Chương XXXVIII Tiệc tan
1
“Vẫn chưa tìm thấy sao?”
Liễu Tông Nguyên hỏi.
“Vâng.”
Xích đáp.
Đó là buồng riêng của Liễu Tông Nguyên.
Liễu Tông Nguyên đang ngồi trên ghế và nghe Xích báo cáo.
Bên cạnh Liễu Tông Nguyên còn có Lưu Vũ Tích.
“Đã nửa tháng rồi…”
Liễu Tông Nguyên lẩm bẩm.
Đúng như lời Liễu Tông Nguyên, đã hơn nửa tháng trôi qua kể từ sau bữa tiệc ấy.
Xuân đã cạn, những cơn gió đầu hè bắt đầu thổi ở Trường An.
Hơn nửa tháng trước…
Nhận được báo cáo của Xích, Liễu Tông Nguyên đích thân dẫn theo một trăm quân lính phi ngựa đến Hoa Thanh Cung.
Liễu Tông Nguyên sững sờ khi nhìn thấy cảnh tượng ấy. Cơ man là xác thú giữa bạt ngàn những đóa mẫu đơn muôn màu.
Lẫn trong đó có cả xác người.
Xác hai ông già.
Đầu Tử Anh.
Một pho tượng dõng hỏng.
Nhưng ở đó không có Không Hải, cũng không có Quất Dật Thế.
Bạch Cư Dị cũng không thấy đâu, mà bóng dáng Đại Hầu và Ngọc Liên cũng không thấy nốt.
Rốt cuộc ở đó đã xảy ra chuyện gì?
Bọn Không Hải đã đi đâu mất?
Đó là điều không ai hay biết.
Chờ đợi Liễu Tông Nguyên ở Trường An là tin báo: bệnh tình của Thuận Tông hoàng đế đã tốt lên.
Ý thức của Thuận Tông đã trở lại.
Sau đó, Huệ Quả của Thanh Long Tự còn tiếp tục coi sóc Thuận Tông trong nửa tháng nữa.
Không còn bùa phép nào tác động từ bên ngoài. Bây giờ chỉ phải khu trừ những bùa phép xung quanh và bên trong Thuận Tông mà thôi.
Công việc đó cũng đã xong xuôi.
Điều cần thiết cho hoàng đế lúc này là bồi bổ, tĩnh dưỡng và các ngự y.
Có thể nói, hòa thượng Huệ Quả đã kết thúc nhiệm vụ.
Bản thân Huệ Quả cũng đã dùng cạn khí lực và thể lực cho việc này. Ông chắc chắn cũng đang phải hưu dưỡng ở Thanh Long Tự.
Kiệt sức cũng là từ mà Liễu Tông Nguyên muốn nói về bản thân.
Dọn dẹp tất cả các xác chết ở Hoa Thanh Cung, rồi đem đi chôn trong khu rừng gần đó.
Liễu Tông Nguyên đã phải đứng ra chỉ huy việc này.
“Nhưng tại sao bọn Không Hải lại phải ẩn mình?”
Lưu Vũ Tích thắc mắc.
“Đủ rồi.”
Liễu Tông Nguyên đứng dậy.
Anh ta chậm rãi bước đến bên ô cửa sổ hình tròn và nhìn ra bên ngoài.
Có một cái hồ nước lọt vào tầm mắt.
Rặng liễu trồng ven hồ đang đong đưa những chùm lá xanh thẫm trong gió.
“Ta đã đoán được lý do ấy…”
Vừa nhìn ra bên ngoài, Liễu Tông Nguyên vừa lẩm bẩm như vậy.
❖ 2 ❖Đêm…
Liễu Tông Nguyên đang ngủ trong phòng mình.
Một giấc ngủ chập chờn.
Gần như nửa mê, nửa tỉnh.
Có tiếng ếch kêu vọng vào từ hồ nước trong vườn.
Có hai hoặc ba loại gì đó…
Có những con ếch kêu ri rỉ như tiếng ve, cũng có những con ếch kêu ộp ộp ngắt quãng.
Và còn một loại nữa.
Đó là loại ếch gì nhỉ?
Có phải là tiếng ếch không?
Con ếch này kêu mãi từ nãy tới giờ.
Nhưng không phải từ hồ vọng lại.
Nếu không phải hồ thì từ đâu?
Có vẻ ở gần hơn.
Hình như ở trong nhà, mà không; ngay trong phòng.
Chẳng phải ở ngay góc phòng hay sao?
Nó ở ngay cạnh giường ngủ của Liễu Tông Nguyên.
“Ngài Tông Nguyên…”
Con ếch ấy kêu.
“Ngài Tông Nguyên…”
Không, không phải ếch.
Đó là tiếng người.
Có tiếng người gọi Liễu Tông Nguyên.
“Ngài Liễu Tông Nguyên.”
Liễu Tông Nguyên mở mắt.
Có hai người đang đứng ở đầu giường, ánh trăng từ cửa sổ chiếu vào lưng họ.
“Ngài tỉnh dậy chưa…”
Giọng nói đó hỏi.
Liễu Tông Nguyên suýt nữa thì kêu lên nhưng kìm lại được, vì dáng đứng của hai con người ấy không có vẻ gì đáng sợ.
Giọng nói cũng hiền hòa.
Hơn nữa lại rất quen.
Liễu Tông Nguyên chậm rãi ngồi dậy trên giường.
Nhìn hai người, Liễu Tông Nguyên hỏi.
“Không Hải phải không…”
“Vâng, tôi đây.”
Không Hải gật đầu.
“Thế còn người kia?”
“Ta là Đan Long…”
Cái bóng đó đáp.
“Đa… Đan Long sao?”
Liễu Tông Nguyên lập tức nhớ ra cái tên đó.
Anh ta đã được nghe nội dung bức thư của Triều Hành người nước Oa.
Cũng đã đọc qua bức thư của Cao Lực Sĩ.
Cái tên Đan Long xuất hiện trong cả hai bức thư.
“Hãy thắp đèn lên…”
Thân mình Đan Ông chuyển động, chiếc đèn đĩa đặt ở cạnh tường vụt sáng.
Ánh lửa đỏ mềm mại tỏa khắp căn phòng.
“Kh… Không Hải, đã xảy ra chuyện gì ở đó?”
Liễu Tông Nguyên hỏi.
“Tại sao cậu lại ẩn mình suốt thời gian qua?”
“Ai chứ ngài Liễu Tông Nguyên thì hẳn là rất rõ về lý do ấy.”
Không Hải nói.
“Ừm.”
Liễu Tông Nguyên gật đầu.
“Ta hiểu…”
Nhưng, tuy nói rằng hiểu, song không hẳn là đã hiểu hết.
Liễu Tông Nguyên đoán được lý do khiến Không Hải biến mất. Nhưng không có nghĩa là anh ta hiểu hết ngọn ngành.
“Hẳn là để phòng thân.”
Liễu Tông Nguyên nói.
“Vâng.”
Không Hải gật đầu.
Lý do khiến Không Hải ẩn mình đúng như những gì Liễu Tông Nguyên vừa nói.
Đó là để phòng thân.
Không Hải đã biết quá nhiều. Biết cả những điều có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Bí mật của vương triều nhà Đường là một chuyện, nhưng nếu chỉ có vậy thì không cần phải ẩn mình.
Lý do lớn nhất khiến Không Hải phải ẩn mình là vì đã biết bí mật của Vương Thúc Văn, người thân cận nhất với Thuận Tông hoàng đế.
Vương Thúc Văn đã giữ im lặng về bức văn bị đánh cắp, như thế là gián tiếp tiếp tay cho tông sư Druj, tức Bạch Long ấn chú Thuận Tông.
Sự việc lần này trước tiên sẽ được Liễu Tông Nguyên bẩm báo lên.
Không rõ Liễu Tông Nguyên định làm như thế nào, nhưng nếu sự thật ấy phơi bày ra ngoài ánh sáng, thì Vương Thúc Văn không thể ở lại ngôi vị tể tướng được nữa.
Vấn đề là, Liễu Tông Nguyên có báo cáo chuyện đó với Vương Thúc Văn hay không.
Lẽ tất nhiên, với cương vị của mình, anh ta bắt buộc phải báo cáo. Khi nói ra chuyện ấy, Vương Thúc Văn sẽ xử trí ra sao? Hẳn ông ta sẽ ỉm đi.
Vì nếu để lộ ra, Vương Thúc Văn có thể sẽ được ban cho thuốc độc. Còn Liễu Tông Nguyên sẽ bị biếm chức, nếu không biết.
Giả như có gì xảy ra với Vương Thúc Văn thì Liễu Tông Nguyên cũng không thể vô sự.
Bởi Vương Thúc Văn là tể tướng, nên Liễu Tông Nguyên mới có được vị trí hôm nay. Vương Thúc Văn và Liễu Tông Nguyên là những kẻ cùng thuyền.
Và như thế, cuộc cải cách Trường An, tức nhà Đường, sẽ chững lại từ đây.
Vậy phải làm thế nào?
Vương Thúc Văn sẽ chọn cách xóa sổ những kẻ có liên quan khỏi thế giới này.
Bọn Không Hải dù có thề thốt rằng không nói với ai, thì ông ta cũng không tin. Ngược lại, nếu muốn bảo vệ bản thân, bọn Không Hải chỉ còn cách là đưa chuyện này ra ánh sáng.
Đối với bọn Không Hải, ẩn mình là điều tiên quyết.
“Ta có nhiều chuyện muốn nói…”
Liễu Tông Nguyên cất tiếng.
“Nhưng trước đó, ta phải nói lời cảm tạ với cậu. Không Hải, trong sự việc lần này, ta không có lời nào tả xiết được sự giúp đỡ của cậu.”
Liễu Tông Nguyên nhìn Không Hải, rồi hỏi.
“Cậu chủ động tìm đến chỗ ta, nghĩa là cậu đã sẵn sàng mọi thứ rồi phải không?”
“Phải.”
Không Hải gật đầu.
Quất Dật Thế, Bạch Lạc Thiên, Ngọc Liên, Đại Hầu, rồi Dương Ngọc Hoàn, tất cả đều đang ẩn mình ở một nơi an toàn.
Nếu có chuyện gì xảy ra với bọn họ, hoặc Không Hải, hay Đan Ông, thì mối quan hệ giữa Vương Thúc Văn và kẻ ếm chú hoàng đế là Bạch Long sẽ được phơi bày. Tức là, những việc như thế đã chuẩn bị xong xuôi.
Riêng Lệ Hương thì không đi cùng những người khác, mà một mình rời khỏi Hoa Thanh Cung, đem theo nắm tóc của Bạch Long và biệt tăm từ bấy.
“Vốn dĩ, chúng tôi không có ý định để lộ ra chuyện này.”
Không Hải nói.
“Tôi tin là như thế.”
Liễu Tông Nguyên gật đầu.
Lời của Không Hải có thể tin cậy được.
“Chỉ có một vài người biết chuyện. Tông sư Druj cũng không còn ở trên cõi đời này nữa. Nếu chúng tôi giữ miệng thì chuyện không thể lộ ra ngoài.”
“Ta biết điều đó.”
Liễu Tông Nguyên lại gật đầu.
Tuy nhiên…
Liệu Vương Thúc Văn có chịu tin cho không?
“Nhưng quan trọng hơn, có phải cậu vừa bảo, tông sư Druj không còn ở trên cõi đời này nữa?”
“Vâng.”
“Nghĩa là ông ta chết rồi?”
“Tôi nghĩ ngài đã thấy một vài thi thể ở Hoa Thanh Cung, một trong số đó là tông sư Druj…”
“Ồ.”
“Và một người nữa…”
“Là ai?”
“Hẳn là ngài cũng biết cái tên ấy. Đó là ngài Hoàng Hạc.”
“Ồ, Hoàng Hạc trong bức thư đó hả…”
“Phải.”
“Không Hải, đã xảy ra chuyện gì ở đó? Cậu có thể kể cho ta nghe được không?”
“Đêm nay tôi đến đây vì mục đích đó.”
Không Hải giải thích, sau đó bắt đầu kể.
Chẳng có điều gì cần phải giấu Liễu Tông Nguyên.
Không Hải kể hết đầu đuôi những gì đã xảy ra ở Hoa Thanh Cung vào cái đêm ít lâu trước đó.
Đó là một câu chuyện dài.
Liễu Tông Nguyên im lặng lắng nghe lời kể của Không Hải.
Khi câu chuyện kết thúc, Liễu Tông Nguyên gật gù cùng với một tiếng thở dài buồn bã.
“Thật ra đêm nay chúng tôi tới đây là còn có một việc mong ngài Liễu Tông Nguyên gia ân.”
“Việc gì?”
“Ngài có thể sắp xếp cho chúng tôi gặp ngài Vương Thúc Văn được không?”
Không Hải nói.
“Gặp ngài Vương Thúc Văn?”
“Vâng.”
“Tất nhiên, ý cậu là gặp trong bí mật?”
“Vâng.”
“Để làm gì?”
“Để giải tỏa cho nhau mối bất an.”
“Ta hiểu rồi.”
Liễu Tông Nguyên quyết định rất nhanh.
“Ta sẽ cố gắng để có thể sắp xếp trong ngày mai. Ta sẽ liên lạc với vị nào?”
“Vậy hãy liên lạc với ta…”
Người nói câu ấy là Đan Ông. Đan Ông vẫn im lặng suốt từ lúc nãy.
Đan Ông lấy trong bọc áo ra thứ gì đó.
Một con chim sẻ.
Đan Ông trao con chim sẻ cho Liễu Tông Nguyên.
Dù được đặt trên lòng bàn tay Liễu Tông Nguyên, song con chim sẻ không có ý định bay đi.
“Khi nào quyết xong địa điểm và thời gian, ông hãy buộc thư vào con chim sẻ này và thả nó lên trời.”
Đan Ông nói.
“Vậy chúng tôi xin cáo từ.”
Không Hải vừa xoay lưng đi thì Liễu Tông Nguyên nói với theo.
“Đừng lo, Không Hải! Dù ngài Vương Thúc Văn nói gì thì ta cũng không để ông ấy giết cậu.”
Không Hải quay lại nhìn Liễu Tông Nguyên.
“Hẹn gặp ngài ngày mai.”
Không Hải cúi chào, rồi xoay lưng bước ra khỏi phòng.
Con chim sẻ vẫn đậu trên hai bàn tay Liễu Tông Nguyên.
❖ 3 ❖Vương Thúc Văn ngồi lọt thỏm trên ghế.
Mặc dù mũ áo chỉnh tề, song không giấu được vẻ tiều tụy của cơ thể và khuôn mặt.
Đó là một người đàn ông nhỏ thó. Có lẽ đã bảy mươi tuổi.
Cả chòm râu lẫn mái tóc bạc hình như đều được chải bằng dầu thơm.
Tuy nhiên, đôi mắt ông ta vẫn tràn trề năng lượng, sáng quắc như mắt một con mãnh thú.
Đó là phòng riêng của Vương Thúc Văn.
Trong phòng, ngoài Vương Thúc Văn còn có Không Hải, Đan Ông và Liễu Tông Nguyên. Tất cả chỉ có vậy, không thêm ai khác nữa.
Vương Thúc Văn đã bảo người nhà lánh đi chỗ khác.
Trong phòng còn có ba chiếc ghế khảm trai nữa, tuy nhiên Không Hải, Đan Ông và Liễu Tông Nguyên vẫn chưa ngồi xuống.
Không Hải đang nhìn thẳng vào Vương Thúc Văn.
Vương Thúc Văn không tránh né mà đón nhận ánh mắt của Không Hải.
Họ vừa xưng tên và chào hỏi nhau xong.
“Ta đã nghe mọi chuyện từ Liễu Tông Nguyên…” Vương Thúc Văn nói, giọng vang hơn tưởng tượng. “Cậu đã giúp ta rất nhiều trong chuyện này…” Giọng Vương Thúc Văn đều đều.
Không hiểu do ông ta giấu cảm xúc, hay đó vốn dĩ là cách nói của ông ta.
“Không Hải, Đan Ông, xin mời ngồi…”
Vương Thúc Văn giục.
Đan Ông, Không Hải, Liễu Tông Nguyên lần lượt ngồi xuống ghế.
Không Hải vẫn đang nhìn thẳng vào Vương Thúc Văn.
Suốt thời gian qua, Vương Thúc Văn đã sống trong nỗi e sợ đối với tông sư Druj.
Nếu tông sư Druj nói ra mối quan hệ của hai người thì chắc chắn tính mạng của Vương Thúc Văn sẽ không còn.
Hẳn là Vương Thúc Văn đã rất muốn giết tông sư Druj nếu có thể. Nhưng ông ta không thể. Ông ta không biết tông sư Druj ở đâu.
Đó là một nhân vật đáng sợ.
Nếu biết được Vương Thúc Văn định giết mình, tông sư Druj tất sẽ phơi bày mối quan hệ của họ ra ánh sáng.
Nhưng giờ đây tông sư Druj không còn ở trên cõi đời này nữa.
Tuy nhiên lại có kẻ khác biết được những điều giống như tông sư Druj đã biết. Nếu muốn, kẻ ấy cũng có thể làm những chuyện tương tự đối với Vương Thúc Văn.
Đó là bọn Không Hải.
Trong lúc tông sư Druj còn sống, Vương Thúc Văn cũng không thể động đến Không Hải.
Nếu ra tay, tông sư Druj sẽ nghĩ, hóa ra Vương Thúc Văn đã quyết chơi trò giết người diệt khẩu. Điều này có thể chọc giận tông sư Druj.
Cùng lắm thì chỉ có thể phái Xích và Tử Anh đi theo để báo cáo nhất cử nhất động của Không Hải thông qua Liễu Tông Nguyên mà thôi.
Nhưng tông sư Druj không còn ở trên cõi đời này nữa. Nếu giết chết bọn Không Hải thì bí mật sẽ không bao giờ còn có thể lộ ra ngoài.
Chỉ có điều, bọn Không Hải đã biến mất khỏi hiện trường. Nên chẳng thể làm gì.
Trước khi muốn giết bọn Không Hải hay làm gì đó, Vương Thúc Văn cần phải nghe chính miệng họ kể về những chuyện đã xảy ra ở đó.
“Không Hải này…”
Vương Thúc Văn khẽ cất tiếng.
“Đối với chính sự, mạng người là nhỏ.”
“Vâng.”
Không Hải gật đầu.
“Cậu cứ yên tâm, Không Hải.”
“…”
“Đến giờ phút này thì ta chẳng định làm gì với các cậu nữa cả.”
“Chúng tôi cũng sẽ không tiết lộ mối liên quan của ngài Vương Thúc Văn với sự việc về cái tráp và sự việc về tông sư Druj.”
“Hãy làm như thế. Nó sẽ cứu mạng ta.”
“Vâng.”
“Qua những gì Xích bẩm báo lại, có vẻ như các cậu cũng không mưu tính chuyện gì khác thường.”
Vương Thúc Văn nói đến đó thì lên cơn ho nhẹ.
“Thật lòng mà nói, không phải ta chưa từng nghĩ đến việc bịt miệng cậu. Nhưng giờ thì ta không còn ý định ấy nữa.”
Không Hải quan sát gương mặt Vương Thúc Văn như muốn thăm dò bụng dạ ông ta.
“Có một người muốn gặp các cậu.”
“Ồ.”
Người vừa thốt lên là Đan Ông.
“Người đó đã có ý muốn gặp thì ta không thể động vào các cậu được.”
“…”
“Nếu các cậu bị giết chết trước cuộc gặp, đương nhiên, sự việc sẽ bị điều tra.”
“…”
“Kể cả các cậu bị giết sau cuộc gặp, rốt cuộc cũng vẫn bị điều tra.”
“Vâng.”
“Khi bị điều tra, thì thế nào chuyện cũng lộ ra.”
“Vâng.”
“Để lọt qua được cuộc điều tra ấy, ta sẽ phải hết sức cẩn trọng để che đậy. Sẽ cần nhiều thời gian cho việc ấy. Mà ta thì không có nhiều thời gian đến vậy…”
“…”
“Không Hải, cậu hiểu rồi chứ?”
“Vâng.”
Không Hải gật đầu.
“Nói cách khác, ông muốn làm mọi việc có thể trong lúc Thuận Tông còn sống đúng không?”
Đan Ông vừa nói thẳng ra cái tên mà Vương Thúc Văn còn e dè chưa dám nhắc tới.
Vương Thúc Văn nhất thời nín thở, đảo mắt nhìn quanh, nhưng vốn dĩ trong phòng chẳng có ai nghe được những lời ấy ngoài bọn họ.
“Giữa chúng ta có lẽ cũng không cần giấu giếm nhau những điều như thế nữa nhỉ…”
Lần đầu tiên Vương Thúc Văn nở một nụ cười.
Một nụ cười gượng.
Nhưng dù là cười gượng thì cũng là lần đầu tiên Vương Thúc Văn biểu lộ cảm xúc của mình.
“Số phận của bọn ta gắn liền với mạng sống của ngài Thuận Tông…”
Vương Thúc Văn nói.
Nếu hoàng đế chết, “kỳ thủ cờ vây” Vương Thúc Văn sẽ lập tức bị biếm về địa phương bởi vị tân hoàng đế và chúng thần xung quanh.
Thậm chí còn phải chấp nhận cái chết.
Đó là số phận của những kẻ hầu cận hoàng đế trong lịch sử nhà Đường.
“Nhưng dù sao thì đó cũng thật là một câu chuyện ly kỳ…”
Vương Thúc Văn nói.
Ông ta đang nhắc đến câu chuyện về Không Hải được Liễu Tông Nguyên kể cho nghe.
“Không Hải này, ngài Thuận Tông muốn gặp cậu.”
Vương Thúc Văn nói tiếp.
“Nhưng trước đó, ta có một việc cần phải thống nhất với cậu…”
“Việc gì ạ?”
“Cho tới nay, các cậu đã ở đâu, làm gì. Đó là điều chúng ta phải thống nhất với nhau trước khi yết kiến hoàng đế.”
Vương Thúc Văn mỉm cười.
❖ 4 ❖Không Hải yết kiến Thuận Tông hoàng đế năm hôm sau đó.
Cậu đi bộ từ Thừa Thiên Môn để vào cung Thái Cực, qua hai cổng nữa thì tới Thái Cực Điện.
Hẳn là A Bội Trọng Ma Lữ - Triều Hành đã từng tới đây, nên Không Hải có lẽ là người nước Oa thứ hai được vào điện này.
Đó là một tòa đại điện lộng lẫy.
Nếu ở phía Tây lục địa Á-Âu có đế quốc La Mã thì ở phía Đông có Trường An của Đại Đường. Và vào thời kỳ này, xét về quy mô của một đô thị, Trường An còn lớn hơn cả La Mã. Nếu phải định ra một nơi nào đó trên địa cầu để làm trung tâm của thế giới trong thời kỳ này, thì có lẽ đó phải là kinh đô Trường An của đế quốc Đại Đường.
Và trung tâm của Trường An là Thái Cực Cung, trung tâm của Thái Cực Cung là Thái Cực Điện, nơi Không Hải đang đặt chân đến lúc này.
Và trung tâm của Thái Cực Điện là Thuận Tông hoàng đế.
Trung tâm của thế giới này chỉ có một nhân vật.
Đó là nhân vật duy nhất trên thế giới tự xưng bằng “trẫm”.
Không Hải đang đứng trước cái trung tâm ấy của thế giới.
Nói khác đi, nhân vật ấy đang ngồi trên biết bao thành quả, công sức mà con người đã xây đắp nên qua lịch sử.
Tuy nhiên…
Không Hải nhìn nhận thế giới này bằng khái niệm về vũ trụ.
Cậu hiểu rằng trung tâm của vũ trụ là Đại Nhật Như Lai, nói theo cách ngày nay thì đó chính là nguyên lý căn bản.
Cậu cũng biết rõ rằng, nếu xét theo ý nghĩa này thì mọi nơi trong vũ trụ đều là trung tâm và có giá trị ngang nhau. Mọi thứ trong vũ trụ chẳng qua chỉ là một biểu hiện của cái nguyên lý được gọi bằng Đại Nhật Như Lai. Hoàng đế rốt cuộc cũng chỉ là một nhân vật được con người lập ra trong xã hội loài người. Không phải cái gì bất biến.
Hoàng đế rốt cuộc chỉ là một danh hiệu, mà biết đâu ngày mai sẽ do một kẻ khác tự xưng.
Tuy nhiên…
Không Hải không coi đó là “vô nghĩa”.
Cậu không nghĩ rằng những giao ước, quy phạm trong xã hội con người là vô nghĩa.
Nếu xã hội không có quy phạm, con người không thể sống được.
Tư tưởng giống như một báu vật về vũ trụ được gọi bằng “Mật” là thứ không thể sinh ra nếu không có xã hội con người.
Hoàng đế đang ngồi đó, trước mắt Không Hải, mà đúng hơn là phía trên Không Hải.
Không Hải đang đứng trước những bậc thềm trải thảm Ba Tư.
Trên cùng những bậc thềm ấy là một chiếc ghế làm bằng vàng, Thuận Tông đang ngồi đó.
Không Hải đang ngước nhìn lên cái nhân vật duy nhất và là trung tâm của thế giới.
Nhân vật ấy gầy gò, nom như bị vùi trong đống y phục thêu bằng những sợi vàng, sợi bạc xa hoa.
Nhân vật ấy già nua và tiều tụy hơn tuổi thực, đang nhìn xuống Không Hải.
Đáng thương…
Điều đầu tiên hiện lên trong trí óc Không Hải là ý nghĩ ấy.
Ông ta quá đỗi mờ nhạt để ngồi vào vị trí trung tâm và khoác lên mình tấm-áo-thế-giới.
Hoàng đế ở đó chỉ để thực hiện chức năng của mình, trang phục hay ngai vàng cũng chỉ là bề ngoài, chứ còn thân xác ai chui vào trong đó mà chẳng được?
Hoàng đế có vai trò của hoàng đế, Thuận Tông có vai trò của Thuận Tông trong những quy phạm của xã hội con người, nếu không có vai trò này, xã hội con người sẽ không thể vận hành.
Bản thân mình cũng chỉ là một bộ phận của cái chức năng ấy thôi, Không Hải vừa nhìn Thuận Tông vừa tự nhủ.
Không Hải quỳ gối, chống hai tay, dập đầu xuống sàn, bên dưới những bậc thềm, trước mặt hoàng đế.
Cậu làm như thế năm lần.
Rồi Không Hải ngẩng mặt lên, đứng dậy. Đứng cạnh Không Hải là Vương Thúc Văn. Và phía sau là Liễu Tông Nguyên.
Trong số những kẻ có mặt tại Hoa Thanh Cung, Không Hải là người duy nhất đang được đứng ở đây.
“Cậu được phép đối đáp thẳng với hoàng đế.”
Vương Thúc Văn thì thầm bên tai Không Hải.
Vâng…
Không Hải không đáp thành tiếng, mà gật đầu.
“Kẻ này là Không Hải.”
Vương Thúc Văn nói về phía Thuận Tông.
“Thần là Không Hải, tới từ Oa quốc.”
Không Hải cất tiếng.
Không Hải đang nhìn lên Thuận Tông từ bên dưới.
Thuận Tông đang nhìn xuống Không Hải từ bên trên.
Cứ như thế một lát thì Thuận Tông cất lên tiếng nói đầu tiên.
“Thật là dị tướng…”
Giọng nói ấy khó nghe đến mức mà mặc dù đã thành thạo tiếng Đường, song Không Hải cũng không thể nghe được.
Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì Thuận Tông đã từng bị nhồi máu não một lần. Mặc dầu thoát chết, nhưng khi nói, lưỡi ông ta cứ ríu lại, không thể phát âm cho tròn vành.
Tuy là người Oa, nhưng cằm Không Hải nở nang một cách hiếm có.
Không Hải đang nhìn thẳng vào Thuận Tông với đôi mắt không hề sợ hãi, miệng vẫn khép chặt như một tảng đá.
Không Hải không đáp lại lời Thuận Tông. Vì cậu biết, khi nói ra câu ấy, Thuận Tông không đòi cậu phải đáp lại.
“Ta đã nghe Vương Thúc Văn kể hết chuyện…”
Thuận Tông nói.
Thuận Tông nhìn thẳng vào Không Hải, mấp máy miệng như muốn nói gì đó, nhưng lại thôi.
Ông ta giơ bàn tay phải lên, rồi lại mở miệng một cách bực dọc.
“Ngươi thật vất vả…”
Thuận Tông nói.
Rồi lặp lại.
“Ngươi thật vất vả…”
Đúng như lời Thuận Tông, toàn bộ sự việc đã được Vương Thúc Văn thuật lại cho Thuận Tông nghe. Tất nhiên, chuyện giữa tông sư Druj và Vương Thúc Văn đã được lược bỏ.
Nhưng riêng Đan Ông và Dương Ngọc Hoàn đã biến mất khỏi Hoa Thanh Cung và không rõ hiện nay đang ở đâu.
Ngồi trước mặt Không Hải là một con người đầy bực dọc.
Con người này đang mất dần chức năng của một hoàng đế.
Cái ngày chung cuộc ấy chắc chẳng còn xa.
Bản thân Thuận Tông có lẽ cũng hiểu rõ điều này.
Vì vậy, ông ta đang cố gắng làm tròn chức năng cho đến khi nào có thể.
Ít ra thì Thuận Tông không phải một kẻ ngu.
Chắc hẳn Thuận Tông bực dọc vì không thể xoay xở cái thân xác trong vai trò hoàng đế của mình theo ý muốn.
“T… ta từng muốn một lần được gặp Dương Ngọc Hoàn…”
Thuận Tông lẩm bẩm.
Không Hải cũng đoán vậy.
Ai mà chẳng muốn thế.
Nhưng chính Không Hải cũng không biết Đan Ông và Dương Ngọc Hoàn bây giờ ở đâu.
Một ngày sau khi Bạch Lạc Thiên, Ngọc Liên và những người khác quay trở lại Trường An, tức cách đây hai hôm, họ đã lẳng lặng biến mất.
“Dù sao cũng là một chuyện kỳ lạ…”
Thuận Tông nói.
“Vâng.”
Không Hải chỉ đáp có vậy.
Cậu để Thuận Tông tiếp tục nói.
“Không thể ngờ vì một chuyện mình chẳng hề hay biết trong quá khứ mà trẫm lại phải chịu cái họa này…”
“…”
“Nhưng con người được sống trong hiện tại là nhờ vào những điều mà mình chẳng hề hay biết trong quá khứ… Gấm vóc trên mình trẫm, lửa dùng để nướng thức ăn, chẳng phải đều do người xưa, những kẻ mà trẫm chẳng hề hay biết làm ra đó ư? Nhờ vậy nên chúng ta mới được sống trong hiện tại. Dẫu cho tính mạng bị tước đoạt bởi những điều mình không hề hay biết trong quá khứ, thì cũng đành phải chấp nhận.”
Kỳ thực, Thuận Tông không thể nói lưu loát được như thế. Có đôi chỗ ứ nghẹn, khó hiểu nhưng Vương Thúc Văn đã diễn dịch lại.
“Không Hải này.”
Thuận Tông gọi.
“Vâng.”
Không Hải đáp.
“Con người ai cũng phải chết.”
“Vâng.”
“Trẫm đây rồi cũng chết.”
“Vâng.”
Không Hải tiếp tục gật đầu đồng tình.
“Con người đã mang sẵn một sứ mệnh nào đó khi sinh ra trên cõi đời này.”
“Thần hiểu ạ.”
“Trẫm mang sứ mệnh là hoàng đế.”
“Vâng.”
“Khanh mang sứ mệnh gì?”
“Thần mang sứ mệnh là sa môn Không Hải…”
“Vậy thì mục đích mà sa môn Không Hải sang Đường thổ này là gì?”
Thuận Tông nói đến đó liền thở một chập, có lẽ do quá mệt.
“Chắc hẳn không phải vì muốn dính líu tới những bí mật của vương triều nhà Đường ta.”
Thuận Tông nói tiếp.
“Không Hải à, mục đích ngươi sang Đường là gì?”
“Là vì bí mật của trời ạ.”
Không Hải đáp.
Không Hải cố tình tránh cách gọi vũ trụ.
“Bí mật của trời?”
“Tức là Mật ạ.”
“Mật?”
“Thần muốn đem Mật từ Trường An về Oa quốc.”
Không Hải nói.
Thuận Tông chăm chú nhìn Không Hải, rồi hỏi.
“Không Hải, ngươi không định ở lại Trường An này sao?”
Chắc chắn Thuận Tông đã có ý muốn giữ một nhân tài như Không Hải ở lại Trường An.
Có thể nói, câu hỏi ấy khiến Không Hải đứng trước một rủi ro lớn.
Nếu trả lời rằng có, cậu sẽ phải ở lại. Vì đây là cuộc đối đáp trực tiếp với hoàng đế, nên sau đó cậu không thể bội ước.
Nhưng dẫu vậy, cậu cũng không thể đáp rằng không.
Nói có cũng không xong, nói không cũng không xong, đã thế còn phải đưa ra câu trả lời ngay tại chỗ.
“Nhà thần vốn dĩ chính là trời đất này, nên dù trú chân ở đâu thì cũng chỉ là chuyện nhỏ thôi ạ.”
“Ồ.”
Ở Trường An cũng được, không ở Trường An cũng được… Đó là ý Không Hải.
Tuy nhiên, Thuận Tông không cật vấn thêm rằng: Vậy sao không ở lại Trường An?
Thuận Tông chờ Không Hải nói tiếp.
Về phía Không Hải, cậu cũng muốn ở lại Đường. Với cậu, Nhật Bản quá nhỏ hẹp. Trường An của Đường vừa vặn với cái bình chứa đựng thứ tài năng siêu quần như Không Hải hơn.
Bản thân Không Hải cũng ý thức được điều này.
Tuy nhiên…
Nhật Bản vẫn chưa có Mật.
Trường An thì có, nhưng Nhật Bản thì chưa.
Dùng Mật để biến Nhật Bản thành nước Phật…
Ở Nhật Bản, Không Hải đã hứa lời hứa ấy.
Aterui.
Sakanoue-no-Tamuramaro.
Cậu không thể phản bội lời hứa với họ.
Vả lại, đất nước này quá rộng lớn để nuôi dưỡng một nền Mật giáo mang triết lý thuần túy. Nhật Bản có lẽ sẽ phù hợp hơn để sản sinh và nuôi dưỡng một dòng Mật mới.
“Tuy nhiên…”
Nói đến đây, Không Hải dang rộng hai tay, nhìn Thuận Tông.
“Đối với thần thì ở đâu cũng như nhau, nhưng đối với Nhật Bản thì khác. Đất nước Nhật Bản cần đến thần.”
Không Hải điềm nhiên nói.
Đó là một cách nói ngạo mạn, là những ngôn từ tràn đầy sự tự tin đến mức thái quá.
Trên gương mặt Không Hải bừng lên một nụ cười rạng rỡ. Một nụ cười không khỏi khiến người khác bị hút hồn.
“Chắc chắn là như vậy rồi.”
Không thể ngờ rằng nhân vật ở trung tâm của thế giới đã đáp lại Không Hải như thế. Thuận Tông hoàng đế đã khẳng định câu nói của Không Hải.
Thế rồi Không Hải không để cho Thuận Tông kịp nói gì thêm.
“Đa tạ hoàng thượng.”
Dứt lời, Không Hải liền cúi rạp người về phía Thuận Tông.
Thông thường, lời nói và cử chỉ ấy sẽ đưa tới một cách hiểu chung rằng đến đây thì Không Hải sẽ ra về.
Nhưng Không Hải không để cho cuộc trò chuyện kết thúc ở đó.
“Tuy nhiên, thần sang Đại Đường với ước định sẽ ở lại đây trong hai mươi năm.”
Đó là sự thật.
Không Hải là lưu học tăng, Quất Dật Thế là lưu học sinh, họ dự định ở lại đây hai mươi năm để học Mật và Nho.
Đây là cam kết giữa hai quốc gia: nước Nhật Bản và đế quốc Đại Đường. Các Khiển Đường sứ không được phép tự tiện hồi hương.
“Hai mươi năm là quãng thời gian bằng nửa đời người.”
“Phải.”
Hoàng đế gật đầu.
“Trong nửa đời người ấy, thần xin dâng hiến toàn bộ sức lực của mình cho Đại Đường và hoàng đế.”
Không Hải thật khéo léo.
Tuy nói rằng sẽ về Nhật Bản, nhưng tiếp đến cậu lại nói về quãng thời gian sau đây hai mươi năm. Chẳng khác nào nói rằng mình sẽ ở lại Đường trong hai mươi năm ấy.
Sau khi rào đón như thế, Không Hải mới chuyển hướng câu chuyện.
“Chỉ có điều… Thần không biết sau hai mươi năm nữa, liệu rằng còn có thuyền từ Nhật Bản sang đón hay không.”
Xét đến khoảng cách xa xôi giữa Nhật Bản và Đường thì những lời ấy không phải không có tính thực tế.
“Nếu coi mục đích ban đầu là Mật, thì sau khi lĩnh hội xong, thần thiết nghĩ nên trở về Nhật Bản càng sớm càng tốt, dù cho chưa hết kỳ hạn hai mươi năm. Tuy nhiên, việc học Mật còn chưa đến đâu, vả lại thần cũng chưa biết ngày nào thì thuyền từ Nhật Bản sẽ sang lại.”
“Ờm.”
Hoàng đế gật đầu.
Ở đây, Không Hải vừa nêu ra một giả định: “nếu đạt được mục đích ban đầu là lĩnh hội được Mật rồi thì có thể về nước trước kỳ hạn hai mươi năm theo cam kết”, và Thuận Tông đã đồng ý.
Dẫu không phải một buổi yết kiến chính thức, song quan chép sử của triều đình dĩ nhiên đã ghi lại cuộc đối đáp này.
“Mật sao…”
Thuận Tông nói.
“Vâng.”
Không Hải đáp.
“Nếu là Mật, ngươi hãy đến Thanh Long Tự.”
Thuận Tông nói.
“Ngươi chưa đến Thanh Long Tự, phải không?”
“Thần chưa đến.”
“Vậy là ngươi vẫn chưa gặp Huệ Quả, phải không?”
“Vâng.”
“Phải mau lên mới được, Không Hải…”
Thuận Tông nói.
Thuận Tông đã có vẻ mệt.
“Thời gian không chờ đâu…”
Đó là những lời cuối cùng của Thuận Tông dành cho Không Hải.
Không Hải hiểu rõ những lời ấy của Thuận Tông.
“Thần sẽ làm ngay.”
Không Hải đáp.
❖ 5 ❖Không Hải đặt chân tới Thanh Long Tự vào cuối tháng Năm.
Có hai nhà sư của Tây Minh Tự đi cùng Không Hải. Ấy là Chí Minh và Đàm Thắng.
Thanh Long Tự nằm ở Tân Xương Phường thuộc phố Đông. Xung quanh chùa có cả những rạp diễn trò quái dị và quán rượu.
Đi qua đám đông nhốn nháo ấy, Không Hải tới cửa Thanh Long Tự dưới màu lá xanh non. Không Hải đã cạo trọc đầu, khoác lên mình bộ y phục mới trước khi tới đây. Cậu vừa bước qua ngưỡng cửa của thánh điện Mật giáo với gương mặt tựa như một chàng thanh niên non tơ, bẽn lẽn.
Huệ Quả đã được báo trước việc Không Hải đến.
Huệ Quả cũng phấn khích như một đứa trẻ trong lúc cùng rất nhiều tăng sư trong chùa ra sơn môn* nghênh đón Không Hải.
•
Tức cổng chùa.
Cả hai người đều đã không ít lần nghe nói về nhau.
Và đây là cuộc giải cấu mà cả hai đều mong mỏi.
Vừa nhìn thấy Không Hải, Huệ Quả liền ửng hồng hai má như một thiếu nữ và thốt lên: “Ta hảo! Ta hảo!”*
•
Cách phát âm trong tiếng Trung Quốc của các chữ: đại hảo, đại hảo.
Có nghĩa là: rất tốt, rất tốt.
Sau này, Không Hải có thuật lại cuộc gặp gỡ ấy trong Ngự thỉnh lai mục lục như sau:
Hòa thượng vừa trông thấy, liền tươi cười, hoan hỉ nói: “Ta đợi con đến đã lâu. Hôm nay được gặp nhau, rất tốt, rất tốt.”
“Mệnh ta sắp tận rồi.”
Huệ Quả muốn bảo rằng mình không còn sống được bao lâu nữa.
Huệ Quả nói ra điều hệ trọng này với một lưu học tăng tới từ Nhật Bản nhẹ như không.
Các đệ tử đều biết rằng, Huệ Quả chẳng còn sống được bao lâu. Cơ thể vốn ốm yếu, nay lại phải bảo vệ Thuận Tông khỏi bùa chú khiến cho sinh lực đã hao mòn càng hao mòn thêm. Nhưng đây là lần đầu tiên các đệ tử nghe thấy Huệ Quả tự mình nói ra điều ấy.
Song Huệ Quả không buồn. Mà chỉ có niềm phấn khích hệt như một đứa trẻ khi nhìn thấy Không Hải.
“Không Hải ơi, thật tốt khi được đón con tới Thanh Long Tự vào đúng thời khắc này.”
Bên cạnh Huệ Quả, nhà sư người Thổ Phồn là Phụng Minh vừa tủm tỉm cười vừa nhìn Không Hải.
❖ 6 ❖Cách thức truyền thừa của Mật giáo không dựa vào kinh sách. Pháp quán đảnh được sư phụ tiến hành trực tiếp lên đệ tử.
Pháp quán đảnh ấy đã được Huệ Quả gấp rút, tới mức có thể nói là cuống cuồng, thực hiện với Không Hải.
Mật giáo có hai hệ thống gồm Thai Tạng bộ và Kim Cương bộ. Tức là Mật giáo theo hệ Đại Nhật kinh và Mật giáo theo hệ Kim Cương Đảnh kinh, được gọi đơn giản là Thai Tạng giới và Kim Cương giới.
Không Hải được Huệ Quả truyền lại cả hai bộ Mật này.
Lưỡng bộ Mật giáo là hai tư tưởng phát triển độc lập ở Thiên Trúc, tức Ấn Độ, và cũng đi theo những con đường riêng biệt để tới Trường An. Người đầu tiên thu tụ được cả hai bộ Mật vào trong mình chính là Huệ Quả.
Huệ Quả được Bất Không truyền lại Mật giáo theo hệ Kim Cương Đảnh kinh.
Còn Mật giáo theo hệ Đại Nhật kinh thì do Huyền Siêu người Tân La, là đệ tử của nhà sư Thiên Trúc Thiện Vô Úy truyền lại.
Trong hàng ngàn đệ tử của Huệ Quả, người được truyền lại cả hai bộ Mật cho đến lúc này chỉ có Nghĩa Minh. Nhưng vào thời gian Không Hải nhập Đường, Nghĩa Minh đã mắc bệnh. Căn bệnh này khiến Nghĩa Minh không thể sống được lâu. Nếu Huệ Quả và Nghĩa Minh chết đi, thì sẽ chẳng còn ai biết cả hai bộ Mật là Kim Cương bộ và Thai Tạng bộ nữa.
Đúng lúc ấy thì Không Hải xuất hiện trước mắt Huệ Quả.
Có thể nói, những điều mà Không Hải làm ở Trường An trong thời gian này là một thứ kỳ tích. Ngay lần đầu tiên đứng trước mặt Huệ Quả, Không Hải đã hoàn toàn có đủ năng lực trí tuệ để tiếp nhận cả hai bộ Mật ấy.
Xét theo một nghĩa nào đó, có thể cho rằng, ở thời điểm ấy Không Hải đã làm chủ cả hai bộ Mật giáo rồi chứ không chỉ là một ứng viên có đủ điều kiện nữa. Việc cần thiết sau đó chỉ là nghi thức truyền pháp theo thủ tục của Mật giáo mà thôi.
Để tiếp nhận Mật giáo thì việc nắm trong tay hai ngôn ngữ Hán, Phạn là điều kiện không thể thiếu, ở thời điểm đứng trước mặt Huệ Quả, Không Hải đã hoàn toàn làm chủ được cả hai ngôn ngữ này.
Từ khi ở Nhật Bản, Không Hải đã có thể sử dụng tiếng Hán điêu luyện hơn cả người Hán.
Tiếng Phạn, hay nói cách khác là tiếng Sankrit, cậu cũng đã học từ khi còn ở Nhật Bản.
Và sau khi tới Trường An, cậu chỉ mất khoảng nửa năm để hoàn toàn làm chủ nó.
Về việc này, chính Không Hải có ghi lại trong sách Bí mật Mạn đà la giáo phó pháp truyện.
Bát Nhã Tam Tạng ở chùa Lễ Tuyền là thầy dạy tiếng Phạn của Không Hải, nhưng với một người như Không Hải thì hẳn là cậu đã tìm gặp những người Thiên Trúc ở trên phố, bắt chuyện để cố gắng hoàn thiện hơn tiếng Phạn của mình.
Hán, Phạn không thua kém gì nhau, tất cả đều nằm lòng.
Huệ Quả đã đánh giá về khả năng ngôn ngữ của Không Hải như vậy.
Quả thực, nếu không có vốn ngôn ngữ bằng ấy thì dù Không Hải có tài năng đến đâu, dù mạng sống của Huệ Quả còn lại ngắn ngủi đến đâu, chắc chắn Huệ Quả cũng đã không truyền lại Mật cho Không Hải.
Tháng Sáu, Không Hải thọ nhận lễ quán đảnh Thai Tạng giới.
Tháng Bảy, thọ nhận lễ quán đảnh Kim Cương giới, tháng Tám được Huệ Quả làm lễ truyền pháp quán đảnh, qua đó thọ nhận phẩm vị A-xà-lê là phẩm vị cao nhất trong Mật giáo.
❖ 7 ❖Vẫn còn lưu lại một giai thoại về lễ quán đảnh khi ấy.
Trong lễ quán đảnh, người được quán đảnh sẽ phải thực hiện nghi thức ném hoa. Người này phải chắp hai tay, đan các ngón tay vào nhau và quắp chặt lại, chỉ để hai ngón trỏ duỗi thẳng. Hai ngón trỏ sẽ kẹp lấy bông hoa, sau đó thả xuống hình đồ Mạn Đà La đặt dưới sàn.
Khi ấy, người ném hoa bị bịt mắt và được sư phụ dẫn vào đàn lễ quán đảnh có đặt Mạn Đà La. Vì vậy người ném hoa sẽ không biết bông hoa mình thả rơi vào đâu.
Bông hoa thả xuống sẽ rơi vào một trong số các vị Phật. Vị Phật ấy sẽ trở thành vị Phật mà người ném hoa niệm trì suốt đời.
Trong lễ quán đảnh Thai Tạng bộ vào tháng Sáu, bông hoa Không Hải thả xuống rơi trúng Đại Nhật Như Lai ở trung tâm. Không Hải đã tự mình ngắt một bông hoa trai thường trong vườn Thanh Long Tự để cho nghi thức ấy.
Lúc Không Hải thả hoa xuống, xung quanh đều ồ cả lên.
Sau khi gỡ bịt mắt ra, Không Hải thấy bông hoa nhỏ màu tím nằm trên hình Đại Nhật Như Lai của Thai Tạng bộ.
“Hồi của ta là Chuyển Pháp Luân Bồ tát…”
Huệ Quả nói như vậy với Không Hải.
Trong lễ quán đảnh Kim Cương bộ vào tháng Bảy, bông hoa Không Hải thả xuống lại rơi trúng Đại Nhật Như Lai nằm ở trung tâm của đồ hình Kim Cương giới Mạn Đà La.
“Bất khả tư nghi, bất khả tư nghi.”
Huệ Quả vui sướng nói.
Như vậy, vị Phật mà Không Hải sẽ niệm trì cho cả lưỡng bộ Mật giáo, Kim Cương bộ và Thai Tạng bộ, đều là Đại Nhật Như Lai.
❖ 8 ❖Đến tháng Tám là lễ truyền pháp quán đảnh.
Quán đảnh, đúng theo nghĩa đen, là rưới nước lên đỉnh đầu, tuy nhiên, truyền pháp quán đảnh không phải phép quán đảnh thông thường.
Phép quán đảnh trong Mật giáo vốn có ba loại, ngoài các phép quán đảnh riêng của lưỡng bộ.
Đó là,
Kết duyên quán đảnh,
Thọ minh quán đảnh,
Truyền pháp quán đảnh.
Kết duyên quán đảnh là nghi thức không chỉ được tiến hành với tăng sư, mà còn có thể tiến hành với cư sĩ nếu có nguyện vọng. Nhà sư thực hiện nghi thức sẽ rót nước thơm từ trong bình lên đầu người thọ lễ. Người được quán đảnh không nhất thiết phải có kiến thức về Mật giáo.
Thọ minh quán đảnh là nghi thức chỉ thực hiện cho tăng sư, hành giả và các chuyên gia về Phật giáo. Nhưng nghi thức này không có nghĩa là sẽ truyền thừa toàn bộ, mà chỉ một phần các pháp của Mật giáo mà thôi.
Loại thứ ba, truyền pháp quán đảnh, là phép quán đảnh cao nhất trong Mật giáo, ở phép này, sư phụ sẽ truyền toàn bộ các pháp cho người được quán đảnh.
Sau khi lễ truyền pháp quán đảnh kết thúc, Huệ Quả nói với Không Hải.
“Tựa như trút bình sang bình vậy.”
Không Hải à, ta đã truyền lại hết cho con, giống như trút toàn bộ chỗ nước trong bình của ta sang bình của con rồi… Ý của Huệ Quả là như vậy.
Sau đó, Huệ Quả ban cho Không Hải danh hiệu “Biên Chiếu Kim Cương”.
“Biên chiếu” nghĩa là “soi rộng khắp”, còn “Kim cương” là thứ cứng nhất trên đời này, biểu thị cho tính chất vĩnh cửu và bất hoại.
Biên Chiếu Kim Cương là mật hiệu của Đại Nhật Như Lai, vậy mà Huệ Quả đã trao nó cho một nhà sư đang sống, chẳng khác nào nói: Không Hải chính là Đại Nhật Như Lai.
Huệ Quả có tới hàng ngàn đệ tử. Nhưng Không Hải đã vượt qua tất cả để được thọ lễ quán đảnh Kim Cương và Thai Tạng, rồi cuối cùng là truyền pháp quán đảnh.
Trong số các đệ tử của Huệ Quả, chưa có ai làm được điều này.
Hơn nữa, Không Hải lại là kẻ vừa chân ướt chân ráo tới Thanh Long Tự, đồng thời là một kẻ ngoại bang.
Hẳn là Huệ Quả phải rất yêu mến Không Hải, nhưng chỉ nói yêu mến thôi e là chưa đủ. Mà có lẽ còn bởi tài năng xuất chúng của Không Hải.
Huệ Quả đã cuồng si nhà sư trẻ tới từ một nước nhỏ ở Đông Hải… Có lẽ diễn đạt như vậy thì dễ hiểu hơn.
Chẳng phải Huệ Quả đã rất cô độc giữa hàng ngàn môn đệ hay sao?
Không một ai hiểu mình.
Không một ai đạt đến tầm vóc như mình.
Đúng lúc ấy thì một nhân vật có tên Không Hải tới từ một đất nước ở phía Đông xuất hiện tựa ánh hào quang.
Những lời Huệ Quả nói ra, dù cao siêu đến đâu, dù khó hiểu đến đâu, Không Hải đều lĩnh hội được ngay lập tức.
Thậm chí, sau khi nghe lời giảng của Huệ Quả, Không Hải còn mở ra cả những cách tư duy mà Huệ Quả chưa từng nghĩ đến.
“Vậy thì nó cũng phải thấm nhuần tới cả những bông trai thường nở trong vườn kia.”
“Nói cách khác, bông hoa không nhảy cẫng lên vì vui sướng chính là bởi nó đã ở trong Niết Bàn rồi.”
“Vâng. Không có chuyện đệ tử gần Phật pháp hơn, còn con ruồi kia xa Phật pháp hơn. Mọi tồn tại trong vũ trụ đều có cùng khoảng cách đến chân lý.”
Nói với Không Hải, lòng thật sảng khoái.
Nghe Không Hải nói, lòng thật sảng khoái.
Lời Không Hải bông lơn, bay bổng, thú vị, tuồng như đang đùa vui với Phật pháp. Nhưng lại chẳng lệch khỏi Phật pháp.
“Không Hải ơi, giá mà ta được gặp con từ mười năm trước…”
Huệ Quả cảm khái nói.
❖ 9 ❖Trong lễ truyền pháp quán đảnh, có một lão tăng tìm đến chỗ Huệ Quả. Đó không phải sư chùa Thanh Long, mà là sư của một ngôi chùa có tên Ngọc Đường Tự ở Trường An.
Vị này tên là Chân Hạ.
Huệ Quả của Thanh Long Tự đang cuồng si nhà sư trẻ Không Hải vừa tới từ Oa quốc… Tiếng đồn ấy đã tới tai Chân Hạ.
Vị này tuy là Mật giáo tăng, song không phải đệ tử của Huệ Quả. Mà là đệ tử của Thuận Hiểu, một trong số những đệ tử của Bất Không.
“Ngài Huệ Quả bị điên mất rồi.”
Có lẽ sư của Thanh Long Tự đã than vãn với Chân Hạ như vậy.
“Ngài ấy đang định đem hết cả Mật của Đại Đường ta truyền cho một kẻ cha căng chú kiết nào đó…”
Chân Hạ lớn tuổi hơn Huệ Quả, nhưng tình như huynh đệ đồng môn, thành thử có thể nói chuyện bằng vai với Huệ Quả.
Vốn dĩ không phải tất cả hơn một ngàn đệ tử của Huệ Quả đều thừa nhận Không Hải. Tăng sư cũng là người. Họ chẳng thích thú gì chuyện Huệ Quả dồn hết mọi thứ cho một kẻ vừa chân ướt chân ráo tới Thanh Long Tự là Không Hải.
Đó còn là sự ganh ghét nữa.
Chân Hạ tới chỗ Huệ Quả với ý định đại diện cho các môn đệ của Huệ Quả.
“Cậu ta chưa phải môn đệ. Cần bắt học chư kinh.”
Chân Hạ nói với Huệ Quả về việc của Không Hải như vậy.
“Chuyện gì cũng phải có trình tự. Nhiều môn đệ đã theo ông hai mươi, ba mươi năm nay, vậy mà ông định bỏ qua họ để ban truyền pháp quán đảnh cho cái cậu Không Hải đấy ư…”
Chẳng phải trước tiên nên bắt cậu ta đọc chư kinh như một nhà sư tập sự hay sao?
Tổ thứ nhất của Mật giáo là Đại Nhật Như Lai.
Tổ thứ hai là Kim Cương Tát Đỏa, tức Vajrasattva.
Tổ thứ ba là Long Mãnh, tức Nagarjuna.
Tổ thứ tư là Long Trí, tức Nagarbodhi.
Tổ thứ năm là Kim Cương Trí, tức Vajrabodhi.
Tổ thứ sáu là Bất Không.
Tổ thứ bảy là Huệ Quả.
Đây là hệ phả chính của dòng Kim Cương bộ. Thiện Vô Úy, người truyền lại Thai Tạng bộ cho Bất Không, là một nhà sư Thiên Trúc theo phò Huyền Tông hoàng đế ở Trường An, cùng thời với tổ thứ năm là Kim Cương Trí.
Ta hãy quay trở lại chuyện Không Hải…
Nếu ban truyền pháp quán đảnh cho Không Hải thì chẳng khác nào công nhận Không Hải là tổ thứ tám.
Nếu Không Hải trở thành tổ thứ tám, thì những bảo khí mà tổ thứ năm, nhà sư Thiên Trúc Kim Cương Trí mang đến nhà Đường, nói theo truyền thống kế thừa vương vị của Nhật Bản thì tương ứng với tam chủng thần khí*, sẽ theo Không Hải về Nhật Bản mất.
•
Tức là ba vật thiêng của hoàng thất Nhật Bản, gồm: gương Yata-no-kagami (đọc theo âm Hán là Bát chỉ kính), kiếm Amanomura-Kumonotsurugi (đọc theo âm Hán là Thiên nghiệp vân kiếm) và ngọc tỉ Yasakani-no-magatama (đọc theo âm Hán là Bát xích quỳnh câu/khúc ngọc).
Những bảo khí này gồm tám loại:
Tám mươi hạt xá lợi Phật.
Một ban Phật và Bồ tát Kim Cương tượng khắc bằng gỗ đàn hương.
Bức đồ hình Mạn Đà La lớn vẽ bốn trăm bốn mươi bảy vị bản tôn bằng vải tiết trắng.
Bức đồ hình Kim Cương giới Tam Ma Da Mạn Đà La vẽ một trăm hai mươi vị bản tôn bằng vải tiết trắng.
Một bộ ngũ bảo Tam Ma Da Kim Cương.
Một bộ Kim Cương bát tử*.
•
Là một bộ gồm sáu chiếc bát.
Một bộ nha sàng tử*.
•
Có lẽ là xương hàm.
Một vỏ ốc trắng.
“Để những bảo khí này biến mất khỏi Đường thổ liệu có được chăng?”
Trước một Chân Hạ như thế, Huệ Quả đáp: “Cũng được chứ sao.”
“Tại sao?”
“Đâu cần phải kể.”
Huệ Quả chỉ nói đến thế.
Dù Huệ Quả đưa ra lý do gì thì Chân Hạ cũng có thể phản bác được. Nhưng Huệ Quả không đưa ra lý do thì Chân Hạ còn gì để phản bác nữa.
Nghe thấy thế, Chân Hạ phật ý liền bỏ về Ngọc Đường Tự.
Nhưng ngay sáng hôm sau, Chân Hạ lại tìm đến chỗ Không Hải ở Tây Minh Tự.
“Bần đạo sai rồi.”
Ông ta nói với Không Hải như vậy.
Không Hải chẳng hiểu mô tê gì cả. Cậu không hề biết Chân Hạ đã đến chỗ Huệ Quả hôm qua.
“Thật ra, hôm qua bần đạo có tới chỗ ngài Huệ Quả.”
Ông ta tự mình kể ra chuyện ấy, rồi cúi đầu tạ lỗi.
“Xin hãy tha thứ cho bần đạo.”
Đoạn này được Không Hải chép lại trong sách Ngự di cáo như sau:
Bởi thế, ban đêm Chân Hạ gặp mơ mà chịu phục, sáng hôm sau mới đến chỗ thiếu tăng, vái ba vái tạ lỗi.
Đêm qua, Chân Hạ gặp một giấc mơ khiến ông ta đổi ý.
Giấc mơ ấy như thế này.
Chân Hạ đang ngủ thì thấy bốn vị Thiên vương hiện ra trong mộng.
Trì Quốc Thiên.
Đa Văn Thiên.
Quảng Mục Thiên.
Tăng Trưởng Thiên.
Bốn vị Thiên vương đứng đó gọi Chân Hạ: “Thức dậy đi!”
Chẳng cần thức dậy, Chân Hạ cũng biết mình đang mơ.
Chân Hạ đang thức trong mơ.
“Sao, không thức dậy hả?”
Trì Quốc Thiên đạp vào người.
“Thức dậy đi!”
Đa Văn Thiên đạp vào người.
“Thức dậy đi!”
Quảng Mục Thiên đạp vào người.
“Thức dậy đi!”
Tăng Trưởng Thiên đạp vào người.
Chẳng phải tôi đang thức hay sao? Chân Hạ muốn nói thế nhưng không cất thành tiếng.
“Thức dậy đi!”
“Thức dậy đi!”
“Thức dậy đi!”
“Thức dậy đi!”
Bị tứ Thiên vương đạp túi bụi, rốt cuộc Chân Hạ cũng thức dậy vì đau quá.
Tỉnh ra, Chân Hạ thấy mình đang nằm trong chăn ở phòng mình.
“Thức dậy rồi hả?”
Có giọng nói.
Thật kinh ngạc, chẳng phải bốn vị Thiên vương đang đứng quanh giường Chân Hạ hay sao?
“Ôi, buồn thay.”
Trì Quốc Thiên đang tấm tức khóc.
“Ôi, bực thay.”
Đa Văn Thiên giậm chân xuống sàn.
“Nhà ngươi thật là kẻ lòng dạ hẹp hòi.”
Quảng Mục Thiên nghiến răng.
“Nhà ngươi không biết xấu hổ ư?”
Tăng Trưởng Thiên trừng mắt.
“Có chuyện gì vậy thưa các vị? Đệ tử đã mắc lỗi gì?”
Chân Hạ hỏi.
“Nhà ngươi hãy nhìn tim mình rồi nghĩ xem!”
Tức thì, Quảng Mục Thiên chọc tay vào lồng ngực Chân Hạ, lôi quả tim ra.
“Nhìn xem!”
Đa Văn Thiên nói.
“Ngươi không hiểu sao?”
Trì Quốc Thiên nói.
Quả tim ở ngay trước mắt Chân Hạ.
Nó đang đập.
“Ta sẽ bóp nát nó nhé!”
Quảng Mục Thiên bóp lấy quả tim đang cầm trên tay, ngực Chân Hạ liền quặn lên.
“Khổ sở không?”
“Chúng ta cũng khổ sở lắm.”
“Khổ lắm.”
“Khổ lắm.”
Bốn vị Thiên vương quằn quại thân mình trước mặt Chân Hạ.
“Kẻ đáng được ban cho Mật pháp thì không được ban.”
“Còn gì khổ sở hơn thế?”
“Còn gì buồn bã hơn thế?”
“Đại bi.”
Bốn vị Thiên vương vừa quằn quại, vừa lấy tay gạt nước mắt.
“Tất cả là tại ngươi.”
“Tại ngươi.”
“Hãy xuống địa ngục đi.”
“Xuống đi.”
Quảng Mục Thiên đưa tay ấn quả tim của Chân Hạ vào trong mồm Chân Hạ.
“Ta trả lại ngươi quả tim này.”
“Lần này ta cho ngươi một cơ hội.”
“Hãy suy nghĩ kỹ càng.”
“Hãy quyết định cẩn trọng.”
Thế rồi…
Bốn vị Thiên vương biến mất.
Đến lúc ấy thì Chân Hạ tỉnh hẳn. Ông ta tỉnh dậy bởi tiếng ú ớ của mình.
Ồ, hóa ra là một giấc mộng…
Chân Hạ tự nhủ.
Nhưng sáng hôm sau, khi gặp các đệ tử trong chùa ông ta bị trỏ lên trán hỏi: “Cái gì đây thưa thầy?”
Chân Hạ vội vàng đi soi gương thì thấy trên trán mình có viết hai chữ: Đại bi.
“Đó là chuyện sáng nay.”
Chân Hạ nói với Không Hải.
“Bần đạo sai rồi. Giờ thì bần đạo tin rằng, quý tăng là người xứng đáng được thọ Mật.”
Đó là câu nói thật lòng.
“Nếu ở Thanh Long Tự còn có kẻ nào nói quý tăng không xứng làm bát tổ Mật tông, bần đạo sẽ giảng cho kẻ đó biết rằng mình đã sai.”
Nói đoạn, Chân Hạ vái Không Hải ba vái, bốn vái rồi ra về.