- 21 - SƯNG PHỔI
HỎI:
Tôi gần đây bị ho nhiều, nhiều lúc thấy lên cơn nóng lạnh và khạc ra đàm rất nhiều, thấy có màu vàng và xanh, Tôi có đi chụp hình phổi và được cho biết bị sưng phổi. Hiện nay tôi đã thấy đỡ nhiều sau mấy ngày uống trụ sinh nhưng xin hỏi bác sĩ sưng phổi có nguy hiểm lắm không? Lý do tại sao bị sưng phổi và làm cách nào để ngừa bệnh sưng phổi.
Huỳnh V. B.
ĐÁP:
Sưng phổi (pneumonia) là bệnh nhiểm trùng phổi thường xảy ra nơi người già, trẻ con, những người ốm yếu, cơ thể suy nhược và bị những bệnh kinh niên như tiểu đường, bệnh suyễn, bệnh tim, ung thư..v..v... Sưng phổi ở những người bệnh này có thể trở thành nặng rất nhanh và gây nhiều biến chứng nguy hiểm. Những người trẻ tuổi, khoẻ mạnh cũng có thể bị sưng phổi, tuy nhiên thường bị nhẹ và dễ chữa hơn; phần lớn các trường hợp xảy ra sau khi bị lây cúm hay cảm do cực vi trùng và sau đó bị vi trùng xâm nhập gây ra sưng phổi.
Nguyên nhân gây ra bệnh sưng phổi là do vi trùng xâm nhập. Bình thường trong bộ phận hô hấp từ thanh quản với dây nói trong cổ họng chạy xuống hai lá phổi không có vi trùng. Phần miệng và phía trên thanh quản có những vi trùng vô hại trú ngụ không gây ra bệnh (normal flora). Tuy nhiên, khi cơ thể suy yếu hoặc có những bệnh kinh niên khác, các vi trùng nằm trong miệng và cổ họng này có thể chạy xuống phần dưới của đường hô hấp và gây ra nhiễm trùng. Thường là do bị sặc hoặc khi nằm ngủ, miếng lưỡi gà (glottis) che đường hô hấp trong cổ bị hở để cho nước bọt hoặc dịch vị bao tử chạy ngược chảy vào đường hô hấp mang theo vi trùng và sinh bệnh.
Vi trùng cũng có thể xâm nhập bằng cách do hít thở thẳng từ không khí truyền từ người này sang người khác; tuy nhiên ở người bình thường, cơ thể có sự kháng cự tự nhiên để chóng với vi trùng.
Đầu tiên là phản xạ của miếng lưỡi gà glottis như nói ở trên sẽ đóng chặt đường hô hấp nếu khi nuốt bị sặc, kế đó là phản xạ ho, vật gì lạ hít vào đường hô hấp đều gây ra kích thích với phản xạ ho để bắn ra ngoài. Nếu không ra được, các chất nhờn của các tế bào phủ ngoài mặt đường hô hấp sẽ bao lấy vật lạ và đẩy lần từ dưới lên trên, sau đó sẽ được khạc nhổ ra ngoài hay nuốt đi.
Vi trùng khi tiến được vào đường hô hấp cũng không phải được để yên tự do hoành hành. Đầu tiên là những kháng thể loại A (immunoglobulin A gọi tắt là IGA) trong nước bọt chống cự trước, làm vi trùng không dính được vào bề mặt của lớp màng nhầy đường hô hấp. Kế đó là kháng thể loại G gọi là IgG ở sâu hơn trong khí quản sẽ bám lấy vi trùng để các bạch cầu của cơ thể tiêu hủy vi trùng. Những tế bào đặc biệt của đường hô hấp gọi là đại bào phế quản (alveolar macrophages) có nhiệm vụ đi tìm và tiêu diệt vi trùng trực tiếp bằng cách ăn vi trùng, đưa qua màng tế bào và hủy diệt bằng những phản ứng oxid hoá. Ngoài ra, khi vi trùng xâm nhập nhiều quá, các bạch cầu đa nhân (polymorphonuclear neutrophils) trong mạch máu sẽ được kêu gọi bằng những chất hoá học tiết ra từ địa điểm bị xâm nhập, cũng như các tiểu bạch cầu (lymphocytes) khác của hệ thống miễn nhiễm cũng sẽ chạy lại để bao vây và tiêu hủy vi trùng.
Hệ thống chống cự của cơ thể như trên giữ cho một người khỏe mạnh chiến đấu với vi trùng thường xuyên tìm cách xâm nhập cơ thể và nhất là ở đường hô hấp. Tuy nhiên, với cơ thể suy yếu do tuổi già hoặc các bệnh kinh niên khác, các cơ chế chống cự trên bị kém đi và khi cán cân quân bình lệch đi về phía vi trùng, vi trùng có cơ hội sinh sôi nảy nở và xâm nhập thêm sẽ gây ra bệnh sưng phổi. Ngoài những bệnh kinh niên như đã nêu ở phần đầu, hút thuốc lá sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến sự chống cự của cơ thể như làm suy yếu đại bào phế quản và làm cơ chế chuyên chở của màng nhầy để tống khứ vi trùng và vật lạ ra khỏi đường hô hấp bị ngăn trở nên người hút thuốc nhiều sẽ dễ bị sưng phổi hơn người thường do những lý do trên.
Loại vi trùng nào thường hay gây ra sưng phổi nhất?
Tùy thuộc vào bệnh ở người già hay trẻ, có bệnh kinh niên hay không, hoặc bệnh sưng phổi xảy ra nơi người đang nằm bệnh viện vì một lý do nào khác hay bệnh sưng phổi xảy ra với bệnh nhân ở nhà. Thường nhất là do vi trùng có sẵn trong miệng và cuống họng gây ra xâm nhập xuống đường hô hấp dưới và gây sưng phổi. Các loại vi trùng này là Streptococcus pneumoniae, kế đó là Hemophilus influenzae và Staphylococcus aureus. Ở người trẻ hơn và xâm nhập do hít thở, truyền trong gia đình hay các người lân cận là loại vi trùng Mycoplasma pneumoniae gây ra sưng phổi tương đối nhẹ hơn. Những người ghiền rượu hoặc những người hay bị sặc, bị bệnh stroke nuốt khó khăn, hoặc những người bị bệnh răng miệng nhiều, dễ bị sưng phổi do các loại vi trùng anaerobic hay làm mủ trong phổi. Nguy hiểm nhất là những người bị các bệnh khác phải vào nhà thương bị sưng phổi do các vi trùng kháng đủ mọi loại thứ thuốc có sẵn trong nhà thương xâm nhập và làm sưng phổi nặng. Các loại vi trùng này gọi là loại Gram-negative như vi trùng Pseudononas, klebsiella v.v... rất khó chữa.
Triệu chứng của bệnh sưng phổi thường dễ nhận biết với bắt đầu bằng ho, càng ngày càng nhiều và khạc đàm vàng, xanh như có mủ, đôi khi có thể có máu. Có thể sốt nhẹ hoặc sốt nặng lên 101 độ, 102 độ F. Hít thở mạnh có thể làm đau nhối lồng ngực do viêm màng bọc phổi. Nếu bị sưng phổi nặng, người bệnh đôi khi bị mê sảng vì lượng dưỡng khí trong máu xuống quá thấp. Định bệnh sưng phổi tương đối dễ dàng với các triệu chứng kể trên và khi nghe phổi có những tiếng kêu rít rít (rales) khi bệnh nhân thở mạnh hoặc sau khi ho. Tuy nhiên, để định bệnh chính xác cần phải chụp hình quang tuyến X. Sưng phổi sẽ làm trắng một phần của lá phổi, thường là phần dưới, đôi khi có thể thấy nước trong màng phổi. Cần thiết để định bệnh loại vi trùng gì thường phải khám đàm, nhuộm và xem dưới kính hiển vi gọi là Gram staining và sau đó cấy vi trùng và xem vi trùng chịu những loại trụ sinh nào và kháng trụ sinh nào để lựa chọn thuốc chữa cho thích họp.
Đối với những trường họp sưng phổi nặng và đối với người già hoặc bị những bệnh kinh niên khác, khi bị sưng phổi thường phải cho nhập viện và làm những thử nghiệm như đã kể trên để định bệnh và tìm loại vi trùng cho chính xác. Chữa bệnh phải dùng trụ sinh thích hợp truyền vào mạch máu, truyền nước biển vào, cho thở thêm dưỡng khí hoặc đôi khi quá nặng phải cho thở bằng máy trong vài ngày đầu.
Phần lớn những trường hợp sưng phổi nhẹ ở những người trẻ, không có bệnh kinh niên hay bị biến chứng đều có thể chữa ở phòng mạch không cần phải nhập viện nếu hình chụp quang tuyến cũng cho thấy không bị nhiều lắm. Tùy thuộc vào nghi bệnh sưng phổi do loại vi trùng nào, loại trụ sinh thích hợp sẽ được dùng. Thường dùng nhất là các trụ sinh như Erythromycin 500mg ngày 4 lần, chữa được các vi trùng thường như Streptococcus và Mycoplasma, loại vi trùng Hemophilus hiện nay kháng thuốc nhiều, phải dùng các loại mạnh như Ceclor, Augmentin, Cipro, Floxin v.v...
Vấn đề ngừa sưng phổi quan trọng nhất là giữ cho cơ thể mạnh khoẻ để hệ thống miễn nhiễm chống cự lại vi trùng đủ khả năng tiêu diệt vi trùng. Nên chích ngừa cúm nếu hay bị cúm mỗi năm vì bệnh sưng phổi thường dễ dàng đi theo sau bệnh cúm. Nếu bị những bệnh kinh niên như tiểu đường, bệnh tim, suyễn, phải chữa trị cẩn thận và uống thuốc đều đặn để tránh bệnh trở nặng. Sưng phổi dễ xảy ra hơn khi các bệnh trên không được kiểm soát chặt chẽ. Uống rượu quá nhiều hay hút thuốc lá là điều phải tránh để ngừa sưng phổi vì lý do làm suy giảm sự chóng cự lại vi trùng như đã nêu ở phần đầu.
Vấn đề quan trọng thứ nhì là một khi đã có những triệu chứng có thể do sưng phổi gây ra như nóng sốt, ho nhiều hơn, đàm đang trong trở thành đổi màu vàng, xanh.. v.v... phải đi khám và chữa trị ngay. Thường nếu chữa sớm và đúng cách, ít khi nào bệnh sưng phổi trở thành quá nặng phải nhập viện và sinh nhiều biến chứng khác.
Về vấn đề chích ngừa bệnh sưng phổi, hiện nay chỉ có một loại thuốc chích ngừa chóng lại vi trùng Pneumococcus (còn gọi là Streptococcus pneumoniae) là loại thông thường nhất. Thuốc chích ngừa này chỉ cần chích một lần trong đời, thường dùng cho các người già yếu hay bị các bệnh kinh niên như đã nói ở trên. Tương đối có hiệu quả tuy nhiên chỉ ngừa được một loại vi trùng pneumococcus và nếu bị nhiễm thứ vi trùng khác vẫn có thể bị sưng phổi do loại vi trùng đó.
Tóm lại, bệnh sưng phổi thường xảy ra ở người già yếu, tuy nhiên người trẻ, bình thường, vẫn có thể mắc phải. Bệnh nếu chữa trị sớm và đúng cách thường không nguy hiểm và với trụ sinh công hiệu sẽ khỏi sau một, hai tuần lễ. Tuy nhiên với những trường hợp nặng cần phải nhập viện và chữa trị cẩn thận để tránh những biến chứng do vi trùng xâm nhập vào máu, trong óc, gây ra hay làm kích xúc hôn mê.. v.v... có thể nguy hiểm đến mạng sống.