← Quay lại trang sách

Chương kết Trường An Mạn Đà La
1

Trong thời gian Không Hải thọ các pháp quán đảnh ở Thanh Long Tự, vương triều nhà Đường xảy ra những thay đổi đến chóng mặt.

Tháng Tám, Không Hải thọ lễ truyền pháp quán đảnh, Thuận Tông hoàng đế lâm bệnh, bèn xuống chiếu:

Lập thái tử làm hoàng đế, trẫm xưng là thái thượng hoàng.

Theo đó, Thuận Tông thoái vị, hoàng thái tử Lý Thuần lên ngôi xưng là Hiến Tông hoàng đế. Niên hiệu đổi từ Trinh Nguyên sang Vĩnh Trinh.

Trong giai đoạn Không Hải nhập Đường, đã có hai lần thay hoàng đế.

Với sự thay đổi này, nhân sự trong cung cũng biến động lớn.

Hai nhân vật kiểm soát cung đình trên thực chất là Vương Thúc Văn và Vương Phi bị giáng chức.

Vương Thúc Văn bị biếm về làm tư hộ Du Châu, Vương Phi bị biếm về làm tư mã Quan Châu. Cả hai đều là những thuộc quan của các châu hẻo lánh.

Không chỉ có hai nhân vật này bị giáng chức. Các quan văn gần gũi với họ cũng phải về địa phương làm thứ sử.

Trong số những người Không Hải quen biết, có Lưu Vũ Tích bị điều về Liên Châu, Liễu Tông Nguyên về Thiệu Châu.

Thứ sử tuy là chức quan đứng đầu địa phương, nhưng trước khi đến được nhậm địa thì tất cả đều đã bị giáng thành tư mã.

Trước tiên là giáng xuống một chức quan kha khá, thế rồi trước khi đến nhậm địa lại giáng thêm một cấp nữa vốn là cách làm xưa nay, những kẻ bị biếm chức đều hiểu rõ và chấp nhận điều này.

Tháng Chín…

Trước khi lên đường tới nhậm địa, Liễu Tông Nguyên đến Tây Minh Tự tìm Không Hải.

“Tôi tới để chào từ biệt.”

Liễu Tông Nguyên nói với Không Hải.

“Tôi nghe nói tiên sinh sẽ tới Thiệu Châu?”

Không Hải hỏi thì Liễu Tông Nguyên lặng lẽ gật đầu: “Phải.”

Giọng nói có vẻ thản nhiên, chẳng rõ niềm luyến tiếc đã được giấu đi đâu mất rồi.

“Chúng tôi mới đi được nửa chặng đường, nhưng đây âu cũng là số phận.”

Liễu Tông Nguyên, một thi nhân nhiệt huyết nói bằng giọng đều đều.

“Phần lớn những thành quả mà chúng tôi gây dựng sẽ biến mất, nhưng có lẽ vẫn còn lưu lại được chút gì đó.”

“Tôi cũng nghĩ vậy.”

Không Hải đồng tình.

“Tôi thấy thật nhẹ lòng.”

Liễu Tông Nguyên nói.

“Nhẹ lòng?”

“Nghe thầy Không Hải nói thế, tôi cảm thấy tin tưởng hơn vào việc sẽ còn lưu lại được một vài thành quả.”

“Chắc chắn sẽ còn lưu lại.”

Không Hải nhắc lại.

“Lưu lại thành quả, ấy là lời khiến cho một kẻ ở vào vị trí như tôi vô cùng vui sướng.”

“Khi nào tiên sinh đi?”

Không Hải hỏi.

“Ba hôm nữa.”

“Còn ngài Vương Thúc Văn…”

“Ông ấy đã lên đường đi Du Châu rồi.”

“Vậy à.”

“Ông ấy có nhờ tôi nhất định phải chuyển lời cảm tạ tới thầy Không Hải.”

“Sao lại cảm tạ tôi?”

“Nhờ thầy mà chúng tôi có thêm một quãng ân hạn. Trong thời gian ấy, chúng tôi đã làm nốt được một số công việc.”

Liễu Tông Nguyên nhìn sang Không Hải và nói.

“Vương Thúc Văn tiên sinh cũng đã chấp nhận.”

Không Hải không hỏi chấp nhận nghĩa là sao. Vì cậu hiểu ý Liễu Tông Nguyên.

Không chỉ vào thời nhà Đường mà triều đại nào cũng vậy, ở đất nước này, số phận của những kẻ sa cơ chính trị là cái chết.

Đầu tiên là bị biếm về địa phương, cho hưởng một chức nhàn.

Rồi chẳng bao lâu sau, sẽ có sứ giả từ kinh tới truyền chỉ, hãy tự định đoạt mạng sống của mình, cùng với thuốc độc để uống.

Điều này khác với “tử hình”. Vì xét cho cùng, thuốc độc là do kẻ được ban dụ tự nguyện uống.

Ở đất nước này, việc ấy được gọi là “ban cho cái chết”.

Nếu từ chối, kẻ đó sẽ bị giết, và báo về kinh là chết bệnh.

Trên thực tế, một năm sau khi bị biếm chức, Vương Thúc Văn đã “được ban cho cái chết”. Còn Vương Phi thì “chết bệnh” cũng vào năm ấy.

“Thôi thì, nhân thế là như vậy mà…”

Liễu Tông Nguyên nói.

“Thế còn Lưu Vũ Tích tiên sinh?”

Không Hải hỏi.

“Ông ấy đi Liên Châu.”

Liễu Tông Nguyên đáp.

Đó là bạn thơ thân thiết nhất của Liễu Tông Nguyên. Họ phải chia lìa vì chuyện này.

Có một hậu truyện về Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích như sau.

Ban đầu, Liễu Tông Nguyên bị biếm về làm thứ sử Thiệu Châu, Lưu Vũ Tích làm thứ sử Liên Châu, nhưng sau đó Liễu Tông Nguyên tiếp tục bị giáng xuống làm tư mã Vĩnh Châu, còn Lưu Vũ Tích làm tư mã Lang Châu.

Mười năm sau, triều đình ở Trường An bỗng đem chuyện thăng quan cho Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích ra bàn.

Việc biếm chức đối với hai người này vốn dĩ là hệ quả của việc biếm chức đối với Vương Thúc Văn, kể từ bấy đã mười năm trôi qua, nên có lẽ triều đình cho rằng mọi sự thế là đã yên ổn.

Hơn nữa, hai người này lại là những nhân tài xuất sắc. Chẳng nên đặt bọn họ vào mấy chức quan nhàn. Vậy là, hai người được đặc cách thăng liền hai bậc lên làm thứ sử.

Nơi nhậm chức cũng thay đổi, Liễu Tông Nguyên làm thứ sử Liễu Châu, Lưu Vũ Tích làm thứ sử Bá Châu. Tuy nhiên, Bá Châu lại là vùng đất biên cương, nằm ở vùng giáp ranh giữa tỉnh Vân Nam và Quý Châu ngày nay.

Lưu Vũ Tích còn có mẹ già.

“Xin hãy tráo đổi nhậm địa của thần với Lưu Vũ Tích.”

Liễu Tông Nguyên tâu như thế về Trường An.

Rốt cuộc, bằng lời khẩn cầu ấy, Liễu Tông Nguyên vẫn làm thứ sử Liễu Châu, còn Lưu Vũ Tích được thăng làm thứ sử Liên Châu.

Liễu Tông Nguyên qua đời hai năm sau đó ở tuổi bốn mươi bảy.

Người viết bia mộ cho Liễu Tông Nguyên là Lưu Vũ Tích.

Về sau, Lưu Vũ Tích được trở lại Trường An và sống đến năm bảy mươi mốt tuổi.

Kể từ khi giã biệt ở Trường An, Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích không gặp lại nhau lần nào, nhưng tình bạn của họ vẫn gắn bó đến hết đời.

Trên cương vị nhà thơ, cả hai người đều được dân chúng mến mộ.

“Sự việc lần này không phải do mối quan hệ với Hoàng Hạc bị lộ ra. Mà vì có bọn không ưa chúng tôi. Đây là việc bất đắc dĩ. Tôi tin bọn chúng cũng có tham vọng của mình, giả như những kẻ tiền nhiệm còn ở bên thì khó mà làm được việc…”

Liễu Tông Nguyên nói bằng một giọng chắc nịch.

“Tôi thật may mắn vì được gặp thầy.”

“Sao lại may mắn?”

“Dù ở đâu, ta cũng có thể làm nên chuyện. Đó là điều tôi học được từ thầy.”

Lần đầu tiên Liễu Tông Nguyên mỉm cười.

“Thầy làm việc của thầy, ở vị trí của thầy. Tôi làm việc của tôi, ở vị trí của tôi. Cho đến khi nào chết…”

“Cho đến khi nào chết?”

“Làm việc cho đến khi nào chết.”

Liễu Tông Nguyên nói một cách đầy quả quyết.

“Có lẽ chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa. Thầy bảo trọng…”

Đó là lời cuối cùng của Liễu Tông Nguyên.

Liễu Tông Nguyên rời Tây Minh Tự, rồi ba hôm sau thì lên đường đi Thiệu Châu.

❖ 2 ❖

Tháng Chạp…

Huệ Quả nằm liệt giường, có lẽ vì đã đốt cháy toàn bộ sinh lực để quán đảnh những gì mình có cho Không Hải.

Vốn trong người đã mang bệnh, nhưng kể từ khi Không Hải tới Thanh Long Tự, Huệ Quả đột nhiên khỏe lại, đến nỗi mà các đệ tử không ai tin nổi.

Như thế này thì Huệ Quả chắc vẫn còn sống được lâu… Thậm chí phần lớn tăng sư ở Thanh Long Tự còn nghĩ như vậy.

Tuy nhiên…

Sau khi kết thúc lễ truyền pháp quán đảnh vào tháng Tám, bước sang tháng Chín thì bệnh tình của Huệ Quả trở nặng. Mặc dầu vậy, Huệ Quả vẫn luôn để Không Hải ở bên cạnh mình bầu bạn. Hẳn là Huệ Quả muốn chỉ cho Không Hải thấy cả những khía cạnh không thuộc về nghi lễ Phật pháp.

Không những thế, Huệ Quả còn cảm thấy vui sướng về mối giao tình vượt ra ngoài ranh giới thầy trò với Không Hải. Có lẽ Huệ Quả cho rằng, cả mình lẫn Không Hải đều ngang bằng nhau, vì cùng là môn đồ của Phật pháp.

Huệ Quả đã muốn hân hưởng niềm vui sướng được tu luyện cùng Không Hải như là những Phật tử bình đẳng và vượt lên khỏi lễ nghĩa thầy trò cho đến tận phút lâm chung.

Vào một ngày tháng Chạp…

Không Hải được Huệ Quả gọi đến.

“Thầy gọi con ạ?”

Không Hải đứng trước Huệ Quả đang nằm trên giường bệnh.

❖ 3 ❖

Đó là ban đêm.

Chỉ có một ngọn đèn đang sáng.

Chỉ có hai người là Huệ Quả và Không Hải.

Đứng bên cạnh gối Huệ Quả, khi ấy đang nằm ngửa trên giường bệnh, Không Hải chăm chú nhìn mặt Huệ Quả.

Huệ Quả đang hít thở bầu không khí trong lành buổi đêm.

Gương mặt ấy đang phảng phất ánh cười.

“Không Hải à.”

Huệ Quả cất tiếng nhỏ nhẹ.

“Vâng.”

Không Hải cũng khẽ khàng đáp lại.

“Ta sẽ dạy cho con điều cuối cùng vào đêm nay.”

“Vâng.”

Không Hải gật đầu.

“Nó không thuộc về quán đảnh của lưỡng bộ Kim Cương và Thai Tạng. Cũng không phải kết duyên quán đảnh hay thọ minh quán đảnh, cũng không phải truyền pháp quán đảnh. Điều ta sắp nói với con không thuộc vào bất cứ điều nào trong những điều ấy, nhưng lại quý giá hơn bất cứ điều nào trong những điều ấy.”

Huệ Quả ngước lên nhìn Không Hải.

“Ta nói rằng sẽ dạy cho con, nhưng chẳng cần dạy thì con cũng đã hiểu rõ tất cả rồi.”

Huệ Quả nói.

“Nhưng ta phải nói trước. Đó là những lời từ miệng ta nói ra, nhưng cũng là những lời con nói với ta. Không Hải à, ta dạy cho con cũng tức là được con dạy lại. Điều này thì chắc chắn con đã biết rồi.”

“Vâng.”

Không Hải gật đầu.

“Không Hải, con phải vứt bỏ tất cả những gì đã học ở đây. Con hiểu điều ta nói chứ…”

“Con hiểu, thầy Huệ Quả…”

“Lòng người thăm thẳm…”

“Vâng.”

“Hãy đi sâu vào tâm mình, đến tận cùng của tận cùng của tận cùng của nó, con sẽ thấy một nơi chốn mà bản thân biến mất, ngôn từ biến mất, chỉ có lửa, nước, đất và sinh mệnh, những nguyên tố không thể gọi tên đang vận động. Mà không, đó là một nơi chốn mà thậm chí không thể gọi là nơi chốn. Đó là thứ không thể dùng ngôn từ để đặt tên. Đó là nơi mà ngôn từ trở nên vô dụng. Con sẽ tới một nơi thật khó để phân tách lửa, nước, đất, bản thân, sinh mệnh. Để đến được nơi đó, chỉ có một lối duy nhất là đi qua tâm mình.”

“Vâng.”

“Ta không thể dạy con điều ấy bằng ngôn từ.”

“Vâng.”

“Ta, mà không, rất nhiều người đã làm vấy bẩn nó. Bằng ngôn từ, bằng kiến thức, bằng lễ nghi, bằng sách vở, và bằng giáo lý…”

“Vâng.”

“Hãy vứt bỏ tất cả những điều ấy…”

“Vâng.”

“Con hãy vứt bỏ.”

Huệ Quả lẩm bẩm, rồi nhắm mắt và hít thở thật nhẹ nhàng.

Sau đó lại mở mắt ra, Huệ Quả nói.

“Nhưng, ngôn từ là cần thiết. Nghi lễ, kinh sách, giáo lý, đạo cụ đều cần thiết. Không phải ai trên đời này cũng được như con. Ngôn từ cần thiết cho những người như thế. Cả ngôn từ và kiến thức đều cần thiết để vứt bỏ ngôn từ, hay để vứt bỏ kiến thức.”

“Vâng.”

Không Hải chỉ gật đầu.

Cậu hiểu rõ những điều Huệ Quả nói.

Ngay từ giây phút kết thúc toàn bộ các phép quán đảnh, đối với Không Hải, mọi lễ nghi hay giáo lý đều không còn cần thiết nữa.

Chỉ có điều…

Để hoằng dương giáo lý Mật tông cho đông đảo dân chúng ở Nhật Bản, hay Đường thổ này, thì cả ngôn từ lẫn lễ nghi đều cần thiết.

Con người phải trèo lên đỉnh núi bằng đôi chân mình. Gậy chống, giày dép, lương thực, quần áo đều cần thiết cho những kẻ tu hành đang muốn leo lên đỉnh núi.

“Phải nâng đỡ trọng tâm, tức là bản thân mình, bằng hai chân ở trong tư thế: một chân ở nơi linh thiêng, một chân ở nơi phàm tục…”

Nói rồi Huệ Quả nhắm mắt.

“Hãy mở cửa sổ ra…”

Huệ Quả nói, mắt vẫn nhắm.

Không Hải mở cánh cửa gần đầu giường theo yêu cầu của Huệ Quả.

Hơi lạnh tháng Chạp ùa vào phòng.

Ngọn đèn khẽ rung rinh.

Huệ Quả mở mắt.

Từ chỗ Huệ Quả có thể nhìn thấy vầng trăng treo trên nền trời đêm.

Ánh trăng chiếu lên người Huệ Quả.

“Không Hải, ta chẳng còn gì để truyền lại cho con nữa.”

Huệ Quả vừa nhìn trăng vừa nói.

“Khí lạnh có làm cho thầy khó ở không?”

Không Hải hỏi Huệ Quả.

“Không sao. Cái lạnh này rất dễ chịu.”

Lời Huệ Quả rành rọt.

“Không Hải, thật tốt vì được gặp con…”

“Con cũng vậy.”

Không Hải đáp.

“Có lẽ ta sắp phải đi rồi. Nếu chưa được gặp con, hẳn ta vẫn còn lụy vương, nhưng giờ thì chẳng còn gì nữa.”

Ánh mắt Huệ Quả quay lại nhìn Không Hải.

“Cái chết không đáng sợ. Có thể sẽ phải vật vã ít nhiều trong giây phút cận kề cái chết, nhưng đó là con đường mà ai cũng phải đi qua, chẳng lẽ nào mà không chịu đựng được những vật vã ấy.”

Không Hải im lặng lắng nghe lời Huệ Quả.

“Sinh, tử chỉ là một mà thôi. Được sinh ra, sống, rồi chết… Chỉ khi hội tụ cả ba điều ấy thì mới gọi là sống. Sinh ra hay chết đi chẳng qua chỉ là dạng biểu hiện khác nhau của sống mà thôi.”

“Vâng.”

“Không Hải à, con nên sớm về Oa quốc. Đừng bỏ qua nếu có cơ hội ấy.”

Đó là những lời thấm đẫm lòng từ ái của Huệ Quả.

Ít lâu sau thì Không Hải trở về Nhật Bản.

Bất kể Không Hải trở về Nhật Bản vào thời điểm nào thì cũng có nghĩa là những lời dạy mà Huệ Quả truyền cho sẽ theo Không Hải vượt biển đi mất.

Nếu khi ấy, Huệ Quả nói đừng đi, thì đó sẽ trở thành gánh nặng cho Không Hải.

Đoán biết được điều này nên Huệ Quả đã dặn Không Hải như vậy.

Còn Không Hải thì hiểu lòng thầy.

“Con đội ơn thầy.”

Không Hải nói, cảm thấy có cái gì nóng hổi nơi khóe mắt.

“Trăng đẹp quá.”

Huệ Quả nói.

❖ 4 ❖

Huệ Quả mất sau đó ba hôm.

Thiên hóa…

Người ta gọi cái chết của một cao tăng như thế.

Đó không phải là chết, chỉ là chuyển chỗ ở mà thôi. Ý nghĩa của nó là vậy.

Huệ Quả từ giã cõi đời vào ngày canh tuất, tức mười lăm, tháng Chạp năm Vĩnh Trinh nguyên niên. Ngày vọng, một đêm trăng tròn. Thọ sáu mươi tuổi.

Bia đá được dựng lên trong lễ tang. Không Hải là người soạn và viết văn bia.

Nói cách khác, lời văn để ghi lên bia là do Không Hải soạn, chữ để khắc lên bia là do Không Hải viết.

Không Hải được chọn để làm việc này từ trong mấy ngàn đệ tử của Huệ Quả không phải là vì Không Hải đã thọ lễ truyền pháp quán đảnh.

Trong những trường hợp như thế này, văn bia không nhất thiết phải do đệ tử viết. Phần văn sẽ do người sành văn chương viết ra, phần chữ sẽ do người giỏi thư pháp thảo ra, đó là thông lệ chung trong suốt lịch sử của Trung Quốc chứ không chỉ riêng thời kỳ này.

Không Hải được chọn vì cậu vừa là một bậc văn chương kỳ tài, lại vừa là một nhà thư pháp kiệt xuất.

Trong sách Tính linh tập vẫn còn lưu lại bản văn bia ấy.

Chỗ quý ở đời là ngũ thường, chỗ trọng ở đạo là tam minh. Chỉ kẻ trung, kẻ hiếu mới được khắc tên bảng vàng. Cái đức ấy như trời, sao lại chẳng chứa trong buồng đá*?

Chỉ nơi lưu giữ các sách quý thời xưa.

Bài văn bia mở đầu như vậy. Cả bài gồm một nghìn tám trăm chữ. Đoạn kết là một bài minh như sau.

Sinh tử vô biên,

Hạnh nguyện khôn cùng.

Nắng* xuyên xuống nước,

Tản thành muôn ánh.

Từ ấy sinh ra,

Hình người, trí Phật.

Tì ni*, Mật tạng,

Chiếm trọn sức này.

Kinh kia, luận ấy,

Thuộc làu trong tâm.

Nắm luật Tứ phần,

Gia trì tam Mật.

Quốc sư ba đời*,

Muôn loài quy phục.

Gọi mưa, hô nắng,

Tức thời nghiệm ngay.

Duyên trần đã hết,

Hồn* về chân như.

Đuốc tuệ đã tắt,

Pháp lôi bao giờ?

Rường nhà đã gãy,

Đau thay, khổ thay!

Ván quan đóng lại,

Kiếp nào mở đây?

Nguyên văn là chữ “lệ thiên”, tức bầu trời có hào quang rực rỡ, hàm ý đức hạnh chiếu rọi đẹp đẽ.

Tức luật tạng.

Huệ Quả làm quốc sư cho ba đời vua nhà Đường.

Nguyên văn viết “Phách yên quy chân (怕焉归真)”, nhưng có thuyết nói rằng, bản gốc đã viết nhầm chữ “bạc (泊)” thành chữ “phách (怕)”, vì “bạc yên (泊焉)” ngụ ý “thanh thản” thì mới có nghĩa.

❖ 5 ❖

Ngày mồng một Tết năm mới Bính Dần, Hiến Tông hoàng đế gửi tặng thượng hoàng Thuận Tông tôn hiệu Ứng Càn Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng.

Ngày hôm sau, tức mồng hai, niên hiệu đổi từ Vĩnh Trinh sang Nguyên Hòa.

Niên hiệu Vĩnh Trinh được sử dụng từ tháng Tám năm ngoái sau lễ thoái vị của Thuận Tông, tuy nhiên hiện nay Hiến Tông đang là đương kim hoàng đế nên việc cải hiệu cũng là lẽ tự nhiên.

Thế rồi không lâu sau đó, thượng hoàng Thuận Tông chết ngay trong dịp Tết.

Tất nhiên, đó không phải một cái chết đột ngột. Mà là cái chết đã được dự đoán từ trước vì Thuận Tông nằm liệt đã lâu.

Thế rồi…

Đúng vào lúc Trường An bỗng bấn lên bởi cái chết của thượng hoàng thì hạt giống mà Không Hải gieo xuống đã đơm hoa.

Điều chờ đợi đã đến.

Sứ giả Oa quốc vừa tới Trường An.

❖ 6 ❖

“Này Không Hải, cậu nghe gì không?”

Dật Thế chạy bổ đến Tây Minh Tự, nói với Không Hải khi còn chưa kịp lấy lại hơi thở.

“Sứ giả từ Nhật Bản đã sang rồi đó.”

Giọng Dật Thế cao vống, vẻ mặt tràn đầy vui sướng.

“Tớ biết rồi.”

Giọng Không Hải điềm nhiên.

“Người dẫn đầu sứ đoàn là ngài Cao Giai Chân Nhân Viễn Thành*.”

Âm Nhật là Takashina-no-Mahitotônari.

Không Hải nói.

Sứ giả từ Nhật Bản đã tới Trường An ngày hôm qua.

Sứ tiết lần này khác với các đoàn Khiển Đường sứ theo thông lệ, mục đích không phải sang học hỏi văn minh nhà Đường.

Tết năm ngoái, đúng vào dịp người đứng đầu đoàn Khiển Đường sứ mà bọn Không Hải sang cùng là Đằng Nguyên Cát Dã Ma Lữ đang ở Trường An, thì Đức Tông hoàng đế băng hà, thái tử Lý Tụng trở thành tân hoàng đế Thuận Tông.

Khi ấy, Cát Dã Ma Lữ tuy có mặt ở Trường An, song ông ta chưa thể đại diện cho Nhật Bản để bày tỏ lời chia buồn cũng như lời chúc mừng chính thức tới Thuận Tông.

Còn Cao Giai Chân Nhân sang Trường An trên cương vị sứ giả chính thức của Nhật Bản để làm việc này.

Trước khi Cát Dã Ma Lữ lên đường về Nhật Bản, Không Hải đã nói với ông ta.

“Ông không định bỏ mặc việc này đấy chứ.”

Không Hải đã nói với Cát Dã Ma Lữ như vậy.

Nói cách khác, Không Hải đã gợi ý với Cát Dã Ma Lữ rằng, sau khi về Nhật Bản, ông nên tâu lên để Chúa thượng cử một phái đoàn chính thức sang chia buồn và chúc mừng.

Hạt giống mà Không Hải gieo xuống đã kết trái đúng như ý đồ.

Bọn Cao Giai Chân Nhân đến Trường An đúng vào lúc Không Hải vừa thọ lễ truyền pháp quán đảnh xong, có thể nói chẳng thời điểm nào thích hợp hơn thế.

Vì tớ đã lên kế hoạch cho chuyện này mà…

Tuy nhiên, Không Hải không nói ra miệng điều ấy.

“Hôm nay tớ sẽ tới đó.”

Không Hải nói.

“Tới đâu?”

“Hồng Lô khách quán.”

Hồng Lô quán khách là nơi nghỉ chân của sứ tiết các nước.

Là lưu học sinh ở Trường An, Không Hải và Dật Thế tất nhiên phải đến chào khi có đoàn sứ giả từ Nhật Bản sang.

“Phải khẩn trương lên.”

Không Hải nói.

❖ 7 ❖

Vừa mới nhìn thấy đoàn sứ tiết, Dật Thế liền tuôn lệ.

Có lẽ vì cậu ta nhớ quá.

Sau khi chào hỏi xong, Cao Giai Chân Nhân nói với Không Hải.

“Ta có nghe về cậu.”

Như thế nào?

Nhưng Không Hải không hỏi câu ấy.

“Bần đạo không dám.”

Không Hải chỉ đáp lại như vậy, rồi hạ thấp đầu.

“Theo lời của Cát Dã Ma Lữ, ngài ấy đã được cậu Không Hải giúp đỡ rất nhiều…”

Khi thuyền trôi dạt tới Phúc Châu, sứ đoàn đang không biết phải làm sao thì nhờ vào bức thư của Không Hải mà tất cả được lên bờ, không những thế còn được hậu đãi.

Rồi ngay cả sau khi vào thành Trường An, Cát Dã Ma Lữ cũng được trợ giúp đắc lực bởi khả năng ngôn ngữ và tài năng của Không Hải.

Không Hải hình dung ra dáng vẻ của Cát Dã Ma Lữ khi thuật lại những chuyện ấy một cách sôi nổi hơn mức cần thiết giữa triều đình.

“Không chỉ có vậy. Khi vừa tới Trường An, ta đã được nghe rất nhiều lời đồn về cậu.”

Tên tuổi của Không Hải đã được biết đến rộng khắp trong giới trí thức Trường An.

“Ta nghe nói, cậu đã trở thành một đại A-xà-lê của Thanh Long Tự.”

“Vâng.”

Không Hải đáp.

Câu chuyện Không Hải, lưu học tăng tới từ Nhật Bản, một tiểu quốc ở Đông Hải, thọ lễ truyền pháp quán đảnh và trở thành một đại A-xà-lê ở Thanh Long Tự đã trở nên nổi tiếng. Các trí thức, danh sĩ, văn nhân khắp nơi đều mời gọi Không Hải tới hội nhóm của mình để thưởng lãm thư pháp và văn chương của Không Hải.

Vào những dịp như thế, Không Hải đều chẳng tiếc công phô diễn những điều vượt qua cả sự trông đợi của họ.

“Tôi tới từ Nhật Bản.”

Khi Không Hải giới thiệu.

“Ồ, hóa ra là hòa thượng Không Hải trong lời đồn đây mà…”

Đối phương sẽ đáp lại như vậy.

Chẳng có lý do gì mà Cao Giai Chân Nhân lại cảm thấy khó chịu.

Không Hải như nhìn thấu cơ vi ấy, mới kính cẩn mở lòi với Cao Giai Chân Nhân.

“Kỳ thực, bần đạo muốn xin ngài Cao Giai Chân Nhân một việc.”

“Chuyện gì?”

“Bần đạo muốn về nước.”

Không Hải nói.

Nghe thấy những lời ấy, Dật Thế còn tỏ ra ngạc nhiên hơn cả Cao Giai Chân Nhân.

“Thật hả, Không Hải?”

Dật Thế buột miệng kêu lên.

“Đó là sự thật, thưa ngài.”

Không Hải vẫn đang nói với Cao Giai Chân Nhân.

“Không Hải tôi sang Trường An này để cầu Mật.”

Không Hải nói tiếp.

“Mục đích ấy nay đã hoàn thành.”

Cao Giai Chân Nhân cũng chỉ còn cách gật đầu trước những lời của Không Hải.

Không Hải đã thọ lễ truyền pháp quán đảnh. Sau khi sư phụ Huệ Quả mất, Không Hải trở thành người đứng đầu trong giới Mật giáo ở Trường An. Kể từ khi nhập thành Trường An, Không Hải chỉ mất vỏn vẹn một năm để có trong tay thứ mình muốn.

“Vì thế, bần đạo muốn quay về Nhật Bản càng sớm càng tốt, để hoằng dương những giáo lý này.”

“Nhưng mà…”

Cũng không có gì bất hợp lý khi Cao Giai Chân Nhân buột miệng nói ra từ ấy.

Cả Không Hải và Dật Thế đều đến Trường An với cương vị là những lưu học sinh chính thức do Nhật Bản cử đi. Dù bản thân họ muốn về, cũng không thể tùy tiện mà về. Chỉ khi triều đình nhà Đường cho phép, họ mới được về.

Hơn nữa, họ sang đây với lời hứa trước triều đình Nhật Bản là sẽ ở lại trong hai mươi năm. Liệu có thể về sớm hơn hạn định được không?

Nếu tự ý chấp thuận để rồi sau đó xảy ra vấn đề thì Cao Giai Chân Nhân cũng sẽ rơi vào thế khó xử. Các chức dịch ghét để xảy ra vấn đề là chuyện xưa nay đều thế.

Đứng về phía Cao Giai Chân Nhân mà nói, gửi lời khánh chúc của triều đình Nhật Bản tới tân hoàng đế Đại Đường mới là mục đích chính của chuyến đi sứ lần này.

Vốn dĩ lời chúc mừng là dành cho Thuận Tông, nhưng sang đến đây thì Thuận Tông đã băng hà, Hiến Tông vừa trở thành hoàng đế mới. Dù sao thì ở thời điểm Cao Giai Chân Nhân đặt chân lên đất Đường, Thuận Tông vẫn còn sống, sứ tiết nhận được tin báo Thuận Tông băng hà là khi đã tới thành Lạc Dương.

Cuộc gặp gỡ này diễn ra ba ngày sau khi Thuận Tông mất, trong lúc Cao Giai Chân Nhân đang tất bật chuẩn bị.

Lời đề nghị đường đột của Không Hải khiến ông ta bối rối.

Không được để Cao Giai Chân Nhân ngay từ đầu đã trả lời rằng “không”, dù chỉ theo phản xạ tự nhiên.

Dù chỉ buột miệng theo phản xạ tự nhiên, nhưng một khi đã nói ra, người ta sẽ bảo vệ cho bằng được chủ kiến của mình. Con người là như vậy.

Không Hải biết rõ điều này.

Vì thế, Không Hải liền nói ngay như để ngăn lời Cao Giai Chân Nhân.

“Kỳ thực, bần đạo đã được sự chấp thuận của tiên đế Thuận Tông rồi.”

Không có lẽ nào…

Tất nhiên, Cao Giai Chân Nhân không nói ra như thế.

Mà thay vào đó, ông ta hỏi.

“Thật thế sao?”

“Vâng.”

Không Hải tự tin đáp.

Dĩ nhiên, đó là sự thật.

Sau một khoảng dừng đủ dài,

“Mặc dầu vậy, đó không phải là một sự chấp thuận có tính chính thức.”

Không Hải nói tiếp.

“Để chính thức hóa sự chấp thuận ấy, bần đạo cúi mong ngài Cao Giai dâng tấu xin với Hiến Tông hoàng đế.”

Không Hải nói đúng.

Vì cậu sang đây dựa trên những định lệ giữa Nhật Bản và nhà Đường, nên nếu muốn về trước kỳ hạn hai mươi năm, thì theo lẽ thường, sứ thần Nhật Bản phải dâng tấu xin việc này.

Hừm…

Khi Cao Giai Chân Nhân còn đang lưỡng lự, Không Hải liền bồi tiếp cứ như thể mọi sự đã an bài.

“Hãy để bần đạo viết biểu tấu.”

“Không Hải…”

Người cất tiếng là Dật Thế.

Trông ra thì thấy mặt Dật Thế cắt không còn giọt máu, mình run lẩy bẩy.

“Cậu đừng để tớ lại nhé…”

Dật Thế run run nói.

“Đừng bỏ tớ lại một mình…”

Dật Thế nói to hơn.

Thứ chiếm trọn tâm trí Dật Thế khi ấy là nỗi sợ hãi.

Nếu Không Hải rời Trường An…

Chẳng phải chỉ còn mình ta trơ trọi thôi sao?

Nếu có Không Hải, ta còn có thể chịu đựng được. Nhưng Không Hải về rồi, thì chỉ còn mình ta ở lại đất nước này…

Ta làm sao chịu đựng nổi nỗi cô quạnh ấy đây.

Tiếng Đường chưa thông hết, ta lại chưa theo một thầy dạy Nho nào.

Nếu dùng hết chỗ tiền mang sang, hoặc bị đánh cắp mất, ta chỉ còn nước chết đói mà thôi.

Chẳng cần đến tiền mà Không Hải đã trở thành người đứng đầu một tông môn trong giới tôn giáo ở Trường An này.

Ta chẳng là cái thá gì.

Tiền cũng không kiếm nổi.

Mà không, trước khi chết đói, có lẽ ta sẽ chết vì thương nhớ Nhật Bản mất rồi.

“Nếu chỉ còn lại một mình, tớ sẽ phát điên mà chết mất.”

Dật Thế nói quẫn.

Rồi Dật Thế chuyển từ Không Hải sang Cao Giai Chân Nhân, cúi đầu.

“Xin ngài làm ơn. Hãy cho Quất Dật Thế này cùng được về Nhật Bản.”

Từ hai mắt Dật Thế, những giọt lệ to rơi lã chã.

Một khi đã mở miệng, cậu ta không dừng lại được nữa.

Dật Thế giãy lên như một đứa trẻ, chống hai tay xuống nền, nói.

“Xin ngài.”

“Xin ngài.”

Đây là lần đầu tiên người đàn ông đầy tự trọng này thể hiện điều ấy trước mặt một người không phải là Không Hải.

Cái đất nước nhỏ bé ở Đông Hải ấy.

Cái kinh đô còn nhỏ bé hơn nữa ở giữa đất nước ấy.

Cái thế giới cung đình còn nhỏ bé hơn hơn nữa trong cái kinh đô ấy.

Cái thế giới Dật Thế đã từng khinh mạn ấy, thế mà giờ đây, Dật Thế lại muốn quay về đó, bất chấp xấu hổ, bất chấp sĩ diện.

“Xin ngài.”

Dật Thế nói.

❖ 8 ❖

Bài biểu dâng lên hoàng đế Không Hải viết khi ấy vẫn còn lưu lại trong Tính linh tập.

Biểu đề: “Tấu xin cho về cùng sứ thần bản quốc”.

Tăng thần Không Hải, lưu học Đại Đường, khởi bẩm.

Không Hải tài cán thua nước Sở*, thông minh kém Ứng Phụng*. Ngông cuồng cầu pháp*, vượt bể mà sang. Chân đi dép cỏ, rảo khắp trong thành, may mắn gặp được Bát Nhã Tam Tạng người miền trung Thiên Trúc, lại gặp đại A-xà-lê Huệ Quả phụng sự trong cung, bèn lết gối, dập đầu*, ngẩng lên mong được rưới cam lồ.

Rốt cũng được dự vào Mạn Đà La của Đại Bi Thai Tạng Kim Cương giới đại bộ, tắm trong pháp quán đỉnh của ngũ bộ* du dà*.

Thần mải đọc quên ăn, gà gật viết lách, đã chép hết các sách Đại Bi Thai Tạng Kim Cương Đảnh; được thầy chỉ dạy, đã ghi lại lời văn, ý tứ.

Còn vẽ được một bức Thai Tạng đại Mạn Đà La, một bức Kim Cương giới Cửu Hội đại Mạn Đà La (ghép bằng bảy bức lụa, dài năm thước). Lại chép được hai trăm quyển kinh tân dịch, việc đóng sách sắp xong.

Pháp này tức là tâm Phật, hộ quốc. Là mạt ni* trừ tà chiêu phúc, là lối tắt thoát phàm, nhập thánh. Bởi vậy, sự nghiệp mười năm kiêm trong bốn mùa*, ấn khế tam Mật gộp vào một chí, muốn đem viên ngọc sáng này đáp lại thiên mệnh*. Nhược bằng cứ mãi làm khách tha hương, dài cổ ngóng sứ, thì bóng câu vụt qua, tóc vàng* biết phải sao đây? Nay, ước nguyện nhỏ nhen, nói không hết ý. Cẩn tấu.

Lấy từ điển tích nước Sở xưa kia sản sinh ra nhiều người tài.

Nguyên văn dùng chữ “ngũ hành”, lấy từ điển tích có người tên là Ứng Phụng đời Đông Hán thông minh từ nhỏ, đọc sách ngũ hành một lần là hiểu ngay.

Nguyên văn là “Mậu lạm cầu bát (謬濫求撥)”, chữ “mậu lạm” là chữ Không Hải dùng để nói về cách tầm sư học đạo không theo cách thức thông thường của mình.

Nguyên văn dùng chữ “tất bộ tiếp túc (膝步接足)”, nghĩa là đi bằng đầu gối, dập đầu lên chân sư phụ, ý chỉ lễ nghĩa thầy trò.

Tức ngũ trí trong Mật giáo.

Tức Kim Cương Thai Tạng lưỡng bộ.

Chỉ ngọc như ý.

Nguyên văn là chữ “tứ vận (四运)”, ý chỉ một năm.

Ý chỉ lệnh của Thiên hoàng Kanmu.

Ý chỉ người già. Lấy từ tích trong “Đào hoa nguyên ký” của Đào Uyên Minh đời Tần.

Không Hải viết xong bức biểu trong chớp mắt. Có thể nói, lời văn tuy ngắn ngủi, nhưng đã trình bày được hết ý.

“Sự nghiệp mười năm, kiêm trong bốn mùa.”

Câu này cho thấy sự tự tin của Không Hải.

“Bốn mùa” tức là một năm. Không Hải không ngại ngần mà viết rằng, việc đáng lẽ phải mất mười năm, thì mình đây đã làm xong trong một năm.

“Bóng câu vụt qua, tóc vàng biết phải sao đây?”

Năm tháng trôi qua như con ngựa trắng, mái tóc xanh thời trai trẻ cũng sẽ thành tóc bạc…

Câu này có lẽ là nỗi lòng thực của Không Hải, chứ không còn là một thủ pháp tu từ thông thường nữa.

❖ 9 ❖

Ba hôm sau khi Không Hải viết xong bài biểu thì Dật Thế tìm đến với một gương mặt tiều tụy.

“Tớ không viết được.”

Dật Thế nói.

Dật Thế không viết được biểu văn.

Cậu ta không biết phải viết gì và như thế nào.

“Hôm qua tớ đã được xem biểu văn của cậu ở Hồng Lô khách quán, thật là hoàn hảo. Còn tớ thì chẳng biết phải viết thế nào.”

Dật Thế nói kèm theo một tiếng thở dài mệt mỏi.

Không Hải có lý do để quay về.

Mục đích lưu học đã hoàn tất.

Nhưng Dật Thế thì không.

Cần phải nhớ rằng có sự khác nhau giữa Phật giáo và Nho giáo. Phật giáo bao gồm các hệ thống, phép tắc, có cả những nghi thức làm bằng chứng như pháp quán đảnh, còn Nho giáo thì không.

Nếu bức biểu này hỏng ăn thì sẽ không có cơ hội cho lần sau.

Không Hải sẽ về nước cùng với Cao Giai Chân Nhân mất.

Không ai biết đoàn thuyền Khiển Đường sứ tiếp theo sẽ là bao giờ.

Ngay lúc Dật Thế chuẩn bị rời Nhật Bản, đã có ý kiến cho rằng “nên bãi bỏ các đoàn thuyền Khiển Đường sứ”.

Phí tổn cho các đoàn thuyền này đều do ngân khố nhà nước gánh chịu, văn vật nhà Đường thì chẳng cần phải cất công sang đó cũng có thể mua sắm được nhờ các thuyền buôn từ đại lục đã bắt đầu qua lại tấp nập vào thời kỳ này.

“Lần sau chưa biết đến bao giờ mới có thuyền sang.”

Cao Giai Chân Nhân nói với Dật Thế như vậy.

Trên thực tế, phải ba mươi hai năm sau, tức năm Thừa Hòa thứ năm (năm 838) mới có chuyến tiếp theo. Nói như Không Hải, nếu không về bây giờ thì sẽ chẳng còn cơ hội để đặt chân lên đất Nhật Bản nữa.

Dật Thế đến chỗ Không Hải trong khi vẫn chưa viết được dòng nào.

“Không Hải, tớ nhờ cậu đấy.”

Dật Thế cúi đầu.

“Hãy viết hộ tớ.”

Gương mặt hốc hác, hai mắt lấp lánh.

Vào thời kỳ này, viết hộ đã trở thành một thông lệ. Việc đọc và viết chữ chưa phổ cập như ngày nay. Có những người biết đọc mà không biết viết, thành thử đa số là những người chỉ viết được dăm ba chữ. Làm chủ được con chữ, viết được văn là một kỹ năng đặc biệt.

Tuy nhiên, Dật Thế dù sao cũng là người do triều đình Nhật Bản cử sang học, nên không phải không có tài chữ nghĩa, văn chương. Ở Đường, thậm chí Dật Thế còn được người ta gọi là “Quất tú tài”.

Ấy vậy mà Dật Thế vẫn phải nhờ đến Không Hải viết biểu văn thì mới thấy tài năng của Không Hải đến mức nào.

“Từ trước đến nay, chữ nghĩa đã vào tay cậu thì chưa lần nào mà lại không xong việc. Hồi ở Phúc Châu cũng vậy.”

Dật Thế đang nói đến hồi con thuyền chở Không Hải và Dật Thế gặp bão rồi trôi dạt đến Phúc Châu.

“Cát Dã Ma Lữ viết không biết bao nhiêu lần nhưng đều hỏng việc, ấy vậy mà chỉ cần cậu ra tay thì mọi chuyện đều êm xuôi.”

Dật Thế tin rằng, văn chương của Không Hải có một phép thuật sai khiến nhân tâm.

“Hãy giúp tớ.”

Dật Thế khẩn khoản.

“Cậu chắc chứ.”

“Tớ chắc.”

Nghĩ ngợi hồi lâu, rồi Không Hải cất tiếng.

“Việc này rất khó. Nhưng sẽ có cách.”

“Có cách à?”

“Ừm.”

Không Hải gật đầu, rồi khoanh tay tư lự.

“Không có cơ hội cho lần thứ hai. Nếu muốn một lần xong ngay, thì nội dung biểu văn sẽ không được hay ho lắm đối với cậu.”

“Không hề gì.”

Dật Thế quả quyết nói.

“Nếu vậy thì tớ sẽ viết, nhưng biểu của tớ và của cậu không thể cùng một nét chữ, thế nên cậu phải chép lại nội dung mà tớ viết ra.”

“Tớ biết điều đó.”

“Lúc ấy, cậu đừng có thù tớ nhé. Vì cái tớ viết ra chỉ là phương tiện thôi mà.”

“Dù cậu viết gì tớ cũng không thù cậu. Cậu sẽ viết cho tớ chứ?”

“Tớ sẽ viết. Sớm chút nào hay chút đấy, phải không nào.”

Nói đoạn, Không Hải bắt tay ngay vào viết biểu văn cho Dật Thế.

Biểu đề: “Quất học sinh, tâu xin cho đoàn sứ thần bản quốc”. Bài biểu vẫn còn lưu lại trong Tính linh tập.

Thần Dật Thế, lưu trú học sinh, khởi bẩm.

Dật Thế, không có cái tiếng của con ngựa ký*, xếp sau cả lũ cổ xanh*. Đáng ra, thiên văn địa lý phải tỏ tường như sắc tuyết, chuông vàng khánh ngọc* phải tiếng nặng như hòn chì. Nhưng nay, sông núi cách trở, ngôn ngữ chưa thông, chẳng thể an nhàn mà chơi rừng hòe. Vả chăng còn phải ôn tập, học thêm cầm thư. Ngày tháng trôi mau, tư sinh* đều cạn. Chút quần áo, lương thực ít ỏi nhà Đường cấp, chỉ vừa đủ sống, không đủ trả tiền thầy, đọc sách. Dù giữ bằng được chữ tín của Vi Sinh, há có thể đợi cái hẹn hai mươi năm*? Như thế không chỉ là xoay vần mạng con dế ở trong hang, mà thực là một vết nhơ của quốc gia vậy. Nay thấy kẻ học tuy chưa đến đại đạo, nhưng trời, thần không cảm động được chăng? Vua Thuấn vỗ về mà yên được bốn bể, Ngôn Yển* gõ nhạc mà trị được một nước. Nếu cứ noi theo di phong của các vị ấy, chuyên tâm tìm tòi, thì công trạng tất thành. Một nghề thì vững, năm xe khó lọt. Muốn ôm cây tiêu vĩ* này mà gảy một khúc ở trên trời. Nay, không nề nguyện nhỏ, phụng tấu trần tình. Bất tuyên cẩn tấu.

Là con ngựa tốt, ý nói người tài.

Ý chỉ học trò.

Vốn là chữ “kim thanh ngọc chấn (金声玉振)” dùng để nói về việc có đủ cả tài lẫn đức.

Tức là tiền bạc.

Câu này từ tích: Vi Sinh Cao hay còn gọi là Vĩ Sinh Cao, học trò Khổng Tử, nổi tiếng vì tín nghĩa, chính trực. Vi Sinh hẹn ước với cô gái ở dưới cầu, đến hẹn mà cô gái không tới, nước nâng lên, Vi Sinh cứ thế ôm trụ cầu mà chết.

Tên chữ là Tử Du, học trò của Khổng Tử.

Một loại đàn dây cổ của Trung Quốc.

“Sông núi cách trở, ngôn ngữ chưa thông, chẳng thể an nhàn mà chơi rừng hòe.”

Nghĩa là, Nhật Bản và Đường, núi sông cách trở, trong khi đó bản thân thì chưa thạo tiếng…

Không Hải trong lốt Dật Thế đã viết như vậy.

Hơn nữa,

“Tư sinh đều cạn.”

Nghĩa là tiền bạc đã tiêu hết.

Số quần áo, lương thực do nhà Đường chu cấp thì ít ỏi, chỉ đủ sống cầm chừng.

“Không chỉ là xoay vần mạng con dế ở trong hang…”

Dế ở đây là con dế trũi.

Không Hải bắt Dật Thế tự ví mình với một con côn trùng là dế trũi.

Chẳng phải, đó không chỉ là chuyện vứt bỏ mạng sống không hơn gì một con dế trũi ở trong hang, mà còn là vết nhơ lớn của nước Nhật Bản hay sao?

Nho học tuy chưa đến nơi đến chốn, song âm nhạc đã thu lượm được ít nhiều. Như vậy cũng đủ sức khiến cho trời lay động, thần cảm kích. Nay chẳng mong muốn gì hơn là đem thứ âm nhạc mỹ miều này truyền về Nhật Bản.

Vì thế, xin hoàng thượng cho thần được về Nhật Bản.

Đó là đại ý của bức biểu.

Đọc xong bản tấu Không Hải vừa viết, vẻ mặt Dật Thế nom thật ê chề.

“Dật Thế này…”

Nhưng Dật Thế liền cất tiếng như để ngăn lời Không Hải.

“Không sao đâu, Không Hải. Chẳng phải đúng vậy ư?”

Dật Thế cố nặn ra một nụ cười.

Lúc soạn bản tấu, ý tưởng ban đầu Không Hải đưa ra lại sinh thêm những ý tưởng mới, rồi các ý tưởng cứ thế nối đuối nhau chạy ra.

Viết hơi quá tay, cũng có thể nói là như vậy.

Tuy nhiên, nếu bỏ qua cảm xúc của mình và chỉ xét trên khía cạnh văn chương, thì bản thân Dật Thế cũng phải thừa nhận rằng, đây là một áng văn toàn bích, khó lòng mà sửa được chữ nào.

Cầm bản tấu của mình do Không Hải viết trên tay, “Nhưng mà, cho tớ nói một câu này thôi,” Dật Thế thẽ thọt.

“Không Hải ạ, cậu tài hoa quá trong những tình huống như thế này cũng chẳng hay ho chút nào.”

❖ 10 ❖

Một thời gian sau, Không Hải được vào cung yết kiến Hiến Tông hoàng đế.

Dật Thế và Cao Giai Chân Nhân cũng đi cùng.

Về mặt hình thức, Cao Giai Chân Nhân Viễn Thành trên danh nghĩa sứ thần Nhật Bản là người dẫn theo Không Hải và Dật Thế vào triều, nhưng kỳ thực, chính Hiến Tồng đã cho đòi Không Hải.

“Khanh là Không Hải à?”

Hiến Tông nói vọng xuống từ trên ngai vàng.

“Vâng.”

Không Hải đáp bằng một giọng bình thường.

Dật Thế và Cao Giai Chân Nhân đứng hai bên Không Hải đang run lẩy bẩy vì căng thẳng.

“Ta đã nghe kể về khanh.”

Giọng nói của Hiến Tông rành rọt hơn Thuận Tông.

Tất nhiên, Hiến Tông không bị bệnh.

Không Hải và Dật Thế vẫn chưa nhận được câu trả lời cho bản tấu xin về nước.

Theo thông lệ, việc yết kiến chỉ diễn ra sau khi nhận được câu trả lời chính thức, nhưng trong trường hợp này, Không Hải và Dật Thế vẫn chưa nhận được.

“Thật tiếc.”

Hiến Tông nói.

Nhưng Hiến Tông không nói tiếc điều gì.

“Nghe đâu khanh rất giỏi viết chữ.”

Hiến Tông tò mò ngắm nhìn chàng sa môn ngoại quốc.

Trong giới Mật tông Trường An, cũng có nghĩa là trên khắp cả Đại Đường, Không Hải đã đứng ở vị trí tối cao.

Hiến Tông cũng đã biết điều này.

“Ta cũng nghe nói khanh đã viết văn bia cho Huệ Quả A-xà-lê.”

“Vâng.”

Không Hải đáp.

“Ta đã đọc bản tấu khanh viết.”

Hiến Tông vẫn chăm chú nhìn như đang thăm dò Không Hải.

“Văn khá lắm.”

Thế rồi, từ cuộc gặp gỡ này, Hiến Tông đã làm nên một truyền thuyết về Không Hải mà sau này được mệnh danh là “Ngũ Bút hòa thượng”.

❖ 11 ❖

“Ta có một đề nghị với khanh.”

Hiến Tông nói.

“Là gì thưa hoàng thượng?”

“Ta muốn khanh viết chữ.”

“Viết chữ ạ?”

“Phải.”

Hiến Tông gật đầu, rồi đưa mắt ra hiệu cho kẻ cận thần.

Có vẻ như mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng.

Kẻ cận thần tiến lại, rồi giục Không Hải.

“Mời hòa thượng theo lối này.”

Hiến Tông đã đứng dậy và cất bước.

Bọn Không Hải nối gót theo sau.

Hiến Tông và quần thần dẫn đầu, đi một chốc thì tới một căn phòng. Không Hải, Dật Thế và Cao Giai Chân Nhân vào sau. Đó là một căn phòng rộng ba gian.

Mặt chính là bức tường trắng, mỗi cây cột ngăn ra một gian, mỗi gian có ba mặt tường.

Hai mặt tường phía bên tay phải theo hướng từ ngoài vào trong vẫn còn mới, nhưng một mặt tường bên tay trái thì xem ra đã cũ. Cả một mặt tường cũ ấy toàn là chữ. Chỉ có một mặt tường cũ ấy là có chữ, còn hai mặt tường mới bên phải chưa viết gì.

Ngai vàng đã được đặt sẵn đằng trước bức tường cũ. Hiến Tông ngồi xuống.

“Hãy xem đi.”

Hiến Tông nói.

Không Hải tiến tới rồi đứng lại trước bức tường cũ.

Hiến Tông và đám cận thần có đến hơn ba mươi người đang chăm chú nhìn Không Hải với ánh mắt như thăm dò.

Ngươi có hiểu những dòng này không?

Không Hải bị vây quanh bởi những ánh nhìn như vậy.

Đối tửu đương ca

Nhân sinh kỷ hà

Thí như triêu lộ

Khứ nhật khổ đa

Khái đương dĩ khảng

Ưu tư nan vong

Hà dĩ giải ưu

Duy hữu đỗ khang

(Dịch thơ:

Đối rượu phải ca

Đời người mấy độ

Như sương mai sa

Khổ thay ngày trước

Hào sảng tiếng hát

Nhưng buồn khó quên

Lấy gì giải phiền

Chỉ còn có rượu.)

Nét chữ ung dung. Đường bút tự tại, bông đùa mặc ý, nhưng không rối loạn.

Thư pháp hoàn hảo.

“Thần xem ra đây là thơ của ngài Tào Tháo, nhưng…”

Không Hải nói đến đấy thì thôi, nuốt điều định nói tiếp vào trong bụng.

Từ trong đám cận thần có tiếng ồ lên nho nhỏ.

Để xem Không Hải là kẻ ghê gớm thế nào?

Dường như có không ít những kẻ cận thần nhìn Không Hải bằng ánh mắt như vậy đã phải kinh ngạc khi Không Hải đoán ra tác giả của bài thơ.

Tại sao một sa môn đến từ Nhật Bản lại biết được bài thơ này?

Quả thực, đây là bài “Đoản ca hành” của Tào Tháo, người đã gây dựng nên nhà Ngụy gần sáu trăm năm trước.

Tào Tháo được mệnh danh là “Hoành Sóc thi nhân”. Tương truyền, hễ thi tứ nảy ra thì dù đang ở trên chiến trường, Tào Tháo cũng sẽ cầm ngang cây giáo mà ung dung làm thơ.

Trong Ngụy thư có chép: “Cầm quân hơn ba mươi năm, tay không bỏ bút, ngày thời bàn quân cơ, đêm thời ngẫm kinh truyện. Lên non viết phú, cùng là làm thơ, phổ vào quản huyền*, thảy đều thành nhạc.”

Nghĩa là “ống và dây”, dùng để chỉ nhạc cụ.

Bài thơ này của Tào Tháo còn dài nữa, nhưng trên tường chỉ viết đến đấy.

Nhìn thấy Không Hải định nói thêm gì đó rồi lại thôi, Hiến Tông hỏi.

“Sao vậy?”

“Thần có một chuyện chưa hiểu, nên đang ngẫm nghĩ.”

“Chuyện gì? Hãy nói ra.”

“Thần đang thắc mắc, tại sao lại có chữ của ngài Vương Hi Chi ở đây.”

Không Hải vừa dứt lời thì từ trong đám cận thần dậy lên những tiếng kinh ngạc lẫn tán thán.

“Này Không Hải, sao khanh biết đây là chữ của Vương Hi Chi?”

Hiến Tông hỏi.

Cũng không có gì khó hiểu trước sự kinh ngạc của đám cận thần và câu hỏi của Hiến Tông.

Vương Hi Chi là nhân vật sống vào khoảng hơn bốn trăm năm trước, sinh ra ở Lâm Nghi, thuộc Lang Gia Quận, cách rất xa Trường An. Ông là một thư pháp gia Đông Tấn.

Vào thời điểm Không Hải nhập Đường, và cho tới tận ngày nay, có thể nói Vương Hi Chi là cái tên được biết đến nhiều nhất trong số các thư pháp gia ở cả đại lục và Nhật Bản. Nhưng hiện không còn lưu lại thủ bút nào của ông.

Người lập nên nhà Đường là Đường Thái Tông say mê thư pháp Vương Hi Chi, Đường Thái Tông có được một bức thủ bút từ nhà sư Trí Vĩnh là cháu bảy đời của Vương Hi Chi do được truyền lại.

Bức thủ bút này chính là Lan Đình tự trứ danh.

Tết Thượng Tị, mồng ba tháng Ba năm Vĩnh Hòa thứ chín…

Có rất đông các văn nhân mặc khách đến chơi với Vương Hi Chi khi ấy đang nhậm chức ở huyện Sơn Âm và bày tiệc khúc thủy*. Địa điểm là danh thắng Lan Đình.

Đây là một lễ tiết thường được tổ chức ở trong cung hoặc các nhà quý tộc vào ngày mồng ba tháng Ba âm lịch. Trong tiệc, người ta ngồi ven dòng nước chảy uốn quanh (khúc thủy), kẻ ngồi trước uống rượu xong thì thả chén xuống, kẻ ngồi sau phải làm một bài thơ cho kịp không để chén trôi qua mất, làm xong thì cầm chén lên uống, rồi lại thả xuống cho người kế tiếp.

Trong tiệc ấy, người đến dự ai nấy đều làm một bài thơ, sau đó tập hợp thành một quyển và Vương Hi Chi tự tay đề tựa cho tập thơ này.

Bài tựa đó chính là Lan Đình tự.

Khi Đường Thái Tông băng hà, bức Lan Đình tự ấy đã được tuẫn táng cùng Đường Thái Tông tại Chiêu Lăng theo di mệnh. Nên giờ đây chỉ còn những bản dập từ bia hoặc chép tay lại, hiếm khi thấy được thủ bút thật của bức thư họa ấy.

Rốt cuộc Không Hải đã trông thấy thủ bút của Vương Hi Chi ở đâu, khi nào?

“Bức Tang loạn thiếp của Vương Hi Chi du nhập vào nước thần từ Đại Đường.”

Không Hải nói.

“Bức đó nằm trong một quyển có năm bức xích độc*, nhưng không phải thủ bút thật.”

Loại sách cổ làm bằng thẻ gỗ, về sau để chỉ thư tín.

“Ồ.”

“Mà được chép lại bằng phép song câu điền mặc.”

Song câu điền mặc là phương pháp sao chép lại bằng cách đặt một tờ giấy mỏng có thể nhìn xuyên thấu lên trên thủ bút, rồi lấy loại bút mảnh tô theo viền chữ ngoài, sau đó mới quét mực theo từng nét đậm nhạt ở trong.

Dòng đầu tiên của bức xích độc này có chữ “tang loạn” nên được gọi là Tang loạn thiếp.

“Ngươi muốn nói nhờ vậy mà ngươi nhận ra nét chữ này?”

“Vâng.”

Không Hải đáp không chút lưỡng lự.

“Quả đúng đây là thủ bút thật của Vương Hi Chi. Nó vốn được viết trên bức tường ở cung điện tại Kiến Khang, kinh đô Đông Tấn.”

Hiến Tông nói.

“Tương truyền hoàng đế bấy giờ cho gọi Vương Hi Chi từ huyện Sơn Âm tới, đòi viết bài thơ này.”

Hiến Tông nói tiếp.

“Nghe nói sau khi nhà Tấn mất, Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy muốn có được bức thư pháp này, mới cho cắt bức tường thành ba mảnh, rồi chuyển đến làm thành tường của cung điện ở Lạc Dương.”

Và,

“Đến thời Thái Tông hoàng đế của nhà Đường ta, bức tường lại được chuyển từ Lạc Dương tới Thái Cực Điện này.”

Tính từ đó cho tới nay, cũng đã ngót nghét ba trăm năm. Nếu kể từ lúc Vương Hi Chi viết lên bức tường này thì đã hơn bốn trăm năm trôi qua.

Vậy mà nó vẫn còn tồn tại được đến bây giờ.

Cái chiều sâu và bề dày ấy của lịch sử không khỏi làm người ta choáng váng.

Dật Thế không nói được lời nào.

Chỉ có Không Hải vẫn đứng đó với vẻ mặt giống như mọi ngày.

“Vốn dĩ chữ được viết trên cả ba mặt tường, nhưng do lâu ngày, mặt tường bong tróc, chữ trên hai mặt kia không còn giữ được hình dạng nữa, nên vào thời Huyền Tông hoàng đế, chúng được sửa lại, nay chỉ còn là hai mặt tường trắng.”

Nếu tính từ thời Huyền Tông thì cũng đã năm mươi năm có lẻ…

“Có vẻ như ngay cả An Lộc Sơn cũng không động đến bức thư pháp này của Vương Hi Chi. Nhờ vậy mà vẫn còn giữ được…”

“…”

“Tuy nhiên, nếu cứ để nguyên cả mặt tường trắng thì thật lãng phí, vì vậy Huyền Tông hoàng đế đã mấy lần định cho người viết chữ mới, hiềm nỗi…”

Bất cứ ai khi đứng trước bức tường này cũng trù trừ, rốt chẳng viết nổi một chữ.

Bởi dù sao thì ngay bên cạnh cũng là chữ của Vương Hi Chi. Nếu viết thì tức là chữ mình sẽ xếp ngay cạnh chữ Vương Hi Chi. Nghe nói có kẻ còn sợ quá, tay run tới nỗi không cầm nổi bút.

Chuyện đó cũng không có gì là khó hiểu.

Thành thử suốt hơn năm mươi năm, hai mặt tường vẫn nguyên màu trắng.

“Khanh thấy sao, Không Hải…”

Hiến Tông hỏi.

“Khanh có muốn thử viết gì đó lên bức tường này không?”

Ực! Dật Thế nuốt khan, yết hầu chạy xuống rồi lại chạy lên.

“Đó có phải là đề nghị của hoàng thượng không ạ…”

“Đúng vậy.”

Hiến Tông vừa đáp dứt lời, Không Hải liền nhìn sang Hiến Tông.

Cậu muốn thăm dò ý thật của Hiến Tông.

Phải chăng ông ta muốn thử mình?

Hay ông ta muốn xem mình chần chừ rồi từ chối ra sao và lấy đó làm thích thú?

Nhưng ý nghĩ ấy chỉ hiện lên trong thoáng chốc. Không Hải cảm thấy dòng máu chảy trong da thịt mình đang nóng dần lên.

Thật là một cơ hội hiếm có.

Chữ của mình sẽ sánh vai cùng chữ của Vương Hi Chi.

Tim đập mạnh, mặt Không Hải đỏ lên từ lúc nào.

Mặc kệ Hiến Tông muốn thử gì. Dù sao thì chính Hiến Tông cũng đã đưa ra lời đề nghị trước mặt mọi người. Nếu Không Hải muốn viết thì không ai, ngay cả Hiến Tông, có thể ngăn được Không Hải.