← Quay lại trang sách

Chương XXIX Cuộc chiến bùa phép
1

Ngày hôm sau.

Từ trước giờ ngọ đã thấy Tử Anh và Xích xuất hiện ở Tây Minh Tự.

Kẻ dẫn hai người đến phòng Không Hải là Đại Hầu.

Tử Anh và Xích ngồi xuống đối diện Không Hải và Dật Thế, gương mặt không có lấy một nụ cười. Dật Thế đã ngủ lại chỗ Không Hải đêm qua.

Xích để lộ ra ánh mắt thậm chí còn sắc nhọn hơn cả hôm qua, đôi môi mím chặt tới nỗi rúm thành những vết nhăn.

Cả Tử Anh lẫn Xích đều trạc hai mươi nhăm.

“Thầy Không Hải…” Xích cất giọng đầy vẻ căng thẳng.

“Ta nghe.” Không Hải mỉm cười, rồi lần lượt nhìn cả hai người.

“Đúng như thầy đã nói.”

“Về chuyện gì?”

“Về chuyện thịt sống.”

“Cụ thể là sao?”

“Chúng tôi nghe nói, khi Liễu Tông Nguyên tiên sinh đem chuyện hôm qua thưa lên với Huệ Quả A-xà-lê thì ngài đã ngay lập tức sai người mang đến chỗ thịt sống bằng đúng trọng lượng của hoàng đế.”

“Liễu tiên sinh nói quả đúng như lời thầy Không Hải.” Tử Anh thêm vào.

“Như vậy thì A-xà-lê sẽ có thêm công lực.” Không Hải nói.

“Vậy sao, hóa ra mọi chuyện đã diễn ra đúng như lời cậu nói.” Dật Thế cất tiếng.

Kỳ thực, đêm qua Dật Thế đã được nghe Không Hải kể về tu pháp của Huệ Quả A-xà-lê.

❖ 2 ❖

Đó là tu pháp có tên Chuyển Pháp Luân Bồ Tát Tồi Ma Oán Địch Pháp. Nhưng thường được gọi ngắn gọn là Chuyển pháp luân pháp hoặc Tồi ma oán địch pháp.

Đây là phép hàng yêu tối cao tối thắng, có thể trừ bỏ mọi loài ác ma, oán địch trên thế giới này.

Thông thường thì phép này không dùng cho cá nhân, mà chỉ được vận đến khi quốc gia đứng trước sự an nguy hoặc tồn vong mà thôi. Nó được mệnh danh là bí pháp của bí pháp, là tất sát oán địch điều phục pháp.

Người ta cho rằng nó vốn bắt nguồn từ Thiên Trúc, tức Ấn Độ.

Người đem tu pháp này tới Đường thổ là nhà sư Mật giáo Bất Không. Bất Không, tức là thầy của Huệ Quả A-xà-lê, không phải người Hán. Ông là người Thiên Trúc.

Bản dịch Chuyển Pháp Luân Bồ Tát Tồi Ma Oán Địch Pháp sang tiếng Đường của Bất Không có ghi lại cách thực hiện tu pháp này.

Về sau, người thỉnh cuốn sách ấy về Nhật Bản chính là Không Hải, cho tới nay vẫn được truyền thừa như một bí pháp và theo cách thức nghiêm ngặt của dòng An Tường Tự, đứng đầu trong Chân ngôn tông Dã Trạch thập nhị lưu*.

(*) Chân ngôn tông Nhật Bản được chia thành hai dòng gốc là Tiểu Dã (Ono) và Quảng Trạch (Hirosawa). Ono và Hirosawa là tên các địa danh khởi nguồn của mỗi dòng. Mỗi dòng gốc lại chia thành sáu dòng nhánh, gộp chung gọi là Chân ngôn tông Dã Trạch thập nhị lưu. An Tường Tự (Anshoji) là ngôi chùa thuộc dòng Tiểu Dã.

Ở Nhật Bản, khai tổ Nhân Hải* của dòng Tiểu Dã thuộc hệ phái Chân ngôn tông được cho là người đầu tiên thực hiện tu pháp này vào năm Vạn Thọ thứ hai.

(*) Âm Nhật đọc là Ningai.

Về cơ bản thì đây là tu pháp phục vụ cho quốc gia, nhưng đôi khi cũng được dùng cho cá nhân. Phương pháp của phép này là hàng phục Vô Minh, Phiền Não, vốn là kẻ thù lớn nhất của Bồ Đề.

Nói cụ thể hơn, khi quốc gia rơi vào tình thế nguy khốn, người ta sẽ tạo ra một ống chuyển pháp luân và đặt trên đàn thờ để hành lễ. Ống chuyển pháp luân này được làm bằng gỗ xoan. Ghi chép trong cuốn Chuyển Pháp Luân Bồ Tát Tồi Ma Oán Địch Pháp cho biết, người ta đẽo gỗ thành một hình trụ tròn dài mười hai chỉ, chu vi tám chỉ*.

(*) Đơn vị đo tính bằng ngón tay.

Ở Nhật Bản, người ta thường dùng đồng nạm vàng, tre trúc hoặc gỗ hông. Tuy nhiên, ống chuyển pháp luân mà Huệ Quả dùng lần này được làm bằng gỗ xoan.

Xung quanh, bên trên và bên dưới ống có khắc mười sáu vị Đại Hộ* và bánh xe tám nan. Hình nhân của oán địch được gấp lại và nhốt kín bên trong ống.

(*) Tức mười sáu vị hộ thần gồm mười Đại Dược Xoa, ba Long Vương, ba Thiên Hậu.

Trường hợp bỏ hình nhân của gia chủ vào bên trong thì sẽ viết tên của oán gia và oán địch lên hai chân hình nhân.

Còn nếu bỏ hình nhân của oán địch vào bên trong thì sẽ cho tượng Bất Động Minh Vương giày xéo lên đầu và bụng, họ tên oán địch được viết ở dưới chân.

Sau khi lập ống chuyển pháp luân lên đàn thờ, pháp sư sẽ quán thỉnh mười sáu vị Đại Hộ cùng các vị thần khác như Vương Thành Trấn Thủ, thi hành mười tám đạo pháp, cầu xin gia hộ.

Sau khi kết nguyện tu pháp thì lấy hình nhân của oán gia ra, cho vào lò mà hóa đi.

Có nhiều thuyết về bản tôn thần của tu pháp này, nào là Đại Luân Kim Cương, hiện thân của Di Lặc biểu lộ cho hình tướng tồi ma oán địch, nào là Tồi Ma Oán Địch Bồ Tát, hay Đại Uy Đức Minh Vương biểu lộ cho trí tuệ chuyển pháp luân, nào là Kim Cương Tát Đỏa, hay Kim Luân Phật Đảnh, thậm chí chính là ống chuyển pháp luân.

“Có lẽ đây chính là tu pháp mà Huệ Quả A-xà-lê đang sử dụng, tất nhiên, chắc còn có một vài sáng tạo của riêng A-xà-lê nữa.”

Đó là điều Dật Thế được Không Hải giảng giải cho nghe.

Thế rồi Dật Thế hỏi Không Hải.

“Nhưng Không Hải này, vậy thì Huệ Quả A-xà-lê phải viết tên của oán gia lên hình nhân đúng không?”

“Có lẽ vậy.”

“Tức là A-xà-lê đã biết được tên của oán địch.”

“Có thể.”

“Tên ghi trên ấy là tông sư Druj hay Bạch Long…”

“Chà, khó lòng mà biết được chuyện ấy…” Không Hải nhắm mắt.

“Nhưng nếu viết bằng tên thật thì nghiệm lực của tu pháp sẽ mạnh hơn…”

“Tên thật thì nghiệm lực sẽ mạnh hơn?”

“Thế nên tớ khuyên cậu, nếu gặp những kẻ mà chúng có thể sẽ yểm bùa cậu thì tốt nhất hãy xưng tên giả, Dật Thế ạ.” Không Hải nói rồi cười lớn.

Đó là câu chuyện đêm qua.

❖ 3 ❖

“À mà này…” Không Hải cất tiếng trong lúc Tử Anh và Xích đứng dậy với vẻ mặt căng thẳng. “Hôm qua cậu Tử Anh đã tới ngôi nhà bên Sùng Đức Phường mà tông sư Druj đã ở phải không?”

“Tôi đã tới đó.”

“Tình hình thế nào?”

“Không thấy bóng dáng tông sư Druj đâu cả.”

“Thế còn cô gái?”

“Không có bóng dáng cô gái cũng như bất cứ ai. Có vẻ hai người bọn họ đã bỏ đi rồi.”

“Tình trạng ở đó ra sao?”

Nghe câu hỏi của Không Hải, Tử Anh khẽ nhíu mày.

“Rất tàn bạo và rùng rợn. Xác chết của chó, rắn, cóc, rết la liệt ngoài sân…”

Cậu ta kể có đến hơn trăm cái đầu chó chất đống ở góc sân, cùng một số lượng tương ứng những xác chó không đầu bị chôn dưới nền sân.

Xác những con rắn chết vì bị nấu chín hoặc phanh thây khoảng chừng hơn ba trăm.

Xác những con cóc chết theo cách tương tự cũng đến gần bốn trăm.

Mùi tanh của máu chó thấm vào đất và mùi thối rữa bốc lên nồng nặc.

“Nhưng cũng có một việc rất lạ.”

“Việc gì?”

“Ngoài những con đã chết thì vẫn có những con còn sống.”

“Vẫn có những con còn sống?”

“Vẫn còn khoảng hai trăm con rắn sống ở trong chum. Số cóc sống cũng bằng chừng ấy…”

“Ồ…”

“Cả chó nữa.”

“Cả chó nữa?”

“Vâng. Bên trong khuôn viên ngôi nhà vẫn còn mười mấy con chó đang đi quanh quẩn ăn xác chết đồng loại.”

“Hừ…”

“Tình cảnh đó nói lên điều gì? Chó, rắn hay cóc đều được dùng để làm bùa chú. Nhưng bọn họ bỏ chúng lại để chạy trốn thì có nghĩa là bọn họ đã thôi không làm phép nữa, phải vậy không ạ?”

“Vậy sao? Bọn họ bỏ chúng lại à?”

“Tôi đoán số lưọng chó chắc chắn phải nhiều hơn thế, nhưng phần lớn đã chạy thoát ra ngoài, chỉ còn lại một ít trong sân mà thôi.”

“Ta có thể nghĩ đến một vài khả năng.”

“Vâng.”

“Một là, bọn họ đã từ bỏ bùa phép, giống như suy luận của Tử Anh.”

“Vâng.”

“Hai là, bọn họ đã từ bỏ loại bùa phép ấy để đổi sang thứ bùa phép khác.”

“Hoàn toàn có thể nghĩ tới khả năng này, bởi loại bùa phép mà bọn họ làm đã bị đối phương phát hiện.”

“Hoặc, bọn họ đã cố tình bỏ lại các con vật để làm như sẽ đổi sang thứ bùa phép khác, nhưng thật ra là vẫn tiếp tục dùng loại bùa phép này.”

“…”

“Hoặc, chỉ đơn giản là vì không có thời gian nên bọn họ không thể mang theo các con vật tới một chỗ khác. Hơn nữa, nếu mang chúng theo, bọn họ sẽ thu hút sự chú ý của xung quanh. Hoặc giả, bọn họ chỉ mang theo một số, để lại những con không mang đi được?”

“Vậy là khả năng nào ạ?”

“Khoan hãy đưa ra kết luận vào lúc này. Trước đó, ta muốn hỏi cậu một câu. Cậu có nắm được manh mối gì về việc bọn tông sư Druj đã trốn đi đâu không?”

“Không ạ.” Tử Anh lắc đầu. “Tôi đã cho người đi dò la xung quanh, nhưng chưa thấy tin tức gì về việc có ai đó đã trông thấy bọn người giống như tông sư Druj đi đâu.”

“Vậy sao.”

“Chúng tôi không thể huy động nhiều người và làm lớn chuyện lúc này được. Vì không thể để cho thiên hạ biết hoàng đế đang bị kẻ nào đó yểm bùa.” Xích xen vào vẻ cáu kỉnh.

“Hẳn là như vậy rồi.”

“Nếu phát hiện thêm điều gì mới, tin tức sẽ được đưa đến chỗ tôi hoặc Xích, khi ấy chúng tôi sẽ báo ngay cho thầy Không Hải biết.”

“Ta hiểu rồi.”

“À mà hôm qua, thầy bảo có thể sẽ nhờ chúng tôi một vài việc?” Xích nói.

“Có gì xin thầy cứ sai bảo.” Lần này là lời Tử Anh.

“Thật ra ta đang có rất nhiều suy luận, nên muốn kiểm tra lại cho chắc chắn một chút.”

“Việc gì ạ?”

“Chẳng hạn như ngôi nhà ở Sùng Đức Phường mà cậu đã đến kiểm tra, cậu có biết ngôi nhà đó là của ai không?”

“Việc đó thì có thể điều tra được ngay ạ.”

“Vậy thì nhờ cậu giúp ta việc ấy.”

“Chủ nhân của ngôi nhà ấy thì có liên quan gì ạ?”

“Như đã nói, ta đang có rất nhiều suy luận, nhưng tốt hơn hết là phải tránh những định kiến không cần thiết, vì vậy ta chưa nên nói ra vào lúc này. Con người thường chỉ tìm thấy những điều mình muốn thấy, thành ra hay bỏ sót nhiều điều khác…”

“Tôi hiểu rồi.” Tử Anh gật đầu.

“Thế còn tôi sẽ làm gì?”

“Còn cậu Xích, ta xin nhờ cậu việc này.”

Không Hải lấy từ trong bọc áo ra một mảnh giấy gấp tư, rồi mở ra.

Khi thinh không đầy nắng, tôi lại muốn được ăn dưa.

Đó là một dòng chữ bằng tiếng Đường.

“Cái này là?” Xích cất tiếng hỏi.

“Cái này ta mới viết xong đêm qua.”

“Vâng?” Xích tỏ vẻ mặt đầy nghi hoặc.

“Ta muốn cậu chép thành nhiều tờ giống nhau, rồi dán ở những nơi dễ thấy trên phố lớn Chu Tước, chợ Tây và chợ Đông.”

“Dán cái này sao?”

“Nếu giải thích lý do vào lúc này thì sẽ rất mất thời gian, vì vậy trước mắt hai cậu cứ làm giúp ta mấy việc đó được chứ?”

“Tôi hiểu rồi.” Xích gật đầu.

“Khi nào xong hai việc này, ta lại nhờ các cậu những việc tiếp theo.”

“Rõ.” Hai người thanh niên trả lời bằng một điệu bộ lễ phép.

Sau đó, họ còn chuyện trò thêm đôi ba câu ngắn ngủi nữa rồi từ biệt.

“Chúng tôi xin được cáo lui.”

Hai người nhanh chóng bỏ lại Tây Minh Tự ở phía sau.

Khi bóng Tử Anh và Xích đi khuất, Dật Thế mới hỏi Không Hải.

“Này, việc cậu vừa nhờ hai người đó rốt cuộc là thế nào đấy? Sao cậu lại nhờ Tử Anh việc ấy?”

“Cậu đang nói đến việc nhờ Tử Anh đi điều tra chủ nhân của ngôi nhà ở Sùng Đức Phường ấy hả?”

“Ừ.”

“Suy nghĩ một chút đi rồi cậu cũng sẽ hiểu.”

“Tớ chịu. Tớ chịu nên tớ mới hỏi cậu Không Hải ạ.”

“Nghe nhé, Dật Thế, trong vụ việc lần này có rất nhiều chuyện xảy ra, nhưng tựu trung có một vài ẩn ngữ chung.”

“Ẩn ngữ?”

“Vì vậy mà tớ mới sai bọn họ đi điều tra.”

“Tớ chẳng hiểu chuyện gì cả.”

“Khi nào có kết quả điều tra, đằng nào tớ cũng sẽ nói với cậu.”

“Cậu đừng có làm ra vẻ thế chứ Không Hải.”

“Tớ đâu có làm ra vẻ.”

“Cậu định để tớ phát điên vì tò mò chắc?”

“Thôi nào, giờ thì hẵng chờ cái đã. Khi nào tìm ra, tớ sẽ nói hết cho cậu biết.”

“Thế còn mảnh giấy cậu đưa cho Xích là gì thế? Khi thinh không đầy nắng, tôi lại muốn được ăn dưa nghĩa là sao?”

“À, đó là thư gửi cho Đan Ông.”

“Gửi cho Đan Ông?”

“Ý là Không Hải có chuyện muốn nói, xin hãy đến tìm Không Hải.”

“Nhưng sao cậu viết như vậy?”

“Cái câu Khi thinh không đầy nắng cũng chẳng có hàm ý gì đặc biệt. Miễn là có chữ ‘Không’ thì viết thế nào cũng được. ‘Không’ ở đây tức là Không Hải ấy mà.”

“Thế còn Tôi lại muốn được ăn dưa là sao?”

“Tớ nói rồi đấy thôi. Ý là muốn gặp lại Đan Ông.”

“Nhưng cậu viết là ăn dưa mà.”

“Cậu còn nhớ chứ Dật Thế? Năm ngoái, khi đặt chân lên đất này, chẳng phải chúng ta đã được Đan Ông tặng dưa ở kinh đô Lạc Dương sao?”

“Ờ, cái ông già làm phép trồng dưa đó nhỉ.”

“Đúng rồi.”

“Ra là vậy.”

“Cậu hiểu rồi chứ? Bức thư đó là để người khác đọc được cũng không biết là ai gửi cho ai. Chỉ có Đan Ông mới hiểu.”

“Vậy cậu có chuyện gì định nói với Đan Ông?”

“Cũng giống như chuyện ai là chủ nhân của ngôi nhà ban nãy thôi.”

“Hả?”

“Nghĩa là, tớ muốn hỏi Đan Ông xem hiện giờ ngài Bạch Long đang ở đâu.”

“Liệu Đan Ông có biết không?”

“Để xem thế nào…” Không Hải nói rồi đưa ánh mắt xa xăm nhìn vào không trung.

Đúng lúc đó.

“Thầy Không Hải!” Có tiếng Đại Hầu gọi bên ngoài.

“Chuyện gì thế?” Không Hải hỏi.

“Ông Bạch Lạc Thiên lại đến tìm ạ.”

“Bạch Lạc Thiên?”

Bạch Lạc Thiên vừa mới gặp Không Hải ở Tây Minh Tự mấy hôm trước. Đâu đã phải là lâu quá.

“Anh hãy đưa ông ấy vào đây.” Không Hải nói.

Một lát sau, Bạch Lạc Thiên bước vào phòng Không Hải. Vẻ mặt như thể vừa nghĩ ra điều gì.

“Có chuyện gì vậy tiên sinh?” Không Hải hỏi.

“Cuối cùng tôi đã quyết rồi.” Bạch Lạc Thiên đáp.

“Quyết gì?”

“Tôi quyết định sẽ tới Hoa Thanh Cung ở Li Sơn. Vì vậy tôi tới đây để báo cho thầy biết.” Bạch Lạc Thiên hiếm khi nói liến láu như vậy. “Nếu tiện, tôi muốn mời thầy Không Hải đi cùng, thầy thấy sao?”

❖ 4 ❖

“Rốt cuộc, chính là nơi đó thầy ạ.” Bạch Lạc Thiên hạ thấp giọng nói với Không Hải.

“Nơi đó, ý tiên sinh là Hoa Thanh Cung?”

“Phải.” Bạch Lạc Thiên gật đầu. “Trong những nơi mà Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi đã trải qua cùng nhau, thầy hãy thử nghĩ xem đâu là nơi họ hạnh phúc nhất?”

Bạch Lạc Thiên nhìn Không Hải với ánh mắt ra vẻ đánh đố.

“Hóa ra là Hoa Thanh Cung sao?”

Rồi Không Hải quay sang nhìn Bạch Lạc Thiên như thể vừa nhận ra điều gì.

“Tiên sinh nói chí phải. Không thể là nơi nào khác được. Nếu buộc phải chỉ tên một nơi duy nhất lưu dấu thâm tình giữa hai người, thì chỉ có thể là nơi đó.”

Không Hải gật gù.

“Bốn hôm nữa tôi khởi hành, thầy đi cùng tôi chứ?”

“Nhất định rồi.”

“Sáng hôm đó tôi sẽ ghé qua đây. Nếu chẳng may thầy có việc gì vướng bận, xin hãy sai người đem thư đến báo cho tôi.”

Bạch Lạc Thiên chỉ nói có vậy rồi cáo từ.

“Tôi về đây.”

Bạch Lạc Thiên nói như nhổ một viên sạn ra khỏi miệng, rồi đứng dậy.

“Hẹn gặp thầy.”

“Hẹn gặp tiên sinh.”

Bạch Lạc Thiên đi rồi, Quất Dật Thế liền hỏi.

“Này Không Hải, chuyện Hoa Thanh Cung là thế nào?”

“Lúc trước tớ vừa nói với cậu về các ẩn ngữ phải không?”

“Ẩn ngữ?”

“Chẳng phải tớ đã nói với cậu là nhờ Tử Anh và Xích đi điều tra chúng đấy thôi.”

“Đúng là cậu có nói vậy, nhưng không bảo cho tớ biết ý nghĩa của những ‘ẩn ngữ’ ấy là gì.”

“Là Dương quý phi.”

“Quý phi?”

“Trong vụ việc lần này, mọi tình tiết đều có sự kết nối với Dương quý phi ở đâu đó.”

“Thì đúng là như vậy, nhưng thế thì sao?”

“Các việc tớ nhờ Tử Anh và Xích là để khẳng định chắc chắn cho lập luận này.”

“Nói như vậy thì mảnh đất có ngôi nhà hoang ở Sùng Đức Phường cũng có liên quan tới Dương quý phi?”

“Nên tớ mới sai Tử Anh đi điều tra.”

“Nếu có liên quan thì sao?”

“Thì nó sẽ là manh mối để cởi nút thắt cho câu hỏi: tại sao Bạch Long lại muốn lấy mạng hoàng đế?”

“Cái gì!?”

“Nhưng đúng là tài tình thật.”

“Cái gì tài tình?”

“Tớ đang nói đến Bạch Lạc Thiên.”

“Anh ta thì sao?”

“Tớ đã bỏ sót một ẩn ngữ quan trọng là Hoa Thanh Cung ở Li Sơn. Vậy mà anh ta đã nhìn ra.”

“Nhìn ra cái gì?”

“Hoa Thanh Cung là nơi thân thuộc nhất đối với cả Huyền Tông hoàng đế lẫn Dương quý phi.”

“…”

“Anh ta nhìn ra điều đó cũng là hợp lẽ thôi, vì đã dồn ngần ấy chấp niệm vào một bài thơ kia mà.”

Điều Không Hải muốn nói, khi đã được diễn đạt thành lời, thì đến cả Dật Thế cũng có thể hiểu được.

Li Sơn vốn dĩ chính là nơi Huyền Tông hoàng đế lần đầu tiên nghe nhắc đến Dương Ngọc Hoàn, lúc đó đang là vợ của Thọ vương, con trai mình.

Năm Đường Khai Nguyên thứ hai mươi tám.

Tháng Mười.

Huyền Tông ngự hành tới Ôn Tuyền Cung nằm trên một ngọn núi ở Li Sơn, có kẻ tâu lên rằng kẻ ấy biết một người con gái đẹp.

Cựu Đường thư chép: “Con gái của Huyền Diễm, sắc đẹp đứng đầu thiên hạ, nên được triệu kiến.”

Nghe thấy thế, Huyền Tông lập tức gọi kẻ thân cận là Cao Lực Sĩ đến.

“Ta nghe được một chuyện như thế, lời đồn ấy có thật không?”

Lẽ dĩ nhiên Cao Lực Sĩ đã nghe nói đến dung mạo của Dương Ngọc Hoàn từ lâu.

Khi ấy, có thể đoán được rằng, Cao Lực Sĩ đã kính cẩn xác nhận lời của Huyền Tông như sau.

“Hạ thần cũng có nghe chuyện đó.”

“Ngươi cũng biết chuyện đó sao?”

Đến lúc này, Huyền Tông mới thực sự tỏ ra chú ý.

“Nếu lời đồn là thật thì ta muốn xem mặt cô gái ấy.” Huyền Tông nói.

Hoàng đế nói muốn xem mặt thì tức là hãy triệu vào cung. Cao Lực Sĩ lập tức lên đường, mang Dương Ngọc Hoàn tới Li Sơn.

Đó là lần đầu tiên Huyền Tông và Dương Ngọc Hoàn giáp mặt, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của nàng, Huyền Tông quyết định giữ nàng ở lại bên mình.

Chúng ta hoàn toàn có thể hình dung ra câu chuyện này dựa trên những ghi chép trong Tư trị thông giám , nhưng thực tế lại có ít nhiều khác biệt.

Trước hết, có một vài điểm vô lý nếu cho rằng Huyền Tông hoàng đế chưa từng biết đến vẻ đẹp của Dương Ngọc Hoàn là vợ của con trai mình, hay nói cách khác là chưa từng gặp Dương Ngọc Hoàn.

Huyền Tông chắc chắn phải biết đến vẻ đẹp của Dương Ngọc Hoàn từ lâu, do đó mới có một kế hoạch kỹ càng cho việc sẽ chiếm đoạt người con gái đẹp ấy ở thời điểm nào và bằng cách nào.

Nếu nhìn vào sự hoàn hảo trong kế hoạch: triệu Dương Ngọc Hoàn vào cung, ban đạo danh Thái Chân, biến nàng thành đạo cô, rồi cho nhập Thái Chân Cung, thì có thể thấy luận điểm này rất vững chắc.

Dù sao thì cũng có một điều rõ ràng là Thái Chân Cung nằm ở Li Sơn, nơi tao phùng của Dương Ngọc Hoàn và Huyền Tông.

Thời kỳ này, Huyền Tông đang rất đam mê đạo Thần Tiên, nên có thể suy luận rằng, vì thế mà Huyền Tông mới nảy ra ý tưởng biến Dương Ngọc Hoàn thành đạo cô và cho sống trong Thái Chân Cung.

Tân Đường thư chép: “Tháng Mười, ngày Giáp Tý, hoàng đế ngự hành đến Ôn Tuyền Cung, cho nàng Dương vợ Vương Thọ làm đạo sĩ, đặt hiệu là Thái Chân.”

Huyền Tông cứ ở biệt Li Sơn, nơi cách xa thành Trường An, cùng người đàn bà ấy thì chuyện sao nhãng chính sự cũng không có gì là bất hợp lý.

Trẫm có được Dương quý phi như có được viên ngọc quý nhất đời.

Câu nói trơ trẽn ấy của Huyền Tông vẫn còn lưu truyền đến đời sau.

“Và chẳng phải nơi mà Quý phí cùng Hoàng Hạc, Bạch Long, Đan Long biến mất cũng chính là Hoa Thanh Cung ở Li Sơn sao?”

“Ừ nhỉ.”

“Khởi đầu và kết thúc của câu chuyện đều diễn ra ở Hoa Thanh Cung, biết đâu đó chính là sự an bài?”

“Không Hải này, câu chuyện đó kết thúc khi nào nhỉ? Hơn năm mươi năm trước? Hay cho tới nay vẫn chưa kết thúc?”

“Phần tiếp theo của câu chuyện thì không còn thuộc phạm vi của tớ nữa rồi.”

Không Hải nói, rồi khẽ nở nụ cười.