ạ?”

“Đúng vậy.”

Daeva, là từ chỉ ma chướng trong Phật giáo, còn trong đạo Hindu thì có nghĩa là ma tộc.

Hình thức nguyên thủy của đạo Bà La Môn từng rất phổ biến ở Thiên Trúc trước đạo Hindu chính là tín ngưỡng sùng bái Deva mà các Karapan ở Ba Tư thời tiền Zoroaster thờ phụng.

“Thời mà giáo tổ Zoroaster của chúng tôi bắt đầu hoàng dương đạo pháp thì ở Ba Tư vẫn còn rất nhiều người thờ phụng Deva. Zoroaster vừa phải giảng đạo cho dân chúng vừa phải chiến đấu chống lại những kẻ này.”

Đúng như lời An Tư Tế nói, thế lực cuối cùng còn kháng cự lại là vương tộc Kavi ở Đông Iran.

Nguyên ngữ của Kavi vốn bắt nguồn từ chữ “Koiẽs” có nghĩa là “trông chừng”. Nhưng sau khi đạo Zoroaster lan ra toàn cõi Ba Tư thì “Kavi” đã biến nghĩa từ “trông chừng” thành “kẻ mù lòa”.

Kavi ở Đông Iran và giáo đoàn của các Karapan được Kavi bảo trợ đã liên kết với nhau chống lại những lời giảng pháp của Zoroaster, nhưng thắng lợi trong cuộc thánh chiến này rốt cuộc đã thuộc về Zoroaster và Bái Hỏa giáo sau đó dần được truyền bá tới tận nhà Đường và Thiên Trúc.

Vương tộc Kavi cuối cùng đã cải đạo sang Bái Hỏa giáo và tiếp tục duy trì vị thế là một vương tộc ở Ba Tư, còn các Karapan thì bị xua đuổi khỏi đất nước và phiêu bạt đi khắp nơi trên thế giới.

Các Karapan này bị tín đồ đạo Zoroaster gọi là tín đồ tà đạo vì chống lại Zoroaster, nên đã chìm dần vào bóng đen của lịch sử.

“Sự kiện ấy xảy ra trước cả khi giáo chủ Phật giáo Thích Ca Mâu Ni ra đời.”

An Tư Tế dường như rất lấy làm tự hào vì giáo lý của Zoroaster lâu đời hơn nhiều so với giáo lý của Phật Đà.

“Các Karapan đã làm gì suốt thời gian sau đó?”

“Họ làm tất cả các phép phù thủy: hô mưa, tìm đồ thất lạc, chữa bệnh vân vân. Nếu chỉ vậy thôi thì không sao, nhưng họ còn làm cả những việc ám muội nữa.”

“Ám muội?”

“Nói cách khác, nếu có thể dùng phép phù thủy để chữa bệnh thì cũng có thể dùng phép ấy khiến người ta mắc bệnh…”

“Hóa ra là những việc như vậy.”

“Tôi nghe nói họ còn nuôi âm binh để gây bệnh hoặc giết người.”

“Rốt cuộc họ sử dụng loại pháp thuật gì?”

“Chuyện xảy ra đã hơn một nghìn năm trước nên tôi cũng không rõ họ dùng loại pháp thuật gì. Không chỉ tôi, mà có lẽ trên đời này chẳng ai biết được.”

“Vậy sao?”

“Tôi cũng từng nghe nói, một trong những bí thuật của Karapan là làm người chết sống dậy…”

An Tư Tế vừa nói đến đó thì Dật Thế đột nhiên kêu lên: “Người chết sống dậy?”

“Phải.”

“Làm gì có chuyện đó…” Dật Thế đúng là một người theo Nho giáo.

Người theo Nho giáo được dạy không nên bàn về thần thánh hay yêu ma, quỷ quái, không phải vì “không tồn tại những hiện tượng kỳ quái trên đời này”, mà chỉ đơn giản vì giáo điều bảo chớ có bàn về những chuyện như thế mà thôi.

Đi cùng Không Hải, Dật Thế đã chứng kiến rất nhiều chuyện kì quái diễn ra ngay trước mắt.

Tuy nhiên, có một thứ lý lẽ bất khả tư nghị trong con người Không Hải, kỳ lạ thay, đã khiến cho Dật Thế sẵn sàng chấp nhận cả những chuyện mà hiếm khi cậu ta chấp nhận.

Nghĩa là, ngay cả đối với những chuyện kỳ quái, Dật Thế cũng có thể bị thuyết phục nếu lý lẽ ấy là hợp lý.

Song le, nói rằng trên đời này có một phép thuật nào đó khiến người chết sống dậy…

…thì hãy hượm đã.

Một thắc mắc nảy sinh bên trong Dật Thế.

Nếu người chết sống dậy thì, nói thế nào nhỉ, chẳng hóa ra mọi ý nghĩa đều biến mất khỏi các hiện tượng trên thế giới này hay sao? Dật Thế đang nghĩ như vậy.

Chẳng phải tất cả những thứ mà con người nếm trải: nỗi buồn, niềm vui, sự cay đắng, đều sẽ mất đi ý nghĩa của chúng hay sao?

Giả sử có phép thuật nào đó giúp cho con người khỏi chết, thì chẳng phải mọi sự hài hước và vui vẻ đều biến mất khỏi đời người hay sao?

Phật pháp có câu: sinh gia tất diệt . Nghĩa là có sinh ắt có diệt, hay nói cách khác cái gì sống thì đều phải chết. Nói về Phật pháp, Dật Thế tuy là kẻ ngoại đạo, song ít ra cũng hiểu được lý lẽ này.

Giáo lý của cả Nho lẫn Phật đều lấy cái lẽ có sinh ắt có diệt làm tiền đề tất yếu. Không chỉ có vậy. Mọi nguyên tắc trong nhân giới này: cha mẹ và con cái, chủ nhân và tôi tớ, đều dựa trên cái lẽ đó mà hình thành.

Có sống mà không có chết thì gay go quá… Ấy là tâm trạng của Dật Thế lúc này.

Vì thế mà Dật Thế mới buộc miệng kêu lên.

“Đó là điều tôi được nghe kể. Tôi từng nghe người ta nói về thuật dùng kim hay gì đó, nhưng cũng không dám chắc rằng thuật ấy có tồn tại trên đời này thật không.”

“Hừm.” Dật Thế biểu lộ một nét mặt khó tả.

“Xin hỏi An Tư Tế đã bao giờ nghe nói có một Karapan nào như thế tới Trường An này chưa ạ?” Không Hải hỏi.

Ánh mắt An Tư Tế thoáng để lộ ra một vẻ bối rối.

“Có, tôi có từng nghe.” An Tư Tế đáp.

“Chuyện như thế nào ạ?”

Nghe Không Hải hỏi, An Tư Tế bỗng sa sầm nét mặt.

“Phải chăng là chuyện khó nói?”

“Đúng vậy.”

An Tư Tế gật đầu, rồi không nói gì thêm.

Một lát sau, An Tư Tế gật đầu thêm cái nữa với vẻ quả quyết.

“Chuyện khó nói, nhưng tôi sẽ kể cho cậu nghe.”

“Cám ơn ông.”

“Lần trước gặp cậu, tôi từng nói với cậu rằng, khi ánh sáng được đem tới một vùng đất nào đó thì đồng thời, cái bóng của ánh sáng ấy cũng sẽ tới theo…”

“Tôi vẫn còn nhớ.”

“Nói cách khác, khi những lời dạy của thần thánh được truyền bá tới một vùng đất, thì đồng nghĩa với nó, những lời dạy của ma quỷ cũng sẽ được truyền bá theo sau.”

“Vâng.”

“Những lời dạy của Zoroaster cũng giống như vậy. Sự thờ phụng Deva đã được đem tới Trường An này cùng với sự thờ phụng Zoroaster.”

An Tư Tế trút ra một tiếng thở dài khó nhọc.

“Nói ra thì thật hổ thẹn, nhưng không phải tất cả những người Ba Tư ở đây đều đến ngôi đền này. Không ít người đã tìm đến một nơi khác. Nhiều khi cùng là một người, nhưng họ có thể vừa đến đây lại vừa đến nơi ấy.”

“…”

“Nơi khác ư?”

“Phải. Con người ta không chỉ quỳ trước đấng thần linh, mà đôi khi còn lui tới những nơi như vậy nữa.”

“Họ tìm đến những nơi như thế nào?”

An Tư Tế nhắm mắt lại khi nghe câu hỏi của Không Hải.

“Đến chỗ các Karapan.”

An Tư Tế nói như để nhổ một vật lạ ra khỏi miệng mình.

“Như thế có nghĩa là các Karapan cũng có mặt ở Trường An này…”

“Có đấy.”

Nói đoạn, An Tư Tế lại mở mắt ra nhìn Không Hải.

“Con người ta đôi khi cũng cần đến cái ác. Có những người Tây Hồ tìm đến Karapan để nhờ họ giết chết kẻ đã cướp người đàn ông của mình hoặc khiến cho kẻ tước đoạt ruộng đất của mình bị mất mùa.”

“Quả thật là có chuyện đó sao…”

“Ở Trường An này, chắc chắn có một số ít những người Ba Tư như thế…”

“Ông có biết những Karapan ấy là người như thế nào và sống ở đâu không?”

“Tôi không biết.”

An Tư Tế lặng lẽ lắc đầu.

“Những chuyện cụ thể như thế không đến được chỗ tôi. Nhưng có thể là…”

“Có thể là?”

“Mohammed sẽ biết được điều gì đó.”

“Anh Mohammed sao?”

“Cho dù cậu ấy không nắm được trực tiếp thì cũng có thể giới thiệu cho cậu người nào đó biết chuyện.” An Tư Tế nói.

❖ 2 ❖

“Không Hải này, chuyện đó có thật không?”

Dật Thế hỏi trong lúc bước đi bên cạnh Không Hải.

Hai người vừa cáo từ An Tư Tế và ra khỏi đền thờ.

Trên phố, ai nấy đều bước đi với những suy tư riêng.

Có người chất đầy các loại bình lọ trên xe lừa, chắc là mang đi bán ở chợ Đông.

Cũng có người cõng hàng trên lưng chạy tất tả.

Đàn ông và đàn bà.

Trường An với những dòng người hoạt động không ngừng nghỉ.

“Chuyện gì?”

“Cái chuyện mà An Tư Tế nói đến ấy. Chuyện người chết sống dậy liệu có thật không?”

“Ừm…”

“Ơ kìa, cậu có phải môn đồ Phật giáo không đấy? Con người mà không chết thì gốc rễ của Phật giáo sẽ thế nào?”

“Thì sẽ thế nào nhỉ?”

“Cậu hờ hững vừa chứ Không Hải! Cậu không quan tâm đến chuyện đó à?”

“Tớ quan tâm chứ. Nên mới đang đi đây.”

“Đang đi đâu?”

“Tớ định đi đến chỗ anh Mohammed.”

“Cậu định hỏi tiếp câu chuyện ban nãy à?”

“Ừ.”

“Liệu có ra được điều gì hay hớm không?”

“Tớ chịu. Cứ phải gặp cái đã.” Không Hải trả lời Dật Thế rồi bước tiếp.

Trong khi đó, Dật Thế vừa đi bên cạnh vừa luôn mồm lẩm bẩm điều gì đó.

Bụi đỏ cuộn tung sau những chiếc xe chở hàng.

Trường An đã vào tháng Ba.

❖ 3 ❖

Chợ Tây…

Bên trong chiếc lều trắng, Không Hải và Dật Thế đang ngồi trước mặt một người đàn ông vừa chớm bước sang tuổi già. Họ ngồi xếp bằng trên tấm thảm trải dưới đất. Xung quanh ba người có cơ man các loại bình lớn nhỏ. Đó là những chiếc bình Hồ.

Không chỉ bình, mà còn có cả những chiếc ấm rót nước cổ dài và ly tách.

Mặt trời đang chiếu thẳng xuống lều, bên trong chan hòa ánh sáng. Bên ngoài, tiếng người huyên nào, tiếng rao bán vang lên không ngớt. Thỉnh thoảng lại có tiếng xe chở hàng hoặc tiếng vó ngựa vọng tới, chứng tỏ căn lều này được dựng lên ở một chỗ cũng khá sầm uất trong chợ Tây.

Trước mặt ba người là những chiếc tách đã được rót đầy trà, hương thơm của trà thoang thoảng tan vào không khí.

Trên gương mặt người đàn ông hiện lên vẻ bối rối. Râu cằm đã có những sợi bạc, sống mũi cao. Con ngươi nấp trong hốc mắt sâu có màu ngọc bích.

Đó là một người Hồ, Mohammed.

“Chuyện này làm tôi khó nghĩ quá.” Mohammed lẩm bẩm. “An Tư Tế bảo cậu tới hỏi tôi phải không?”

“Vâng.”

“Thôi được rồi. Nể tình cậu Không Hải đã giúp đỡ tôi trong nhiều việc…”

“Vậy là có người như thế phải không?”

“Có.” Mohammed gật đầu quả quyết.

“Karapan đó làm những công việc như thế nào?”

“Làm những việc đúng như An Tư Tế đã nói với cậu.”

“Tìm đồ vật thất lạc, tiên đoán những thứ sắp xảy ra?”

“Phải. Nhưng tôi nghe nói họ không nhận những việc vặt vãnh.”

“Nói thế nghĩa là?”

“Ý là tiền ấy. Chẳng hạn những người buôn bán như bọn tôi thì phải giả lễ cho Karapan một khoản bằng với số tiền bán hàng của hai tháng.”

“Một khoản lớn đấy chứ.”

“Nếu có yêu cầu, họ còn làm cả những phép như yểm bùa hoặc cổ độc nữa.”

“Yểm bùa sao?” Dật Thế nhíu mày.

“Cậu biết phép đó sao?”

“Ở nước Oa cũng có những người làm phép yểm bùa…” Dật Thế trả lời bằng tiếng Đường.

Đúng như Dật Thế nói, ở nước Oa thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện phép yểm bùa. Tuy phải sau đó ít lâu thì phép này mới thực sự trở nên phổ biến ở Nhật Bản, nhưng nó cũng đã nổi tiếng đến mức mà ngay cả Dật Thế còn không hề lấy làm xa lạ.

Yểm bùa là một phép phù thủy sử dụng hình nhân bằng giấy hoặc các chất liệu khác, được làm giống như người cần yểm, rồi trù ếm người ấy thông qua hình nhân.

Cúng giờ Sửu phổ biến ở Nhật Bản cũng là một trong các phép yểm bùa. Người dùng phép này sẽ đợi đến giờ Sửu(*), rồi dùng đinh năm tắc đóng hình nộm bằng rơm viết tên kẻ muốn yểm lên thân cây giữa rừng sâu không có người.

(*) Tức khoảng thời gian từ 1-3 giờ sáng.

Phép thứ hai gọi là cổ độc. Phép này dùng động vật để làm chú.

Ví dụ người ta sẽ bắt vô số các sinh vật cùng chủng loại, chẳng hạn như cóc hay rắn, thả vào một cái chum lớn rồi đậy nắp lại và không cho chúng ăn uống gì. Đến một lúc, chúng bắt đầu ăn thịt lẫn nhau và chỉ còn lại một con duy nhất.

Người ta có thể dùng tinh linh của con vật duy nhất còn lại để làm ma xó và gửi đến chỗ kẻ thù, hoặc giết chết nó để làm bùa chú.

Ở Nhật Bản, đã từng có những quý tộc phải chịu thất thế vì bị nghi ngờ dùng phép cổ độc.

“Bọn họ thường dùng những loại sinh vật nào để làm phép cổ độc?” Không Hải hỏi.

“Ừm, hình như bọn họ sử dụng từ rắn rết, sâu bọ cho đến cả mèo.” Mohammed trả lời.

“Mèo!?”

“Phải.”

Không phải thời nhà Đường mà vào thời nhà Thanh, có một bộ sách nhan đề Nam Cao bút kí do Dương Phụng Huy viết, ở quyển thứ tư “Cổ độc kí” có kể một chuyện về phép cổ độc dùng mèo như sau.

Truyện rằng có một thầy vu thuật tên là Chu Minh Cao.

Người này học theo Hà Nam giáo, có thể làm những phép kỳ lạ và khắc chế được tà ma, quỷ quái.

Một đêm, Chu thấy một con mèo đi vào nhà mình.

“Quái lạ!”

Chu tự nhủ, chắc là có kẻ nào đó định dùng cổ thuật để hại mình.

Chu dùng bùa chú khắc chế con mèo, bắt lấy nó, cho vào trong chum.

Ngày hôm sau, có người tìm đến nhà Chu hỏi: “Ông có thấy con mèo nào không?”

“Có chuyện gì thế?”

“Con mèo nhà tôi lạc đâu mất nên giờ tôi đang đi tìm nó.”

“Trong chum đó có một con mèo đấy.”

Người kia nhìn vào chum thì quả nhiên thấy con mèo nọ trong đó.

“Xin ông hãy trả lại tôi con mèo. Nó thật ra là vợ tôi.”

Người ấy xin Chu đoái lòng thương mà cứu mạng con mèo. Nhưng Chu lắc đầu không chịu.

“Tôi phải trừ hại vì dân chúng.”

Nghe Chu nói vậy, người kia tấm tức ra về.

Sau đó, Chu đổ nước nóng vào trong chum giết chết con mèo.

Ít lâu sau, Chu nghe được rằng người vợ trẻ của kẻ dùng cổ thuật nọ đang ngủ trên giường bỗng hét lên: “Nóng quá, nóng quá!” và lăn ra chết.

Toàn thân trợt hết da, máu thịt chảy ròng ròng rồi tắt thở.

Nội dung của câu chuyện là như vậy.

“Không Hải này, nói đến mèo thì chẳng phải có một con ở nhà Lưu Vân Tiêu đấy là gì…” Dật Thế nắm lấy tay áo Không Hải.

“Cậu biết chuyện gì đó về con mèo hay sao?”

“Vâng.”

“Chuyện đó như thế nào?”

Không Hải ngập ngừng trước câu hỏi của Mohammed.

“Nếu là vụ việc của Lưu Vân Tiêu thì tôi đã nghe Ngọc Liên kể sơ qua rồi, nhưng ví như có điều gì khó nói thì tôi cũng không nài cậu nữa.”

“Không ạ, về việc Lưu Vân Tiêu thì tôi không có gì cần giấu. Nhưng nếu đã kể về việc con mèo, thì tôi cũng lại phải kể thêm cả chuyện về vị Liễu Tông Nguyên kia nữa.”

“Liễu Tông Nguyên là người đã đi cùng cậu đến ruộng bông của Từ Văn Cường phải không?”

“Phải. Có một vài chuyện tôi nghe được từ ông Liễu mà ông ấy nói cần giữ kín.”

“Tôi hiểu ý cậu rồi. Nghĩa là cậu không thể tiết lộ những điều bí mật nghe được từ Liễu Tông Nguyên đúng không?”

“Vâng ạ.” Không Hải gật đầu.

Chuyện cần giữ kín ở đây chính là bức văn của Triều Hành, tức A Bội Trọng Ma Lữ viết bằng tiếng Đại Hòa. Còn một chuyện nữa mà Không Hải cũng chưa thể kể là việc thi thể của Dương quý phi đáng lẽ phải nằm trong ngôi mộ ở Mã Ngôi Dịch thì đã biến mất khỏi chiếc quan tài đá từ lúc nào.

Nhất là về bức văn của Triều Hành, để đưa bọn Không Hải đến chỗ hẹn, Liễu Tông Nguyên đã lên một kế hoạch kỹ lưỡng tới mức trước tiên còn cho xe ngựa đi lòng vòng trong thành Trường An để chắc chắn rằng không bị bám đuôi.

Chuyện về bức văn của Triều Hành là chuyện mà Liễu Tông Nguyên nhất mực muốn giữ kín. Thành thử không có sự đồng ý của đương sự thì không thể tùy tiện kể với người khác.

Liễu Tông Nguyên bây giờ là nhân vật đang dự vào trung tâm quyền lực của Đế quốc Đại Đường.

Mohammed hiểu điều này.

“Thành thật xin anh thứ lỗi, tôi có thể kể cho anh mọi chuyện ngoại trừ điều mà ông Liễu Tông Nguyên muốn giữ kín.”

“Không sao cả. Được cậu kể cho nghe ngọn ngành đã là may mắn rồi. Mà Không Hải ạ, biết được cậu là người đáng tin cậy, tôi lại càng vui hơn.”

“Thật không dám.”

Thế rồi Không Hải thuật lại cho Mohammed diễn biến của vụ việc cho tới lúc bấy giờ.

❖ 4 ❖

“Trời, thật là một chuyện không thể tin nổi…”

Câu chuyện của Không Hải vừa kết thúc thì có tiếng con gái vang lên.

Tấm rèm buông trước cửa ngôi lều được vén lên, ba cô gái người Hồ xuất hiện.

Trisnai.

Tursungri.

Griteken.

Đó là ba cô con gái của Mohammed.

Người vừa cất tiếng là cô cả Trisnai. Thỉnh thoảng ba cô sẽ biểu diễn điệu múa Hồ tuyền vũ ở quảng trường chợ Tây để xin tiền của khách, nhưng công việc chính vẫn là phụ giúp cha các cô ở cửa hàng này. Hôm nay biết có Không Hải đến và đang nói chuyện gì đó với cha mình ở trong lều, nên có vẻ các cô không thiết làm việc cho lắm.

Các cô nhân lúc bên ngoài vãn khách đã chui vào lều để nghe chuyện của Không Hải.

“Mấy cái đứa này, hóa ra đã nghe lỏm chuyện từ lúc nãy đấy hả…” Mohammed nói như quở trách.

“Ơ kìa, bọn con có nghe dấm nghe díu đâu nào. Bọn con vẫn đứng đường hoàng thế này từ nãy tới giờ.” Tursungri chu môi.

“Cha độc chiếm thầy Không Hải là ăn gian.” Lần này là Griteken.

“Vậy là thầy Không Hải muốn biết nơi ở của Karapan phải không?” Trisnai cất tiếng như để gạt hai cô em ra.

“Phải rồi. Nên tôi mới hỏi chuyện anh Mohammed đây.”

“Nếu vậy thì ngay ở đằng Bình Khang Phường ấy ạ…” Trisnai nói.

“Con bé này, sao lại biết cả chuyện đấy nữa…” Mohammed để lộ vẻ mặt bất lực.

“Cái gì cần biết con đều biết hết đấy nhé. Có hai lần con bắt gặp khách đến cửa hàng mình bảo là đi cho mèo ở Bình Khang Phường, chẳng phải thế là gì…”

“Cho mèo ở Bình Khang Phường tức là cho vị đạo sĩ người Hán ở trong ngôi nhà giống nhà bình thường hơn là đạo quán ấy phải không?” Không Hải hỏi Trisnai.

“Nào tôi đã đến đó bao giờ đâu…”

“Cậu nói đúng đấy Không Hải.” Mohammed trả lời thay con gái. “Có lẽ đúng là chỗ mà cậu đang nói đến. Tuy ra vẻ như một đạo quán do người Hán làm chủ. Mà thực tế, quả cũng có một người Hán làm nghề đạo sĩ ở đó, những kỳ thực, nó giống như một nơi để liên lạc với Karapan…”

“Liệu có phải chính đạo sĩ người Hán ấy là Karapan không?”

“Tôi không nghĩ là như thế.”

“Vậy sao.”

“Nhưng có một điều rất lạ Không Hải ạ, ấy là bắt đầu từ khoảng mùa hè năm ngoái, tôi không còn nghe thấy những đồn đại không hay về chỗ đó nữa.”

“Đạo sĩ ấy đã bỏ nghề?”

“Chà, tay đạo sĩ ấy đã bỏ nghề hay là không thể liên lạc được với Karapan thì tôi không rõ, nhưng theo tôi biết thì suốt từ bấy tới giờ, Karapan ở Bình Khanh Phường hình như không còn hành nghề nữa.”

“Gần đây thì sao ạ? Cả đạo sĩ lẫn mèo đều biến mất khỏi ngôi nhà ở Bình Khang Phường đúng không?”

“Cậu nắm rõ thật đấy.”

“Có một cô gái trẻ thường hay ra vào chỗ đó phải không ạ?”

“Một cô gái trẻ?”

“Anh không nghe Ngọc Liên kể gì sao?”

“Ngọc Liên ấy hả?”

“Có vẻ như Lệ Hương trước đây thường hay lui tới nơi đó…”

“À, chuyện đó thì tôi có nghe. Nhưng không ngờ ngôi nhà của đạo sĩ mà Lệ Hương thường hay lui tới lại chính là ngôi nhà ở Bình Khang Phường đó.”

“Chị em Ngọc Liên không hề biết đến ngôi nhà đó sao?”

“Có lẽ vậy. Tôi nghĩ các cô ấy chưa biết đến sự tồn tại của Karapan đâu. Trong số những người Hồ ở Trường An cũng chỉ có một vài kẻ sẵn tiền mới biết đến Karapan mà thôi…”

Hóa ra là vậy, Không Hải gật gù.

“À, thế anh có biết đạo sĩ trong ngôi nhà ở Bình Khanh Phường và Karapan hiện giờ đang ở đâu không?” Không Hải hỏi Mohammed.

“Chà, cái đó thì…” Mohammed lắc đầu. “… tôi chịu chết.”

“Hay là anh có biết ai biết chuyện không?”

“Để xem nào…”

Thấy cha mình tỏ vẻ đăm chiêu, Trisnai đã chui hẳn vào trong lều từ bao giờ, liền cất tiếng: “Cha này, có khi cái ông ấy lại biết cũng nên?”

“Cái ông ấy là ông nào?”

“Cái ông nói chuyện về ngôi nhà ấy ở cửa hàng của mình mà con vừa nhắc tới đó.”

“Là ai mới được chứ?”

“Arun Rashid, người bán thảm đó.”

“Ông ta ấy hả?”

“Vậy là có người biết chuyện phải không ạ?” Không Hải xen ngang vào câu chuyện của hai cha con.

“Có thì có đấy, nhưng mà…”

“Nhưng mà làm sao ạ?”

“Ông ta không phải người có tiếng tăm tốt.”

“Vậy à…”

“Theo lời cậu kể thì chuyện này có liên quan tới tính mạng của Hoàng đế phải không?”

“Đúng vậy.”

“Tôi phải giải thích ra sao với Arun Rashid về điều đó?”

“Nghĩa là nếu không giải thích đầu đuôi sự việc thì ông ta sẽ không chịu nói gì?”

“Có lẽ vậy.”

“Vậy thì tôi sẽ nói cho ông ta biết trong chừng mực có thể.”

“Nhưng nếu làm vậy thì một kẻ có linh cảm nhạy bén như ông ta sẽ đánh hơi ra mất.”

“Đánh hơi?”

“Đánh hơi thấy mùi tiền.”

“Tiền nghĩa là sao ạ?”

“Thể nào ông ta cũng đòi cậu Không Hải một khoản tiền rồi mới chịu tiết lộ. Nếu biết chuyện này có thể ra tiền thì chẳng biết ông ta sẽ ra giá bao nhiêu…”

“Trước mắt hẵng cứ gặp ông ta cái đã, anh Mohammed ạ. Chuyện tiền nong ta lo sau cũng được…”

“Tôi hiểu rồi.”

“Vậy khi nào tôi có thể gặp được ông ta?” Không Hải hỏi Mohammed.