Chương XXII A Bội Trọng Ma Lữ
1
“Dật Thế này, tớ bối rối quá...”
Hôm nay Không Hải ăn nói rất lạ. Nhưng vẻ mặt thì hoàn toàn nghiêm túc.
Dật Thế nhìn Không Hải với ánh mắt khó tin. Ngọn lửa đỏ trên chiếc đèn dầu duy nhất chập chờn hắt lên mặt Không Hải.
“Có chuyện gì vậy, Không Hải?”
“Không như tớ dự liệu.”
“Cái gì cơ?”
“Rất nhiều chuyện.” Không Hải thở dài.
“Lẽ thường tình thôi mà.”
“Phải rồi. Đa phần mọi chuyện diễn ra không suôn sẻ, chỉ có số ít là suôn sẻ, âu cũng là lẽ thường tình.”
“Cũng bởi vì cậu tài năng hơn người, nên cứ nghĩ mọi chuyện lúc nào cũng phải suôn sẻ. Nhưng thực chất, không suôn sẻ mới là lẽ thường tình của con người...”
“Có lẽ thế thật.”
“Tớ thật bối rối khi thấy cậu gật đầu ngoan ngoãn kiểu ấy. Không Hải này, ngoan ngoãn chẳng giống cậu chút nào.”
“Ừm.”
“Có chuyện gì à?” Lần này đến lượt Dật Thế tỏ ra nghiêm túc.
“Dật Thế à, tớ cứ tưởng là tớ rất hiểu con người.”
“Ờ.”
“Tớ cứ nghĩ rằng, con người ta, dù có cố gắng thế nào đi chăng nữa, thì rốt cuộc cũng chẳng thể thoát ra khỏi cái cõi giữa trời và đất này...”
“...”
“Vậy mà sao lại thú vị đến thế cơ chứ.”
“Thú vị?”
“Ừ.”
“Cậu đang nói gì thế?”
“Tớ đang nói, con người thú vị.”
“Tớ tưởng là cậu đang nói cậu không hiểu cái gì cơ mà.”
“Đúng vậy. Con người thú vị vì không thể hiểu hết được.”
“Cái gì!?”
Dật Thế không sao hiểu được điều Không Hải đang nói.
“Dật Thế ạ, cho tới lúc này, tớ đã bày ra không biết bao nhiêu là mưu mẹo. Giờ ngẫm lại mới thấy, đó đều là bởi tớ cứ tưởng rằng tớ hiểu con người.”
“Mưu mẹo như thế nào?”
“Ví dụ như đối với Đằng Nguyên Cát Dã Ma Lữ chẳng hạn.”
“Cậu đã làm gì ông ta à?”
“Trước lúc ông ta lên đường về Nhật Bản, tớ đã nói một câu.”
“Câu gì?”
“Dù sao thì khi thiên tử Đại Đường băng hà, sứ tiết Nhật Bản cũng đang có mặt ở Trường An. Lẽ nào ông lại định vờ như không biết? Làm vậy há chẳng khiến vua tôi Nhật Bản xấu mặt hay sao? Tớ đã nói vậy.”
“Cậu đang nói về việc Đức Tông hoàng đế băng hà đúng không?”
“Đúng rồi. Ý tớ là, sau khi sứ đoàn trở về, thì cũng nên tâu với Chúa thượng ngõ hầu sửa sang mũ áo, sắm sanh lễ vật mà cử sứ thần sang phúng điếu mới phải...”
Đoàn Khiển Đường sứ lần này tất nhiên không phải sang Đường để phúng viếng.
Nói thẳng ra, mục đích là cống tiến phương vật, lấy lòng triều đình nhà Đường để nhà Đường chấp thuận cho các lưu học sinh được lĩnh hội văn hóa Đại Đường. Không ngờ Hoàng đế nhà Đường lại băng hà vào đúng dịp ấy.
Đằng Nguyên Cát Dã Ma Lữ là người dẫn đầu đoàn Khiển Đường sứ tuy đã tham dự tang lễ và bày tỏ lòng thương tiếc, nhưng không phải trên tư cách là đại diện chính thức cho triều đình Nhật Bản.
Đúng như Không Hải nói, triều đình Nhật Bản phải cử riêng một sứ thần khâm mệnh nhà vua sang bày tỏ lòng thương tiếc mới là hợp đạo lý theo quan niệm ở thời kỳ này.
Tuy nhiên...
“Nhưng như thế thì sao?”
“Nếu thuận lợi thì chỉ một hoặc hai năm nữa sẽ có sứ giả từ Nhật Bản sang phúng điếu.”
“!?”
“Tớ định bụng sẽ theo đoàn thuyền từ Nhật Bản sang vào dịp đó để trở về.”
“Cậu bảo trở về?”
“Ừ.”
“Nghiêm túc đấy chứ?”
Không có gì lạ khi Dật Thế la toáng lên.
Cả Không Hải lẫn Dật Thế đều dự định ở lại Đường hai mươi năm để học Mật giáo và Nho giáo. eBookFunFree Vì mục đích ấy, họ đã phải huy động một số tiền không nhỏ nhằm sang được Đường. Nếu quay về sau một hoặc hai năm thì có nghĩa là đã vi phạm hợp đồng, không khéo còn bị tội lưu đày.
“Thì ý định ban đầu của tớ là như thế.” Không Hải gãi đầu vẻ áy náy.
“Thế còn Mật thì sao? Hai năm liệu đã hòm hòm chưa?”
“Tớ đã lên kế hoạch để đạt được điều ấy.”
“Bằng cách nào?”
“Tớ đã nói với cậu một lần rồi thì phải, tớ định sẽ tạo dựng cho nhà sư Không Hải tới từ nước Oa một tiếng tăm lừng lẫy rồi mới đến Thanh Long Tự để gặp hòa thượng Huệ Quả.”
“Bằng cách ấy thì hai mươi năm sẽ rút lại còn hai, ba năm?”
“Có lẽ...”
“Có lẽ là sao?”
“Dật Thế à, tớ đã mang sang đây số tiền đủ để sinh sống trong vòng hai mươi năm. Nhưng nếu tớ tiêu hết trong vòng hai năm thì sẽ thế nào?”
“Trong vòng hai năm?”
“Tớ đã từng nghĩ, giả sử hòa thượng Huệ Quả đồng ý bán Mật với giá ấy thì tớ cũng chấp nhận.”
“Bán Mật?”
“Ừ. Tức là tớ sẽ chồng hết số tiền của hai mươi năm để mua Mật từ hòa thượng Huệ Quả.”
“...” Dật Thế không còn lời nào để nói.
“Nghe này, Dật Thế. Nếu hòa thượng Huệ Quả chấp nhận và tớ thấy thỏa đáng thì dù mua Mật bằng tiền hay thọ nhận Mật bằng tài năng cũng đều tốt cả.”
“Thật vậy sao?”
“Nghĩ cho cùng thì Mật là như vậy. Một khi thầy đã quyết định truyền lại cho đệ tử thì mua bằng tiền hay đánh cắp cũng đều được cả. Kẻ đáng được nhận, chính vì có đủ tự tin, nên nhất định sẽ được nhận, dù cho phương tiện đó là tiền hay là gì đi chăng nữa.”
“Ừ hừm.”
“Cậu thử nghĩ mà xem. Chúng ta sống ở đây hai nươi năm, nhưng có gì đảm bảo rằng chúng ta sẽ được trở về sau hai mươi năm ấy?”
“Hừm.”
“Ngài A Bội Trọng Ma Lữ rốt cuộc đã phải gửi thân ở xứ này mà chẳng bao giờ được trở về.”
“Ừ hừm.”
Trên thực tế, thuyền Khiển Đường sứ chỉ còn sang một lần duy nhất để phúng viếng vào mùa xuân một năm sau đó. Sau chuyến thuyền này, bản thân chế độ Khiển Đường sứ đã bị bãi bỏ.
Có thể cho rằng, Không Hải đã đoán trước được tương lai một cách chính xác.
“Giả sử chúng ta có thể trở về sau hai mươi năm thì khi ấy tớ đã hơn năm mươi tuổi. Cứ cho rằng tớ sống thêm được mười năm nữa, thì trong phần đời còn lại ấy tớ sẽ làm được những gì ở quê nhà? Có lẽ tớ sẽ chẳng thể làm nổi một nửa số việc tớ định làm...”
“Những việc cậu định làm ở quê nhà là gì?”
“Để xem nào...”
Không Hải gãi mũi.
“Như là việc biến Nhật Bản thành một đất nước Phật giáo chẳng hạn.”
“Đất nước Phật giáo?”
“Tớ muốn dùng Mật để phù phép lên đất nước ấy.”
“Cậu muốn nói mười năm là không đủ để làm việc ấy?”
“Không đủ.”
“Cậu nghiêm túc chứ?”
“Tớ nghiêm túc. Sau khi hoàn tất việc học tiếng Phạn thì phần chuẩn bị về phía tớ coi như đã xong. Việc còn lại chỉ là hòa thượng Huệ Quả chuẩn bị đến đâu rồi mà thôi.”
“Ý cậu là sao?”
“Tức là hòa thượng Huệ Quả sẽ cần tìm hiểu xem tớ có phải người xứng đáng để truyền Mật hay không.”
“Cậu là một tay chuyên nói những điều không thể tin nổi.”
Dường như Dật Thế còn chưa sẵn sàng cho việc tỏ ra bất ngờ.
“Không Hải này, cậu chớ có nói những điều như vừa rồi trước mặt người khác đấy. Nhớ là chỉ nói với tớ thôi...”
“Thì thế tớ mới nói riêng với cậu. Tớ chưa hề nói với ai khác. Sau này cũng thế.”
“Hừm.” Dật Thế chăm chú nhìn Không Hải, rồi thở dài nói: “Tớ thật không thể nắm bắt hết được con người cậu.”
“Thế đấy, tớ đã từng nghĩ rồi đâu sẽ vào đấy cả.”
“Ừm.”
“Nhưng mà Dật Thế ơi, con người là giống thú vị không ngờ.”
“Thế tóm lại là thế nào?”
“Tớ bỗng nhận ra, chẳng phải mọi toan tính và mưu mẹo đều là vô ích trước cái giống người thú vị ấy hay sao? Thật ra thì là do tớ ngạo mạn mà thôi.”
“Hình như đã có lần cậu nói như vậy...”
“Tóm lại là, bây giờ thì tớ nghĩ rằng, cũng không cần phải gắng sức để quay về sớm làm gì.”
“Hả!”
“Nếu có thể quay về sớm thì thật tốt. Nhưng nếu không thể quay về thì cũng chẳng sao.”
“...”
“Trường An này là một cái lò luyện người.” Không Hải nhấn giọng. “Phải kết thúc cuộc đời mình trong cái lò luyện người đầy thú vị là Trường An này có khi cũng lại là một điều thú vị.”
Không Hải nói với vẻ mặt điềm nhiên.
Không Hải vừa nói đến đó thì từ trên trần có thứ gì đó rơi đánh tách một cái xuống sàn.
Dật Thế đưa mắt nhìn theo.
“Một cái hạt?” Không Hải lẩm bẩm.
Bỗng nhiên từ chỗ thứ đó vừa rơi xuống nhú lên một mẩu nhỏ xíu màu xanh. Mầm của một cái cây. Cái mầm ấy thoăn thoắt vươn lên. Nó đâm ra một chiếc lá, hai chiếc lá, ba chiếc lá, rồi cứ thế to dần lên.
Chẳng mấy chốc lá đã tốt um, nhìn kỹ thì thấy bên dưới bóng lá có một nụ hoa. Nụ hoa ấy bắt đầu lớn lên trông thấy.
“Ồ, xem kìa...”
Dật Thế vừa kịp thốt lên thì cánh hoa bắt đầu hé nở, thế rồi sau vài lần hít thở, những cánh hoa căng mọng đã âm thầm xòe rộng khoe ra một màu đỏ thắm.
Bông hoa vừa nở là một bông mẫu đơn màu đỏ lớn, trĩu nặng.
“Không Hải, có người kìa!” Dật Thế kêu toáng lên.
Chẳng phải có một ông già chỉ lớn bằng một ngón tay đang ngồi thu lu ở giữa cánh hoa vừa mới nở và nhìn lên bọn Không Hải đó hay sao?
Không Hải cung kính cúi đầu chào ông già, rồi khẽ nói.
“Tôi đang chờ ngài thưa Đan Ông.”
“Cậu vừa bảo Đan Ông?”
Dật Thế bèn nhòm lại vào bông hoa thì nhận ra Đan Ông đang ngước nhìn hai người và tủm tỉm cười.
“Thế là mình bị trúng huyễn thuật rồi à...” Dật Thế kêu lên sợ hãi.
“Bình tĩnh nào Dật Thế, sao ta lại không tận hưởng ngón nghề của Đan Ông chứ?”
Không Hải cũng tủm tỉm cười rồi quay sang Đan Ông.
“Chúng tôi sẽ vào chỗ ngài, hay ngài sẽ ra đây?”
“Ngươi vào đây được chứ, Không Hải?”
“Tôi xin sẵn lòng...”
Không Hải từ tốn đứng dậy.
“Ơ... ơ kìa...” Dật Thế nhấp nhổm.
“Dật Thế à, ngươi cũng vào đây đi. Trải nghiệm hiếm có đấy...”
“Ngài bảo vào đi, nhưng mà tôi chẳng biết phải vào thế nào.”
“Cậu đứng lên cạnh tớ, nhắm mắt lại!”
Nghe lời Không Hải, Dật Thế đứng lên, lẩy bẩy tiến đến cạnh Không Hải.
Không Hải nắm lấy tay Dật Thế.
“Nhắm mắt lại!”
“Ờ... ờ...”
Dật Thế nhắm mắt lại.
“Nghe nhé, khi nào tớ bảo: ‘đi thôi’, thì cậu đừng nghĩ gì cả, cứ tiến lên phía trước hai bước cùng với tớ là được.”
“Ờ... ừ...”
“Được chưa? Đi thôi...”
Dật Thế tiến lên một bước, rồi hai bước theo tay Không Hải dắt đi.
“Giờ thì cậu mở mắt ra được rồi.”
Dật Thế mở mắt ra theo lời Không Hải thì thấy mình đã ở trong bông hoa từ khi nào.
Không Hải và Dật Thế đang đứng ở gần như chính giữa bông mẫu đơn khổng lồ tương đương một cái nhà. Trước mặt Không Hải và Dật Thế, Đan Ông đang ngồi trên chỗ vương đầy phấn hoa và nhìn hai người.
Bỗng có một luồng sáng đỏ mềm mại bao trùm lên hai người. Có thể thấy quang cảnh trong căn phòng của Không Hải từ xa.
Không Hải thong thả ngồi xuống trước mặt Đan Ông. Dật Thế cũng làm theo và ngồi xuống cạnh Không Hải.
“Tôi đoán ngài sẽ đến vào đêm nay.” Không Hải nói với Đan Ông.
“Ồ, sao ngươi nghĩ vậy?”
“Việc bức văn của ngài Triều Hành biến mất khỏi nhà Lý Hương Lan chẳng phải do ngài Đan Ông gây ra hay sao?”
“Ha ha ha...” Đan Ông cười thích thú. “Ngươi đã biết rồi sao?”
“Nghe nói Chu Minh Đức đã ngạc nhiên khi biết bức văn không còn ở trong cái tráp, như vậy thì còn có thể là ai ngoài Đan Ông nữa?”
“Quả đúng là như vậy, bức văn hiện đang ở trong tay ta.”
Đan Ông thò tay phải vào bọc áo, lấy ra một quyển trục.
“Nó đây.”
Đan Ông chìa ra trước mặt Không Hải.
“Đúng như đã giao hẹn, ta muốn ngươi đọc bức văn này cho ta nghe.”
Dật Thế nhìn Không Hải với vẻ kinh ngạc khi nghe Đan Ông nói vậy.
“Ơ này Không Hải. Giao hẹn nghĩa là sao?”
“Có gì đâu, tớ đã hứa với ngài Đan Ông là nếu ngài đây lấy được bức văn của ngài Triều Hành thì tớ sẽ đọc cho nghe.”
“Cậu nói sao!?”
“Nguồn cơn thế nào tớ sẽ kể sau.”
Không Hải rời mắt khỏi Dật Thế và quay sang Đan Ông.
“Nào, bắt đầu thôi Không Hải...”
Không Hải giơ hai tay đỡ lấy quyển trục Đan Ông đưa cho.
Trên quyển trục có dán một nhãn giấy được viết bằng văn tự Đại Hòa.
“Thừa mệnh Huyền Tông hoàng đế, Khiển Đường sứ nước Oa là A Bội Trọng Ma Lữ sẽ đưa Thái Chân sang Oa quốc.”
Đó là chữ Manyo-gana, một loại ký tự ký âm bằng chữ Hán.
Dật Thế đương nhiên cũng đọc được dòng chữ ấy vì ngồi ngay bên cạnh.
Quyển trục được buộc bằng một sợi dây.
Không Hải chậm rãi cởi sợi dây, sau đó từ tốn trải quyển trục ra.
“Tôi xin bắt đầu...”
Thế rồi Không Hải cất giọng đọc lớn câu chuyện đầy ly kỳ về Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi được viết trong đó, với ánh mắt sáng bừng.
❖ 2 ❖Thư của A Bội Trọng Ma Lữ:
“Lý đại huynh.
Dẫu thiển học bất tài, tôi vẫn mạo muội viết ra những dòng này, chỉ bởi một lẽ mà thôi.
Ấy là vì tôi tin rằng, những trải nghiệm mà tôi sắp kể ra đây là một câu chuyện ly kỳ, quái dị, vả chăng nếu tôi không ghi lại thì câu chuyện ắt sẽ bị bóng tối của lịch sử chôn theo cái chết của những người đã tham dự vào nó.
Đây là điều bí mật của cả một triều đình ẩn sau cái bóng của một đóa hoa khổng lồ là Đế quốc Đại Đường. Ngay chính bản thân tôi cũng không thể biết được hết diện mạo của câu chuyện ấy.
Duy chỉ có một điều mà tôi dám chắc, như đã nói ở trên, nếu tôi không ghi lại thì câu chuyện kinh thiên động địa này sẽ biến mất khỏi thế gian. Dù rằng đến lúc này, để vẽ ra được toàn bộ diện mạo của câu chuyện thì chỉ còn cách tưởng tượng mà thôi, nhưng tôi tin việc ghi chép lại, dẫu chỉ là một phần của câu chuyện, vẫn sẽ mang một ý nghĩa nào đó.
Nói theo cách thẳng thắn hơn, tôi không sao có thể ngăn mình viết ra câu chuyện này. Đối với một kẻ đã lỡ tham dự vào bí mật của người có quyền lực tối cao ở đất Đại Đường này, thì sống để bụng chết mang theo là một việc không thể chịu đựng nổi.
Hẳn là Lý đại huynh cũng hiểu được tâm trạng này của tôi.
Tôi không biết có bao nhiêu cơ hội để huynh đọc được bức thư này. Và dù có cơ hội thì huynh có đọc được chữ Nhật Bản không? Có lẽ là không. Mặc lòng, tôi vẫn viết bức thư này và đề gửi cho huynh.
Xin thứ lỗi cho tôi vì phải viết bằng thứ tiếng của nước mình, thứ tiếng mà tôi đã bắt đầu quên. Đây ít ra cũng là một lời thanh minh từ tôi, kẻ đã không ngăn nổi mình viết ra điều bí mật của Đại Đường. Rằng tôi phải viết ra vì không thể ngăn mình viết ra, chứ không phải vì muốn ai đọc được nó...
Kẻ đọc được nội dung bức thư này ở Đại Đường chắc không có nhiều. Ở Đang Đồ(*) chỗ huynh ắt là chẳng có ai. Dẫu vậy thì bức thư này tôi vẫn đề gửi huynh.
(*) Tên một huyện thuộc tỉnh An Huy của Trung Quốc ngày nay. Lý Bạch đã sống ở đây đến cuối đời.
Một lý do nữa khiến tôi viết bằng tiếng Nhật, nói ra thì gượng gạo, nhưng câu chuyện này không phải là không có liên quan tới đất nước Nhật Bản của tôi.
Thêm nữa nó cũng có liên quan tới Lý Bạch huynh, dù không nhiều.
Cả Huyền Tông tiên đế lẫn Túc Tông hoàng đế đều băng hà trong năm nay, Cao Lực Sĩ cũng không còn trên cõi đời này nữa. Không chỉ các nhân vật của câu chuyện, mà phần lớn những kẻ thân tình có chút dính líu như huynh và tôi cũng đang lần lượt từ giã cõi đời này.
Tôi năm nay tính ra cũng đã sáu mươi hai tuổi. Chắc là không còn mấy lâu nữa.
Chao ôi...
Khi cầm bút viết bức thư này, chẳng hiểu sao câu chữ từ trong tôi cứ tuôn ra ào ạt không sao cưỡng lại được.
Tôi đã từng tìm cách trở về Nhật Bản nhưng bất thành và phải quay lại đây, âu cũng là do ý trời muốn tôi viết bức thư này. Lúc trở về Trường An, tôi đã đọc được bài thơ Khóc Triều Hành mà huynh viết cho tôi khi ấy.
Huynh và tôi gặp nhau lần đầu là khi nào ấy nhỉ?
Tôi nhớ không nhầm thì là vào năm Thiên Bảo nguyên niên.
Huynh rời Trường An vào năm Thiên Bảo thứ ba vì bất hòa với Cao Lực Sĩ, kể từ đó đã mười tám năm trời chúng ta chưa gặp lại nhau.
Tính ra thì thời gian tôi trải cùng huynh ở Trường An chưa được nổi hai năm, vậy mà cho đến lúc này vẫn còn giữ được mối thâm tình để mà thư từ với huynh, thật có may mắn nào bằng.
Trường An những ngày huynh ở đó có thể ví như một bông mẫu đơn đại đóa đỏ thắm trong độ mãn khai đang tỏa ngát hương.
Vào một ngày xuân muộn năm Thiên Bảo thứ hai, huynh được vời đến Trầm Hương Đình ở Hưng Khánh Trì, chỉ trong một loáng đã viết xong Thanh bình điệu từ . Khi ấy Huyền Tông hoàng đế năm mươi lăm tuổi, tôi bốn mươi ba tuổi và huynh cũng bốn mươi ba tuổi.
Dương quý phi mới hai mươi lăm tuổi, ngay cả ở địa vị của mình, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng nàng mang một vẻ đẹp thật quyến rũ. Tôi hoàn toàn tán đồng với phép tỉ dụ trong thơ huynh, không thể ca ngợi Quý phi theo lối so sánh với hoa, mà chính là phải ví hoa với nàng.
Hai mươi năm trôi qua, có nhiều việc đã chìm vào quên lãng, trí nhớ cũng không còn đáng tin cậy nữa, nhưng riêng hình ảnh Dương quý phi múa theo nhịp Thanh bình điệu từ của huynh thì tôi vẫn nhớ như in.
Chuyện mà tôi sắp viết ra đây có liên quan đến cái chết của Dương quý phi.
Muôn lần xin huynh tha thứ vì tôi phải viết bức thư này bằng tiếng Nhật, thứ tiếng chẳng hề quen thuộc với huynh.
Hơn bốn mươi lăm năm tôi rời Nhật Bản, quãng thời gian tôi sống ở đất nước này đã sắp dài gấp ba lần quãng thời gian tôi sống ở tổ quốc. Thân sinh tôi đã mất, vả lại chắc cũng chẳng còn ai nhớ đến tôi nữa, vậy mà khi về già, điều chiếm trọn tâm can tôi lại là những kỷ niệm về đất nước ấy.
Tôi gần như đã hết cơ hội để quay về đất nước ấy khi vẫn còn sống.
Hoặc giả, việc biên bức thư này chính là cơ hội cuối cùng để tôi được trở về Nhật Bản cũng nên.
Biên bức thư này bằng tiếng Nhật Bản, thứ tiếng mà tôi đã bắt đầu quên, ít ra cũng là cách để tôi có thể bùi ngùi tưởng nhớ những gì ở đất nước ấy.
Giả như huynh đọc được bức thư này, rồi muốn trình báo về nó với ai, thì cứ tùy ở ý huynh. Tôi không yêu cầu huynh phải làm thế nào với bức thư này cả.
Dù huynh có đốt bức thư, dẫu đã đọc qua hay chưa đọc qua, hoặc bán nó cho người khác tôi cũng không bận lòng.
Được viết ra và gửi cho huynh, như thế là tôi đã toại nguyện rồi.”
❖ 3 ❖“Chắc là tôi không cần nhắc nhiều đến loạn An Sử ở đây làm gì.
Vì các sử gia hẳn đã biên lại đầy đủ mà chẳng phải nhờ đến những kẻ như tôi. Do vậy tôi chỉ xin chép lại những gì xảy ra đằng sau đó.
An Lộc Sơn tự xưng là Đại Yên hoàng đế, cải hiệu thành Thánh Vũ vào tháng Chạp năm Thiên Bảo thứ mười lăm.
Cơn thịnh nộ của Huyền Tông hoàng đế khi nhận được tin ấy thật không có gì sánh nổi. Hoàng đế đứng dậy khỏi ngai vàng, long thể đã bảy mươi hai tuổi run lên bần bật, rồi gào lên: Hãy giết chết thằng đó, bêu đầu nó lên, muối thịt nó để cho chó ăn!
Một tên tạp Hồ do chính tay Hoàng đế ban cho ân sủng, nay lại dám xưng hoàng đế và đổi cả quốc hiệu lẫn niên hiệu thì khác nào đã mạo phạm vào thiên hạ của Hoàng đế. An Lộc Sơn đã không còn đơn thuần là kẻ chủ mưu của đám loạn quân nữa rồi. Hắn định lật đổ và thay thế Huyền Tông hoàng đế để xưng hùng một phương, nên tôi có thể hiểu được cơn giận của Hoàng đế.
Tôi đã trực tiếp chứng kiến cơn thịnh nộ ấy vì là bí thư giám nên có nhiều cơ hội được ở bên Hoàng đế.
‘Thằng đó...’ Hoàng đế gọi An Lộc Sơn như vậy.
‘Cái thằng bẻm mép nói muốn làm con nuôi của trẫm.’
Tôi cũng biết An Lộc Sơn thực tế là con nuôi của Dương quý phi và từng có thời rất thân thiết với Hoàng đế.
‘Mi định gây thù với nghĩa phụ của mi ư?’
Hoàng đế như sắp sửa cầm lấy kiếm đứng lên khiến tôi tưởng đâu Hoàng đế của thuở trước khi gặp Dương Ngọc Hoàn vừa trở lại.
Sang cuối tháng Giêng, có tin báo An Lộc Sơn đổ bệnh, tưởng rằng loạn ấy sắp chấm dứt, nhưng đâu dễ thế.
Ngày mùng mười tháng Sáu, Ca Thư Hàn dẫn hai mươi sáu vạn sáu nghìn binh sĩ ra khỏi ải Đồng Quan, gặp quân của Thôi Càn Hựu là tướng dưới trướng Lộc Sơn ở cánh đồng phía Tây huyện Linh Bảo để giao chiến.
Nhưng giao chiến chưa được một ngày thì hơn hai vạn quân của Ca Thư Hàn đã bị đánh cho tan tác.
Tin báo về khiến kinh đô Trường An rung chuyển.
Sau trận này, Huyền Tông hoàng đế quyết định bỏ lại Trường An để lánh về đất Thục xa xôi.
Tôi nhận được ý chỉ vào sáng sớm ngày mười ba. Sứ giả đến báo hãy mau chuẩn bị, vì Hoàng đế sẽ rời Trường An về đất Thục sau chừng một khắc nữa.
Sứ giả truyền lệnh chỉ mang theo những đồ cần thiết, ra đi tuyệt đối bí mật mà không được nói gì với ai.
Đoàn chạy loạn ngoài Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi còn có người chị Quý phi là Quắc Quốc phu nhân, tể tướng Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ, Vi Kiến Tố, Ngụy Phương Tiến, các thân vương, cung phi, công chúa và hoàng tôn. Ngoài ra còn có Long Vũ tướng quân Trần Huyền Lễ lãnh ba ngàn quân cấm vệ đi theo hộ giá. Sứ giả truyền lại như vậy.
Tất cả đều phải di chuyển bí mật, những người sống bên ngoài hoàng cung, kể cả hoàng tộc, đều không được biết.
Mọi người tập trung ở quảng trường trước Diên Thu Môn lúc trời còn tối.
Huyền Tông hoàng đế cưỡi ngựa, Dương quý phi ngồi kiệu.
Tôi cũng được cưỡi ngựa, còn hầu hết đi bộ.
Ngoài hoàng tộc còn có các thị tì, quyến thuộc, hoạn quan và binh lính.
Chúng tôi khởi hành giữa cơn mưa phùn.
Gương mặt ai nấy đều lộ vẻ lo lắng. Ngoài các cung nhân ở trong hoàng cung, không ai biết về cuộc ra đi này cả. Bọn họ rất lấy làm lạ khi lại có tôi là một người nước Oa đi cùng.
Trong lúc ngất nghểu trên lưng ngựa để rời khỏi hoàng cung, cảm giác xâm chiếm tôi không phải nỗi bất an, mà là sự áy náy với những người bị bỏ lại. Trong số những người bị bỏ lại, có không ít người quen và ân nhân của tôi.
Dù biết rằng buộc phải làm thế vì không có nhiều thời gian, nhưng tôi vẫn thấy canh cánh trong lòng.
Giả sử lại được về Trường An thì chắc là tôi sẽ chẳng thể giao đãi với họ như trước đây được nữa.
Những người đến hoàng cung vào buổi sáng hẳn sẽ ngạc nhiên vì không còn ai ở đó.
Thực tế đúng là như vậy, nhưng có một chuyện mà tôi không ngờ tới đã xảy ra ở hoàng cung.
Chuyện này về sau tôi mới được nghe kể lại, hóa ra những kẻ đầu tiên đến cướp phá hoàng cung trong tình trạng chỉ còn là một cái xác rỗng không phải An Lộc Sơn, cũng không phải binh lính của hắn ta, mà lại chính là những kẻ thuộc phe mình.
Bị kích động bởi cơn giận dữ, bất an vì bị bỏ rơi, họ đã không thắng nổi lòng tham khi đứng trước cả núi châu báu. Dẫu thế thì chúng tôi cũng không thể trách được ai. Bởi ngay từ đầu, chúng tôi đã bỏ rơi họ...
Chúng tôi vừa đi qua cây cầu Tiện Kiều bắc qua Vị Thủy.
Thì lập tức...
‘Hãy đốt bỏ cây cầu này để những kẻ đuổi theo không bắt kịp chúng ta.’
Tể tướng Dương Quốc Trung đã ra lệnh cho binh lính như vậy, nhưng người ngăn việc đó lại chính là Huyền Tông hoàng đế.
‘Nếu đốt bỏ cây cầu thì đúng là những kẻ đuổi theo có thể sẽ không bắt kịp chúng ta, nhưng bá tính đi lánh nạn muốn vượt qua Vị Thủy, nếu không có cây cầu thì biết phải làm sao...’
Một lời nói ấy của Hoàng đế chẳng những khiến cho cây cầu khỏi bị đốt cháy, mà còn cho thấy, nhờ loạn lạc, Hoàng đế đã lấy lại được lòng nhân từ trước đây.
Tuy nhiên...
Càng đi, số người càng giảm dần, ban đầu là một người, rồi đến hai người. Họ đều là những kẻ bỏ lại Hoàng đế hòng tự ý thoát thân.
Trong số ấy có cả họ hàng xa của Hoàng đế lẫn binh lính.
Hoạn quan Vương Lạc Khanh là người đi trước có nhiệm vụ bố trí, cắt đặt ở những quận huyện mà đoàn tùy giá đi qua cũng đã bỏ trốn, thành thử chỉ còn lại chúng tôi, khiến cho ngay cả Hoàng đế cũng rơi vào tình cảnh giữa trưa rồi mà chẳng có đến một mẩu thức ăn để cho vào miệng.
Cuối cùng, đích thân tể tướng Dương Quốc Trung phải vào trong chợ tìm mua bánh bột nướng, rồi giấu vào ống áo mà đem về dâng lên Hoàng đế.
Được tin ấy, dân chúng Hàm Dương đã họp nhau lại, đem dâng Hoàng đế cơm gạo lứt, cũng như mang đến nào bột mì, nào đậu tương.
Ngay cả các hoàng tử, hoàng tộc, hoàng tôn cũng tranh nhau bốc lấy mà ăn.
Số lương thực ấy chẳng mấy chốc đã cạn, chưa ai kịp ăn no, song Hoàng đế vẫn trả tiền cho những người đem thức ăn đến, rồi ân cần úy lạo họ.
Nhìn cảnh tượng ấy, không ít người đã nhỏ lệ vì thương cảm.
Càng lúc càng có thêm những người rời bỏ đoàn hộ giá, chúng tôi phải gắng hết sức để giữ vững thân xác cho khỏi gục ngã, rồi cuối cùng cũng đến được huyện Kim Thành vào nửa đêm hôm đó.
Nhưng quan phụ mẫu huyện ấy đã chuồn đi đâu mất, bá tính trong huyện cũng hầu như trốn sạch. Có những người nông dân đang ăn thì phải bỏ trốn, đồ ăn dở vẫn còn trong bát.
Chẳng riêng gì hoàng thân quốc thích, mà đến cả Hoàng đế cũng phải lấy những thức ăn dở ấy để cho vào miệng.
Qua đó huynh có thể tưởng tượng được chúng tôi đã phải trốn khỏi Trường An đường đột đến thế nào.
Thế rồi sự việc đau lòng ở Mã Ngôi Dịch đã xảy ra.
Câu chuyện liên quan đến cái chết của Dương quý phi từ đây mới bắt đầu.”
❖ 4 ❖“Sau khi đến Kim Thành Dịch, trong đám lính bắt đầu có điều gì đó bất ổn.
Chúng tôi đến Kim Thành Dịch lúc trời đã khuya, nhưng có lẽ vì lầm tưởng là quân An Lộc Sơn mà dân chúng trong huyện đều bỏ trốn không sót một ai. Chúng tôi chia nhau vào các nhà dân nằm rải rác, nhặt nhạnh chút ít lương thực để làm ấm cái bụng, nhưng thành thật mà nói thì tình cảnh của cả Hoàng đế lẫn các thành viên hoàng tộc đều vô cùng thê thảm.
Mặc dù vậy...
Quãng đường từ kinh thành đến Kim Thành Dịch cũng chỉ vào khoảng bốn, năm dặm mà thôi. Dẫu đi từ tờ mờ sáng đến tận đêm khuya, chúng tôi hầu như không tiến lên được bao nhiêu.
Đã có thêm nhiều người nữa tranh thủ trốn đi trong thời gian này, thậm chí đến kẻ thường xuyên hầu cận bên cạnh Hoàng đế là nội thị giám Viên Tư Nghệ cũng đã biến mất tự khi nào.
Thế mới biết, niềm bi ai của nhà vua trong khoảnh khắc đất nước sắp diệt vong thật to lớn nhường nào?
Bản thân tôi thì càng lúc càng cảm động trước thái độ của Hoàng đế kể từ sau khi gặp nạn.
Tôi đã kể với huynh về cuộc tranh luận giữa tể tướng Dương Quốc Trung và Hoàng đế về việc đốt hay không đốt cây cầu Tiện Kiều, nhưng thật ra ngay từ trước khi khởi hành cũng đã có một cuộc tranh luận giống như thế diễn ra.
Để rời khỏi kinh thành, đoàn người phải đi qua trước cửa các kho tàng trong hoàng cung, lúc ấy tể tướng Dương Quốc Trung liền ra lệnh.
‘Hãy đốt hết kho tàng đi! Không thể để các món trong kho dễ dàng rơi vào tay An Lộc Sơn được.’
‘Hãy khoan!’
Người phản đối mệnh lệnh đó lại vẫn là Huyền Tông hoàng đế.
Hoàng đế ngước khuôn mặt u sầu, rầu rĩ nhìn các kho tàng.
‘Đốt các kho tàng này thì dễ. Nhưng khi giặc vào thành để cướp bóc mà không còn gì để cướp bóc thì sẽ thế nào? Khi chúng đánh đến kinh đô, mà lại không tìm thấy tiền của nơi hoàng cung này, ắt chúng sẽ cướp bóc của dân chúng trong thành. Dân chúng cũng giống như con ta. Ta làm sao cam lòng để con mình chịu khổ sở? Hãy để nguyên tiền của lại trong cung, mặc cho chúng đến cướp bóc.’
Hoàng đế đã nói như vậy.
Rốt cuộc thì không có kho tàng nào bị đốt, nhưng mỉa mai thay và đau buồn thay, những kẻ đầu tiên vào cung cướp bóc trước khi An Lộc Sơn kịp đến lại chính là những con dân mà Hoàng đế cố công bảo vệ.
Nhưng dù sao thì chính vào lúc phải trốn chạy khỏi kinh thành, thái độ của Hoàng đế lại giữ được sự uy nghiêm đáng có, và hơn thế nữa, tôi cảm thấy như chính vì rơi vào hoạn nạn mà bản tính trước đây của Hoàng đế lại được bộc lộ ra.
Ở huyện Kim Thành, đèn đuốc không có, người này gối lên người kia mà ngủ, không còn phân biệt sang hèn gì nữa.
Đêm đó...
Vương Tư Lễ từ ải Đồng Quan sai sứ giả đến huyện Kim Thành báo tin với Hoàng đế: ‘Tướng quân Ca Thư Hàn đã bị quân An Lộc Sơn bắt sống.’
Hoàng đế liền phong cho Vương Tư Lễ làm tiết độ sứ hai đạo Hà Tây và Lũng Tây, lệnh cho mau về đất trị nhậm thu góp tàn quân và tiễu phạt quân An Lộc Sơn ở phía Đông.
Bây giờ ngẫm lại mới thấy, các tướng sĩ phò giá Hoàng đế khi ấy có điều gì đó hơi khác lạ.
Hôm sau, tháng Sáu ngày Bính Thân, chúng tôi đến Mã Ngôi Dịch.
Tướng sĩ đói khát, mệt mỏi, ai nấy đều buôn lời ta thán, thế rồi tất cả dừng lại và không đi nữa.
Tôi không được chứng kiến từ đầu chí cuối những gì diễn ra sau đó, nhưng xin kể tiếp sự việc, dựa trên những điều được nghe kể lại sau này cũng như những điều mà tôi tận mắt chứng kiến.
Kẻ cầm đầu quân sĩ là Long vũ đại tướng quân Trần Huyền Lễ. Ông ta đứng ra trước đám quân sĩ đang tỏ ý bất bình và nói thế này.
‘Các ngươi nghe đây, nghịch Hồ biện bạch rằng, việc dấy loạn lần này mục đích là để tiến vào cung cấm, tru diệt tể tướng Dương Quốc Trung...’
Dương Quốc Trung là anh họ của Dương quý phi, nguyên nhân của cuộc phản loạn lần này một phần cũng là vì sự bất hòa giữa Dương Quốc Trung và An Lộc Sơn. Là người trong cung ai mà không rõ.
‘Nhưng mang lòng bất phục Dương Quốc Trung không chỉ có nghịch Hồ An Lộc Sơn. Trong ngoài triều đình, có không ít người căm ghét Dương Quốc Trung là điều mà ai cũng biết.’
Khi ấy, trong đám quân sĩ dậy lên những tiếng hô lớn. Điều này tôi chỉ được nghe kể lại, chứ không phải tận mắt chứng kiến.
Để trở thành tể tướng, mà không, ngay cả sau khi trở thành tể tướng, Dương Quốc Trung đã làm nhiều việc vô đạo hòng gia tăng cũng như củng cố quyền lực của mình là điều mà tôi đã từng nhiều lần nghe kể.
Tôi nghe nói, Dương Quốc Trung thường triệt hạ đối thủ trong cung bằng những thủ đoạn như đày ra biên giới hoặc quy tội chết cho cả những tội nhẹ, thậm chí là thủ tiêu bằng thuốc độc.
Khỏi cần nói thì Lý Bạch huynh cũng thừa hiểu, lường gạt nhau và dùng mọi cách để duy trì quyền lực của mình là chuyện thường ngày trong cung cấm.
Giữa vòng xoáy ấy, Dương Quốc Trung đã gây thù chuốc oán với rất nhiều người.
Nhưng tại sao Dương Quốc Trung lại vươn tới được nấc thang quyền lực cao như thế ở trong cung? Tất nhiên, vì Dương Quốc Trung là anh trai của Dương quý phi. Việc Hoàng đế rời bỏ chính sự và giao phó hầu hết công việc cho Dương Quốc Trung cũng là vì Dương quý phi.
Trong khi dành mọi tâm trí cho Dương quý phi, thì theo lẽ tự nhiên, Hoàng đế sẽ lơ là chính sự, nhưng trong chuyện này, trách nhiệm thuộc về Huyền Tông hoàng đế nhiều hơn là thuộc về Dương quý phi.
Nhưng Hoàng đế không thể là người bị quy trách nhiệm. Làm vậy thì khác nào tạo phản.
Việc đã đến nước này, nếu phải quy trách nhiệm, thì chỉ còn cách ép Dương quý phi, Dương Quốc Trung cùng với gia tộc ấy phải chịu trách nhiệm mà thôi.
‘Hiện nay, Đại Đường đang gặp phen hỗn loạn, tính mạng của Hoàng đế cũng không dễ mà giữ được. Thuận theo lòng dân, vì kế trăm năm của giang san, bọn Quý phi và Dương Quốc Trung chẳng phải rất đáng bị chiếu theo hình luật mà xử tội hay sao?’
Quân sĩ đua nhau nói phải rồi đứng cả dậy, vung nắm đấm lên trời.
Trần Huyền Lễ thảo lại những lời ấy thành văn tự, trao cho thái tử thông qua Đông Cung hoạn quan là Lý Phụ Quốc, để nhờ thái tử dâng lên Huyền Tông hoàng đế.
Thái tử nhận được biểu tấu ấy, còn đang băn khoăn chưa biết phải làm thế nào thì vừa hay có hai mươi mốt sứ giả do Thổ Phồn phái sang triều đình nhà Đường vô tình đi ngang qua.
Đoàn sứ thần của Thổ Phồn cũng đang không kiếm được lương thực vì loạn lạc, mới chặn ngựa của Dương Quốc Trung lại để xin ăn.
Quân sĩ liền thừa cơ ấy, hoặc do sự dồn nén quá lâu ngày không hãm được nữa, mới đứng cả dậy, hô lớn:
‘Dương Quốc Trung cùng giặc Hồ mưu phản!’
Kẻ thì tuốt gươm, kẻ thì lắp tên vào cung, nhao nhao hỗn loạn. Mũi tên của một kẻ nào đó bắn ra cắm trúng vào yên ngựa của Dương Quốc Trung đã mở màn cho cuộc nổi loạn.
Cả một đoàn quân rút gươm ào ào xông về phía Dương Quốc Trung. Hoảng hồn, Dương Quốc Trung bèn thúc ngựa chạy. Tuy chạy được vào bên trong cửa Tây của Mã Ngôi Dịch nhưng bị quân sĩ đuổi kịp và lôi từ trên ngựa xuống. Sau đó liền bị mổ bụng, rồi chém bay đầu mà chết.
Cùng lúc, các con của Dương Quốc Trung cũng bị quân sĩ sát hại. Chị cả của Dương quý phi là Hàn Quốc phu nhân, chị hai là Tần Quốc phu nhân than khóc định chạy trốn nhưng bị quân sĩ bắt được và chém bay đầu không thương tiếc.
Người chứng kiến cảnh tượng ấy là ngự sử đại phu Ngụy Phương Tiến.
Ngụy Phương Tiến kêu lớn: ‘Hỡi các tướng sĩ, vì sao các ngươi lại giết hại tể tướng Dương Quốc Trung?’
Nhưng lời nói ấy chưa kịp dứt thì đám quân sĩ đã mất hết kiềm chế liền vây kín lấy Ngụy Phương Tiến rồi ra tay thảm sát.
Quân sĩ bỏ đi để lại một đống thịt bầy nhầy không phân biệt được là người hay là gì nữa.
Vi Kiến Tố, khi ấy đang giữ chức tri môn hạ sảnh sự(*) đã rất bàng hoàng trước biến loạn. Lúc Vi Kiến Tố vừa từ dịch xá đi ra liền bị quân sĩ vây lấy và đâm chém bằng kiếm.
(*) Chức quan đứng đầu Môn hạ sảnh, cơ quan phụ trách xét duyệt các chiếu lệnh của triều đình.
Vi Kiến Tố ngã xuống đất, máu chảy ra từ vết thương trên đầu, nhưng có kẻ hô lên: Không được giết người này, nhờ thế mà giữ được tính mạng.
Rồi quân sĩ cứ thế vây kín Mã Ngôi Dịch. Huyền Tông hoàng đế tuy ở trong dịch xá nhưng cũng bắt đầu để ý thấy sự huyên náo bên ngoài, bèn hỏi tả hữu chúng thần.
‘Trần Huyền Lễ dấy loạn, đã giết chết tể tướng Dương Quốc Trung.’
Tả hữu chúng thần thuật nguyên lại sự tình.
Vì khi ấy tôi cũng đang ở trong dịch xá, nên nghe xong mới biết là bên ngoài có biến.
Hoàng đế chống gậy đi ra ngoài dịch môn, hạ lệnh cho quân sĩ giải vây, song sáu quân do Trần Huyền Lễ cầm đầu nhất quyết không chịu. Nhìn ra bên ngoài dịch môn, Hoàng đế thấy thủ cấp của Dương Quốc Trung đang bị xiên và bêu trên đầu một ngọn giáo.
Chẳng những thế, thủ cấp của các chị gái Quý phi cũng bị bêu trên mũi giáo. Có cả Lưu Vinh Tiêu là kẻ bêu đầu Hàn Quốc phu nhân.
Hẳn là từ đâu đó, Quý phi cũng đang quan sát cảnh tượng ấy.
Bên trong dịch xá, cuồn cuộn những bất an và dao động.
‘Ngay cả chúng ta cũng sẽ bị giết mất thôi...’
Ai cũng quẩn quanh với ý nghĩ ấy ở trong đầu.
Ngay đến tôi cũng nảy sinh một ý nghĩ: than ôi, vậy là ta sẽ phải bỏ thây trong cơn nội loạn của xứ người mà không thể trở về Oa quốc được nữa rồi, và thở than cho số phận không may của mình.
Huyền Tông hoàng đế đi vào phòng riêng cùng với Quý phi rồi một lát lại quay ra, sau đó phái ngài Cao Lực Sĩ đến gặp Trần Huyền Lễ để dò hỏi mục đích của cuộc phản loạn.
‘Xin Hoàng đế hãy chiếu theo hình luật, mau chóng xử tội Quý phi, người có quan hệ thân thích với kẻ mưu phản Dương Quốc Trung.’
Đó là lời tâu lên của Trần Huyền Lễ.
Ai ở trong dịch xá cũng đều nghĩ bụng: nếu Hoàng đế xử tội Quý phi, ắt là mình sẽ được cứu sống, nhưng không ai nói ra điều đó.
Huyền Tông hoàng đế vịn vào cây gậy một cách khó khăn, tưởng chừng như sắp khuỵu xuống đến nơi. Hoàng đế dựa lưng vào tường, tư lự hồi lâu với vẻ mặt phiền muộn.
‘Ta nên làm thế nào?’
Hoàng đế ngẩng lên, nhìn chúng tôi với ánh mắt như cầu cứu.
‘Mà thôi, không cần hỏi. Ta biết rõ lòng dạ các ngươi rồi...’
Lúc ấy, có kẻ hầu cận bên Hoàng đế là viên quan Vi Ngạc mới lấy hết dũng khí bước ra, chỉ nói một câu:
‘Xin Hoàng đế hãy quyết...’
Lời tâu ấy cũng thật thống thiết.
Vi Ngạc phủ phục, kéo lê đầu trên mặt đất khiến máu ứa ra từ trán.
Hành động ấy dường như đã khiến Hoàng đế dao động ghê gớm, nhưng có gì sâu sắc hơn tình yêu của Hoàng đế dành cho Quý phi? Nên gương mặt Hoàng đế càng lúc càng méo xệch vì phiền muộn.
‘Quý phi ngày ngày ở trong thâm cung, làm sao biết được Quốc Trung mưu phản? Quý phi không có tội...’
Hoàng đế cật vấn Vi Ngạc như vậy.
Không một ai đáp lời.
Khi ấy, người lặng lẽ bước ra trước Hoàng đế là hoạn quan Cao Lực Sĩ.
‘Bẩm hoàng thượng...’
Ngài Cao Lực Sĩ cất lên một giọng trầm buồn. Ngài Cao Lực Sĩ là hoạn quan hầu cận lâu năm và gần gũi với Hoàng đế hơn bất cứ ai. Ngài thấu hiểu sự đau lòng, nỗi dằn vặt của Hoàng đế hơn bất cứ ai.
Bản thân Hoàng đế cũng hiểu điều ấy.
‘Sự thể đã đến mức không còn liên quan đến việc Quý phi có tội hay không có tội nữa rồi.’
Lệ tuôn ra từ khóe mắt ngài Cao Lực Sĩ.
Cả Huyền Tông hoàng đế lẫn ngài Cao Lực Sĩ đều đã hơn bảy mươi. Nhân tiện nói thêm thì khi ấy tôi cũng đã năm mươi sáu tuổi.
‘Nếu hỏi rằng Quý phi có tội hay không, thì câu trả lời ắt là không. Nhưng bọn Trần Huyền Lễ đã lỡ giết chết các anh chị của Dương quý phi là Dương Quốc Trung, Hàn Quốc phu nhân, Tần Quốc phu nhân mất rồi. Nếu trong tình cảnh này giải vây và tha cho Dương quý phi, người gần gũi nhất với những kẻ bị giết, người ngày đêm hầu cận bên hoàng thượng, thì làm sao bọn chúng có thể yên lòng? Nếu hoàng thượng suy xét thấu đáo, thì tự hoàng thượng sẽ biết cần phải làm gì. Xin hoàng thượng hãy nghĩ rằng, đưa ra một quyết định khiến quân sĩ yên lòng cũng chính là cách để hoàng thượng được yên lòng...’
Ngài Cao Lực Sĩ tâu bằng một giọng như sắp ho ra máu.
Sau đó là sự im lặng kéo dài.
Quý phi tuy ở phòng bên cạnh nhưng hẳn đã biết toàn bộ sự việc.
‘Hừ...’
Hoàng đế rên khẽ, rồi bật ra những tiếng nấc rất nhẹ trước mặt quần thần. Càng kìm nén thì tiếng khóc thảm thiết ấy càng mạnh mẽ tuôn ra từ kẽ răng. Phần lớn những kẻ có mặt ở đó đều không kìm nổi cũng bật khóc.
Đúng lúc ấy, từ đâu đó vang lên những tiếng khùng khục khác hẳn tiếng khóc thút thít.
Đó không phải tiếng khóc thút thít.
Mà chính xác là một tiếng cười.
Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía có tiếng cười ấy cất lên. Một ông già gầy gò, thấp bé đang đứng trước lối dẫn vào phòng của Quý phi.
Ông ta là đạo sĩ Hoàng Hạc.”
❖ 5 ❖“Hoàng Hạc, đúng như tên gọi của mình, mặc dù thấp bé nhưng cổ dài ngoẵng như cổ hạc, còn đầu thì nhỏ xíu.
Trong ông ta có pha lẫn dòng máu Hồ, hoặc ông ta chính là người Hồ, song không ai dám chắc được điều đó, chỉ biết Hoàng Hạc có sống mũi cao và tròng mắt xanh như màu lưu li.
Lý đại huynh hẳn cũng biết rõ, nhưng mạn phép huynh cho tôi được kể thêm về đạo sĩ Hoàng Hạc.
Vốn dĩ, duyên cớ của việc vị đạo sĩ này theo hầu Huyền Tông hoàng đế có liên quan đến Quý phi.
Chuyện Dương Ngọc Hoàn trở thành Quý phi như thế nào thì ai cũng rõ.
Dương Ngọc Hoàn ban đầu là vợ của hoàng tử Thọ Vương, con trai Huyền Tông hoàng đế. Thế rồi khi Huyền Tông hoàng đế gặp Dương Ngọc Hoàn đã đem lòng say đắm và cướp nàng khỏi tay Thọ Vương.
Tuy nhiên, Hoàng đế dẫu có quyền lực lớn đến đâu thì cũng không thể lập tức biến vợ con trai thành cung phi của mình được. Sau nhiều ngày, Hoàng đế tưởng chừng như sắp buông xuôi thì có kẻ đứng ra hiến kế. Tôi nghe kể lại đó chính là Hoàng Hạc.
‘Thần muôn sợ xin tâu, không phải không có cách để đưa nàng Dương Ngọc Hoàn về bên hoàng thượng đâu ạ.’
Nếu chỉ đơn giản là muốn sở hữu bằng mệnh lệnh, thì không gì trên đời này mà Hoàng đế không thể làm theo ý mình. Bởi chẳng có hình luật nào trừng phạt nổi Hoàng đế. Kẻ chịu mệnh chỉ có hai lựa chọn, hoặc là vâng theo, hoặc là chết.
Nếu dùng đến mệnh lệnh, thì dẫu là vợ của con trai, Hoàng đế cũng thừa sức biến nàng thành của mình.
Vấn đề chỉ ở chỗ, Hoàng đế có đủ dũng cảm để làm như vậy không mà thôi.
Quả nhiên, Hoàng đế đã không làm như vậy. Bởi nó quá trái với luân thường đạo lý.
‘Ồ, là cách gì vậy...’
‘Tạm thời, phải làm cho nàng thoát tục.’
‘Ồ...’ Hoàng đế đột nhiên nhao hẳn người ra trước.
Thế rồi, Hoàng Hạc tâu tiếp như sau.
À mà cũng có người nói rằng, những lời này là của ngài Cao Lực Sĩ, nhưng dù thế nào thì chắc chắn đã có bàn tay của đạo sĩ Hoàng Hạc ở phía sau.
‘Thần muôn sợ xin tâu, đầu tiên hoàng thượng phải làm cho ngài Thọ Vương và nàng Dương Ngọc Hoàn tuyệt nghĩa vợ chồng. Lý do là vì nàng Dương Ngọc Hoàn muốn nhập đạo tiên. Để nhập đạo tiên, trở thành đạo cô, việc trước nhất là phải thoát tục, như thế sẽ chẳng ai dị nghị gì được.’
‘Rồi sao?’
‘Sau khi trở thành đạo sĩ, trải qua một quãng thời gian vừa đủ, nàng Dương Ngọc Hoàn lại hoàn tục, như thế cũng chẳng ai dị nghị gì được.’
Sau đó, hoàng thượng có thể chính thức đón nàng về cung được rồi...
Hoàng đế vô cùng cảm kích trước lời tâu ấy, và sau đó mọi việc diễn ra như thế nào là điều mà ai cũng biết.
Dương Ngọc Hoàn trở thành đạo sĩ, được đón vào cung Thái Chân nằm bên trong Ôn Tuyền Cung thờ Lão Tử và phong hiệu là Thái Chân.
Kể từ đó, đạo sĩ Hoàng Hạc luôn theo hầu bên Hoàng đế.
Vốn dĩ từ xưa, Hoàng đế đã tỏ ra hứng thú với Đạo gia, Đạo giáo, đạo Thần Tiên và rất tôn sùng ông tổ của Đạo giáo là Lão Tử. Đây cũng là duyên cớ để đạo sĩ Hoàng Hạc có thể tiếp cận được Hoàng đế.
Hoàng Hạc thường xuyên túc trực ở bên Hoàng đế cùng với ngài Cao Lực Sĩ, lần này trong chuyến chạy nạn về đất Thục cũng có mặt ông ta. Hoàng Hạc vừa cất tiếng cười gằn sau khi nhìn chúng tôi một lượt.
‘Bẩm hoàng thượng, hạ thần có chuyện muốn thưa.’ Hoàng Hạc nói.
Huyền Tông hoàng đế ngẩng mặt lên, nhìn Hoàng Hạc với ánh mắt như muốn tìm chỗ bấu víu.
‘Ồ, Hoàng Hạc, khanh bảo trẫm phải làm sao?’ Hoàng đế nói bằng một giọng hoàn toàn kiệt sức.
‘Hoàng thượng hãy tới đây...’ Hoàng Hạc nắm lấy tay Huyền Tông hoàng đế, rồi thì thầm vào tai: ‘Chuyện này thần phải nói riêng...’
Huyền Tông hoàng đế cùng Hoàng Hạc biến mất vào một căn phòng khác, hình như hai người đã nói chuyện gì đó với nhau.
Một lát sau, hai người quay ra, đứng trước mặt chúng tôi. Không phải do tôi tưởng tượng ra, mà đúng là đôi má xám ngoét ban nãy của hoàng đế đã ửng hồng trở lại, đôi mắt đã lấy lại sức sống. Không rõ Hoàng Hạc vừa nói chuyện gì với Hoàng đế trong căn phòng ấy, nhưng có vẻ nó đã đem đến chút ít sức lực cho ngài.
‘Ngài Triều Hành, ngài Cao Lực Sĩ, xin các ngài hãy lại đây...’ Hoàng Hạc gọi chúng tôi bằng một giọng kính cẩn. ‘Tôi có chuyện muốn bàn riêng giữa chúng ta...’
Nói rồi Hoàng Hạc cúi đầu.
Chúng tôi chỉ còn cách vâng mệnh.
Tôi và ngài Cao Lực Sĩ tiến đến bên cạnh Hoàng Hạc và Hoàng đế.
‘Các khanh nghe đây. Bọn trẫm cần có thời gian để bàn bạc về kế hoạch sắp tới. Trong lúc ấy, hãy bảo những kẻ bên ngoài chờ đợi...’
Hoàng đế cắt cử người đi làm thuyết khách để quân sĩ khoan thư cho chút thời gian.
Rồi giục chúng tôi đi vào căn phòng nằm ở trong cùng: ‘Ta đi thôi...’”
❖ 6 ❖“Ở căn phòng trong cùng, Quý phi đang ngồi trên ghế trong tình trạng sợ hãi tột độ.
Cửa sổ được đóng kín và bịt bằng những tấm ván để bên ngoài không thấy gì, chỉ có chút ít ánh sáng lọt được vào.
Quý phi ngồi lặng lẽ trong bóng tối, nhưng vẫn có thể thấy được biểu cảm trên gương mặt.
Lý đại huynh, huynh hãy cười lên.
Lúc ấy, tôi cảm thấy một tình yêu mãnh liệt dành cho người cung phi xinh đẹp mà mới đó còn là người đàn bà quyền lực nhất trên mặt đất này, vậy mà giờ đây đang đứng trước một số phận mong manh như con nai cái trúng phải mũi tên của người thợ săn vậy.
Qua sắc mặt nàng có thể đoán được, nàng đã biết mọi chuyện xảy ra ngoài kia. Hẳn là nàng đã trông thấy cảnh tượng Dương Quốc Trung bị bêu đầu từ trong căn phòng tối này. Và nàng cũng thừa biết, thứ mà các tướng sĩ đòi lấy chính là mạng sống của mình.
Quý phi ngồi trên ghế, hai bên tả hữu là hai chàng trai. Đó là những chàng trai mà tôi đã từng gặp. Đan Long và Bạch Long, hai đệ tử của Hoàng Hạc.
Nhìn thấy Huyền Tông hoàng đế bước vào, Quý phi toan đứng dậy, nhưng Hoàng đế nhẹ nhàng ngăn lại, rồi tự mình ngồi xuống bên cạnh Quý phi.
‘Ngọc Hoàn à, vậy là ổn rồi. Ta sẽ không để nàng phải chết.’
Hoàng đế đưa tay ra nắm lấy tay Quý phi.
‘Thưa các vị...’
Người lên tiếng là Hoàng Hạc.
‘Những điều tôi sắp nói ra đây nhất thiết không được để lộ ra với người ngoài...’
Hoàng Hạc nhìn chúng tôi một lượt: tôi, Cao Lực Sĩ, Huyền Tông hoàng đế, Quý phi, và chắc chắn rằng tất cả đều đã gật đầu.
‘Ban nãy, tôi đã tâu trình chuyện này với hoàng thượng, nhưng xin phép giảng giải lại cho các vị ở đây một lần nữa.’
Hoàng Hạc vươn cổ ra trước, khiến nó đã dài ngẳng lại càng dài ngẳng hơn, đôi mắt xanh ánh lên sắc lẹm.
Tôi không thể đoán ra được vì sao một kẻ như mình lại ở đây, trong thời khắc trọng đại này. Tôi, một người ngoại quốc đến từ nước Oa, không phải người nước này. Nhưng một khi đã được triệu vào đây thì hẳn là phải có lý do của nó.
Tất nhiên, chẳng mấy chốc rồi tôi sẽ biết điều đó, nhưng ngay lúc này thì tôi chưa thể đoán ra điều gì, chỉ còn cách chờ những lời tiếp theo của Hoàng Hạc.
‘Trước tiên tôi xin nói ngay, chúng ta có cách để cứu được mạng sống của Quý phi.’
Hoàng Hạc hạ thấp giọng để không lọt ra ngoài, nhưng vẫn đủ rành rọt.
‘Thật không?’
‘Thật vậy.’ Hoàng Hạc gật đầu trước câu hỏi của Quý phi.
‘Nếu giờ là đêm tối và chỉ có một mình Quý phi thì ba thầy trò bọn tôi có thể đưa Quý phi ra khỏi đây và lánh đi một cách dễ dàng. Ngặt nỗi lại đang là ban ngày. Tôi không tin các tướng sĩ chịu chờ đến đêm. Vả lại, dù có trốn được khỏi đây, thì đường đến đất Thục còn xa, mà hồi kinh thì không thể, đã thế quân sĩ lại có đến hơn ba ngàn. Đằng nào thì cũng sẽ bị bắt mà thôi.’
Ngẫm ra thì Quý phi sinh ở đất Thục, cha là Dương Huyền Diễm, làm chức tư hộ ở Thục Châu, nhưng cha mẹ mất sớm, bèn được người chú ruột là Dương Huyền Kiểu đem về nuôi lớn, rồi trở thành vợ của Thọ Vương.
Dương Quốc Trung, Hàn Quốc phu nhân, Quắc Quốc phu nhân, Tần Quốc phu nhân đều không phải anh, chị ruột mà chỉ là anh, chị họ của Quý phi(*).
(*) Dương Quốc Trung, Hàn Quốc phu nhân, Quắc Quốc phu nhân, Tần Quốc phu nhân là con ruột của người chú Dương Huyền Kiểu nhưng vẫn được Dương quý phi gọi là anh chị do ở Trung Quốc phân ngôi thứ theo tuổi mà không theo ngôi thứ về chi nhánh trong họ mạc như ở ta.
‘Vậy ông nói sẽ cứu Quý phi bằng cách nào?’ Ngài Cao Lực Sĩ hỏi Hoàng Hạc.
‘Trước tiên, Quý phi sẽ tạm thời phải chết.’ Hoàng Hạc nói.
‘Ông bảo sao!’ Ngài Cao Lực Sĩ kêu lên.
Quý phi chau mày, dòng sinh khí vừa trở lại trên gương mặt bỗng một lần nữa biến mất.
‘Quý phi sẽ tạm thời phải chết.’
Người không hề tỏ ra kinh ngạc trước câu nói của Hoàng Hạc là hai đệ tử và Huyền Tông hoàng đế.
‘Ví thử chúng ta cứu được Quý phi ra khỏi nơi đây, thì ai dám chắc đám tướng sĩ sẽ chịu yên? Những kẻ chủ chốt ở đây, kể cả Huyền Tông hoàng đế, chắc chắn sẽ bị giết không chừa một ai.’
‘Hừm...’ Ngài Cao Lực Sĩ ghìm giọng, gật đầu.
‘Dù có đưa được hoàng thượng và Quý phi về đến đất Thục, nhưng khi ấy đám tướng sĩ ở đây sẽ mặc sức làm loạn, rồi mộ thêm người và hội quân với An Lộc Sơn là chuyện rõ như ban ngày.’
‘...’
‘Nghĩa là, Quý phi nhất định phải chết trước đã.’
‘Ông muốn nói gì?’
‘Xin các vị hãy nghe cho kỹ, thưa Quý phi và ngài Cao Lực Sĩ. Điều mà tôi vừa nói tới...’
‘Là gì?’
‘Sau khi Quý phi chết, ta sẽ làm cho Quý phi sống lại.’
‘Ý ông là giả chết?’
‘Không.’
Hoàng Hạc lắc đầu.
‘Khi chúng ta truyền rằng Quý phi đã chết, chắc chắn trong đám tướng sĩ sẽ có kẻ đến để kiểm tra tử thi. Có lẽ Long vũ đại tướng quân Trần Huyền Lễ sẽ đích thân làm việc đó...’
‘Rồi sao...’
‘Số lượng xác chết mà tên Trần Huyền Lễ ấy từng nhìn thấy không chỉ một trăm hay hai trăm. Nên nếu giả chết, hắn sẽ chẳng khó khăn gì mà vạch mặt được chúng ta.’
‘Vậy thì tức là ông đã tìm được người thế thân cho Quý phi...’
‘Trong tình thế này, đâu có dễ tìm được một kẻ thế thân.’
‘Vậy rốt cuộc kế của ông là gì?’
‘Ngài Cao Lực Sĩ. Ngài hiểu thế nào về bọn tôi?’
‘V?