- 30 - Nghẹt van tim
Hỏi:
Tôi mới từ Việt Nam sang Hoa Kỳ được hơn hai tháng với chồng con theo diện HO. Ở Việt Nam tôi có đi khám bệnh vì hay bị khó thở, mệt nhất là khi đi bộ nhiều hoặc lên cầu thang, bác sĩ ở việt Nam nói tôi bị bệnh nghẹt van tim và phải sang Mỹ mới chữa được. Xin bác sĩ cho biết bệnh này ra sao? có cần phải mổ không? Nếu mổ có nguy hiểm không?
Đáp:
Bệnh của bà ở Việt Nam được chẩn đoán là bệnh nghẹt van tim, tuy nhiên cần phải khám nghiệm và làm thử nghiệm đầy đủ hơn để biết dích xác nghẹt van tim loại nào và mức độ nặng nhẹ ra sao. Vấn đề có nên mổ hay không sẽ tùy thuộc vào các yếu tố trên.
Trước hết, để hiểu về bệnh này, cần phải biết cơ cấu của tim và các loại van tim. Tim được chia ra làm bốn ngăn: hai buồng bên trái là tâm nhỉ trái và tâm thất trái. Máu từ phổi chạy về tâm nhỉ trái rồi xuống tâm thất trái và được tâm thất trái co bóp đẩy máu đi khắp cơ thể. Giữa tâm nhỉ trái và tâm thất trái là một van tim hình chóp (mitral vale). Giữa tâm thất trái và đại động mạch (ourta) là van tim đại động mạch (aortic vale)
Bệnh nghẹt tim thường xảy ra ở hai van tim quan trọng này. Phần bên phải quả tim gồm tâm nhỉ phải và tâm thất phải tương đối ít quan trọng hơn. Hai van tim phía bên phải gọi là tricuspid vale và pulmonary vale cũng có thể bị nghẹt hay hở gây ra bệnh nhưng tương đối hiếm hơn.
Bệnh của hai van tim quan trọng là van hình chóp và van đại động mạch có thể là bệnh ngẹt van tim hay hở van tim, và cả hai loại đều nguy hiểm. Nhiều trường hợp bệnh nhân bị bệnh của nhiều van khác nhau bị cả nghẹt lẫn hở van. Phần lớn bệnh về nghẹt van tim nơi người đàn bà là bệnh nghẹt van tim hình chóp (mitraltenosis) trong khi đàn ông bị nghẹt van tim hay bị nghẹt van đại động mạch (aortic stenosis), nên để trả lời câu hỏi của bà bài này sẽ nói về bệnh nghẹt van tim hình chóp.
Bệnh này hiện nay tương đối rất ít thấy ở Hoa Kỳ, tuy nhiên người Việt Nam bị bệnh này là khá nhiều. Lý do vì nghẹt van tim hình chóp (mitral stenosis) là hậu qủa của bệnh sốt thấp khớp (rheumatic fever) và bệnh thấp khớp hầu như không còn thấy tại xứ này.
Bệnh sốt thấp khớp thường thấy ở các xứ chậm tiến như Việt Nam hay xảy ra ở trẻ con trong khoảng tuổi từ 5 đén 15 tuổi, bệnh này gây sưng khớp ở nhiều khớp của chân tay, thường là đầu gối, háng, khuỷu tay v.v…kèm với sốt, nổi cục dưới da, nổi ban đôi khi làm giật chân giật tay (chorea) v.v… Tuy nhiên quan trọng nhất là bệnh sốt thấp khớp có thể chạy vào tim làm sưng van tim, có nước trong màn tim v.v… Bệnh sốt thấp khớp rheumatic fever là một phản ứng miễn nhiểm của cơ thể với vi trùng streptococcus loại A sau khi vi trùng này làm nhiễm trùng họng và bệnh nhân không được chữa trị bằng trụ sinh để tiêu diệt vi trùng này. Sau khi bị nhiễm trùng họng (pharyngitics) và không được chữa cẩn thận như phần lớn trẻ em ở Việt Nam hiện tại, một số trẻ em bị biến chứng là bệnh sốt thấp khớp nhưng vì làm viêm trong tim. Các van tim có thể bị viêm và lâu ngày van tim sẽ bị cứng lại, đóng vôi hay bị các mô sợi làm van tim không đóng mở được dễ dàng nữa gây ra nghẹt van tim hoặc hở van tim. Khoảng cách thời gian từ khi bị sưng van tim do sốt thấp khớp đến khi có triệu chứng nghẹt van tim có thể kéo dài từ 10 năm đến 20, 30 năm.
Như vậy người bị nghẹt van tim hình chóp mitral stenosis phần lớn có thể truy nguyên từ khi bị bệnh nhiểm trung cổ họng do vi trùng streptococcus lúc còn nhỏ, lúc 10 – 15 tuổi, sau đó bị bệnh sốt thấp khớp rheumatic fever và dễ bị biến chứng lâu dài là nghẹt van tim mitral stenosis này trong khi ngươi Mỹ hầu như không thấy vì tại Việt Nam bệnh nhiễm trùng cổ họng không được chữa trị cẩn thận hay không có thuốc trụ sinh để uống!
Bệnh nghẹt van tim hình chóp như vậy xảy ra từ từ, lúc đầu thường không có triệu chứng gì nếu còn nghẹt ít. Bình thường lổ hỏng của van tim hình chóp có diện tích từ 4 đén 6 cm vuông. Nếu van tim bị cứng hay đóng vôi làm nghẹt giảm diện tích xuống còn 1cm vuông. Áp suất trong tâm nhỉ trái sẽ tang lên dồn máu về phổi và gây ra triệu chứng khó thở. Đi bộ xa, leo cầu thang hoặc làm việc nặng sẽ thấy mệt, thở khó. Nhiều người khám phá ra nghẹt van tim hình chóp khi có bầu, hoặc bị nóng sốt hoặc bị thiếu máu, cơ thể đòi hỏi tim làm việc nhiều hơn và bi nghẹt van tim, máu dồn lại về phổi gây khó thở. Trường hợp nặng hơn, khi nằm cũng bị triệu chứng thở khó khăn, phải ngồi hoặc nằm ngủ phải để gối cao mới thở được. Nặng hơn nữa, có thể ho ra máu hoăc nước dồn lại trong phổi gây ra bệnh phù nước trong phổi có thể gây ra chết.
Những triệu chứng khác thường thấy là tim đập sai nhịp do tâm nhỉ trái co bóp không diều hòa gọi là atrial fibrillation. Đôi khi bị đông máu trong mạch máu phổi làm tiêu huỷ một góc của phổi gọi là pulmonary embolus. Các biến chứng khác có thể xảy ra là nhiễm trùng phổi, nhiễm trùng tim v.v…
Bệnh nghẹt van tim là một bệnh nguy hiểm vì các triệu chứng kể trên. Thường nếu không được chữa trị, từ khi có triệu chứng khó thở đến khi bị suy tim hoàn toàn và chết chỉ trong vòng từ 2 đến 5 năm.
Định bệnh nghẹt van tim hình chóp mitral stenosis tương đối khó khăn nếu không có các thử nghiệm đầy đủ như trong tình trạng của Việt Nam. Tuy nhiên tại Hoa Kỳ với các phương pháp tân tiến, việc định bệnh này trở thành dễ dàng và rất chính xác. Trước hết, việc định bệnh đầu tiên dựa vào nghe tim. Người bình thường không bệnh gì khi nghe tim chỉ nghe hai tiếng đóng van tim gọi là S1 và S2. Khi van tim hình chóp mitral valve đóng lại với nhau sẽ nghe được tiếng khép của van gọi là S1 (sound 1) sau đó máu trong tâm thất trái được đẩy đi trong một khoảng thời gian gọi là systole. Kết tiếp, van đại động mạch (aorticvalve) đóng lại tạo ra tiếng khép của van gọi lá S2 (sound 2) và sau đó tim mở ra, máu chảy từ phổi xuống tâm nhỉ trái và tâm thất trái, quảng thời gian này gọi là diastole.
Muốn chính xác hơn phải làm thử nghiệm siêu âm tim gọi là Echocardiogram và phương pháp đo lượng máu chảy qua van gọi là Doppler. Với các thử nghiệm này có thể định bệnh được bệnh nghẹt van tim và ước lượng diện tích lổ hổng của van. Chính xác hơn nữa và dung trước khi mổ tim là thử nghiệm thông tim để chụp hình và đo gọi là cardiac cathererization, phải làm trong nhà thương. Quyêt định có mổ tim hay không sẽ tùy thuộc vào kết quả của các thử nghiệm trên. Nếu diện tích của lỗ hổng van chỉ còn 1,2cm vuông và bệnh nhân có triệu chứng khó thở, mổ tim để nong van tim cho rộng ra hoặc thay hẳn van tim bằng van nhân tạo là phương pháp trị liệu bằng giải phẫu và là cách thứ duy nhất để trị bệnh này. Nguy hiểm về giải phẫu tim tuy thuộc vào cách thức mổ. Nếu chỉ cắt rộng van tim ra gọi là valvulotomy, mức tử vong chỉ ở khoảng từ 0 đến 2%. Nếu phải thay hẳn van bằng van nhân tạo, mức tử vong có thể lên đến 5 đến 8%. Tuy nhiên nếu không chữa và nghẹt tim nặng, bệnh sẽ đưa đến suy tim hoàn toàn và chết nhanh, nên nếu đủ yếu tố dựa trên các thử nghiệm, giải phẫu tim vẫn là cách tốt nhất.
Tóm lại, bệnh nghẹt van tim hình chóp là một bệnh nguy hiểm, cần phải được định bệnh chính xác với các thử nghiệm về tim. Phương pháp trị liệu là giải phẫu để mở rộng van tim hoặc thay bằng van nhân tạo nếu mức độ nghẹt của van tim quá nhiều và bệnh nhân bắt đầu có các triệu chứng do bệnh nghẹt van tim gây ra.