MƯỜI MỘT
Tảng sáng ngày hôm sau, khi bình minh vừa ló dạng trên vùng trời Điện Biên Phủ thì Đào Văn Lạt đang đi theo bên cạnh Võ Nguyên Giáp trên hành lang một trạm quan sát trên đỉnh núi cao. Như lệ thường, viên tư lệnh tối cao khó tính của Việt Minh quyết định phải duyệt xét lại một lần nữa các dữ kiện của chiến trường, Đào Văn Lạt kiên nhẫn đứng cạnh bên đó chờ đợi trong khi Giáp đưa ống dòm nhìn qua, nhìn lại khắp căn cứ đổ nát của quân Pháp bên dưới lòng chảo.
Ngay như không cần phải dùng ống dòm, Đào Văn Lạt cũng có thể thấy được bằng mắt thường là sau trận đánh bằng Pháo Binh và Bộ binh liên tục suốt đêm qua đã đưa căn cứ địa của Pháp ở bên dưới lòng chảo đó đến bên bờ sụp đổ. Hỗn loạn đã xảy ra khắp nơi. Đổ vỡ lan tràn khắp nẻo. Trận mưa buổi sáng đã làm ngập lụt hết các giao thông hào trong căn cứ. Tại các lô cốt, nước cũng tràn vào, phân nửa bị chìm dưới đất bùn vì sức phá của bộc phá. Trên nóc nhà của viên công sứ trên đồi cao, ngọn cờ đỏ sao vàng đang phất phơ trước gió và Pháp đương nhiên không còn đủ khả năng để mở cuộc phản công chiếm lại cứ điểm quan trọng gần sát với Bộ Chỉ Huy Trung ương của họ nữa. Trên dòng sông Nam Youn lúc này, Đào Văn Lạt cũng thấy dẫy đầy xác chết của hai bên đặc nghẹt. Hai bên bờ sông không còn bóng dáng xe cộ qua lại, và mặc dù các chuyến bay Dakota từ Hà Nội vẫn đến thả dù tiếp tế cho căn cứ này, nhưng từ bên trong các binh sĩ mỏi mệt và đói khát đã không còn đủ khả năng bò ra khỏi giao thông hào đầy bùn lầy để nhận đồ tiếp tế nữa. Bên ngoài Bộ Chỉ Huy Trung ương, chiếc xe Jeep cuối cùng bị cháy đen, nằm bên cạnh một hố đạn đầy nước. Trong khi đó, bên hàng tuyến của Việt Minh, các tù binh người Pháp bị bắt sống đêm hôm qua đang bị còng tay sau lưng bằng các loại dây rừng được giải tràn vào rừng sâu.
- Cuối cùng rồi chúng ta cũng có thể dành cho phái đoàn của mình tại Genève lá bài mà họ cần có phải không, thưa đồng chí Đại Tướng?
Ánh mắt của Đào Văn Lạt đầy vẻ đắc ý mà Lạt không giấu giếm được. Anh đưa mắt nhìn xuống thung lũng.
- Bây giờ thì Pháp hết đường chạy rồi.
Võ Nguyên Giáp bỏ chiếc ống dòm xuống, gật đầu.
- Vâng, giờ phút chín mùi đã tới. Rõ ràng tất cả chúng nó đều bấn loạn hết cả rồi.
Vừa nói, Võ Nguyên Giáp vừa đưa mắt nhìn lên các đám mây đang cuồn cuộn trên trời, nơi mà các phi cơ thuộc Hải Quân Pháp thỉnh thoảng bay ào xuống, đánh bom vào phòng tuyến của Việt Minh. Đào Văn Lạt nghĩ, có lẽ Tướng Giáp đang ước lượng xem các phóng pháo cơ hạng nặng của Hoa Kỳ vào phút cuối có thể can thiệp vào để cứu vãn cho Pháp hay không. Qua các tin tức báo chí Tây Phương cho biết từ mấy tuần lễ trước đây, Pháp đã cầu viện với Hoa Kỳ, nhưng cả Tổng Thống Eisenhower và các nhà lãnh đạo Quốc Hội ở Hoa Thịnh Đốn, không ai chấp thuận để các pháo đài bay ở Phi Luật Tân can thiệp vào nếu không có sự ưng thuận của Anh Quốc và Đồng Minh trong khối Thịnh Vượng Chung. Thủ Tướng Churchill đã tuyên bố là sẽ không tham dự vào vấn đề này vì sợ sẽ khơi nguồn cho một cuộc khủng hoảng lớn. Trong lúc đó, Ngoại Trưởng Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Nga và Trung Hoa đã hội họp tại Genève để bàn về việc hòa bình tại Á Châu. Trong suốt hai tuần lễ vừa qua, người ta chỉ bàn quanh về vấn đề Đại Hàn, nơi mà cuộc ký kết đình chiến được ký hồi tháng Sáu năm 1953 vừa qua, nhưng tất cả đều kết luận, không thỏa thuận về việc để cho quốc gia này bị chia đôi. Cuộc họp được đình hoãn vào ngày hôm sau 8 tháng 5 mới bàn về Đông Dương.
- Nếu như Hoa Kỳ quyết định đưa các phi cơ B29 của họ tấn công chúng ta thì thưa đồng chí Đại Tướng, tôi nghĩ họ đã làm rồi.
Đào Văn Lạt nói với giọng đoan chắc.
- Nếu họ muốn làm như vậy thì không có lý do gì họ lại đi nói chuyện với Nga Xô và Trung Cộng hết cả.
Khuôn mặt khắc khổ của Tướng Giáp nở một nụ cười như ngầm công nhận lời nói của viên Chính ủy đã giải thích hết ý nghĩ trong đầu của mình. Giáp lại đưa ống dòm lên nhìn.
- Nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài, thì căn cứ này của Pháp sẽ không còn cách nào hơn là chịu đầu hàng.
Võ Nguyên Giáp cất tiếng nói như đọc hết ý nghĩ của mình ra.
- Nhưng các đơn vị khác của họ có thể mở đường máu.
Giáp đưa mắt nhìn thật kỹ bên dưới căn cứ một lần nữa. Bỗng ông ta nhíu mày suy nghĩ một thoáng rồi đặt chiếc ống dòm vào bao và quay lưng vội vã bước đi. Giáp ra lệnh quyết định.
- Lệnh của tôi là phải bám sát địch. Đồng chí hãy truyền lệnh này cho các Chính ủy trực thuộc ngay. Cho họ biết rằng cuộc bao vây phải được giữ cho thật chặt chẽ rồi siết dần lại mà tiêu diệt cho kỳ hết bọn chúng, không chừa một tên nào thoát hết cả..
- Tôi rất hân hạnh được thi hành lệnh tối hậu này.
Gương mặt của Đào Văn Lạt thoáng nở một nụ cười đầy hân hoan. Hai người cùng bước vào Bộ chỉ huy, được đặt bên trong một hang đá, gần một thác nước.
- Thưa đồng chí Đại Tướng, tôi đã chờ đợi ròng rã hai mươi bốn năm trường để thấy được ngày hôm nay. Kể từ ngày bị ăn bom của Pháp ở Vinh, trong thời gian đăng đẳng vừa qua, cứ mỗi lần nghe chán nản, tôi phải nhắm mắt để hình dung đến cái cảnh tượng hãi hùng mà người Pháp đã dã man dội bom xuống đoàn người biểu tình của chúng ta. Tôi không bao giờ quên được những khuôn mặt hãi hùng, gào thét đau đớn của dân lành lúc đó suốt cuộc đời của tôi.
Giáp đứng lại, đưa tay đặt lên vai Lạt.
- Vào lúc này đây, mọi người trong quân đội của chúng ta có lẽ ai cũng đang mơ tưởng tới việc oán hờn ngày xưa và đang thỏa mãn được những uất hận cũ. Nhà tôi đã bị chết trong khám đường của Pháp, đồng chí còn nhớ chứ?
Đào Văn Lạt đưa mắt nhìn viên Tư lệnh Quân Đội Việt Minh, thắc mắc không biết ông ta còn có điều gì đau đớn hơn nữa, mà ông chưa có dịp nói ra?
- Có lẽ những sự hy sinh sẽ không làm sao tránh khỏi được, một khi mình muốn dốc lòng cho chính nghĩa, như tất cả mọi người trong chúng ta ở đây.
Đào Văn Lạt cất tiếng cười cởi mở.
- Hồi còn trẻ, tôi đã chọn một con đường sai lầm. Chủ Tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên làm cho tôi biết được con đường sai lạc đó của mình. Nhưng tất cả những năm dài gian khổ giờ đã có kết quả tại Điện Biên Phủ này rồi.
Giáp gật đầu đồng ý với tình cảm của Lạt, nhưng vẫn không bình phẩm gì.
- Nhưng sau cùng thì một sự chọn lựa lầm đường cũng giúp được cho chúng ta tìm được sự hiểu biết nhau hoàn toàn hơn. Điều này đã dạy cho tôi một điều quan trọng thấm thìa vô cùng.
Lạt mỉm cười đầy ân hận, đưa ra một gói giấy mà Lạt cầm trên tay từ nãy đến giờ.
- Tôi xin lỗi đồng chí Đại Tướng vì đã phải lợi dụng một chiếc xe đạp của chúng ta để chở một cái máy hát từ Hà Nội ra đây, nhưng tôi nghĩ, đồng chí Đại Tướng sẽ không trách cứ gì việc này.
Gương mặt của Võ Nguyên Giáp khựng lại với vẻ không kiên nhẫn được nữa.
- Đó là cái gì vậy đồng chí Lạt?
- Đây là cái đĩa hát Chants des Partisans mà theo tôi nghĩ, chúng ta nên cho phát thanh trên làn sóng điện vô tuyến của địch trước khi mình cho xung trận cuối cùng này.
Gương mặt Võ Nguyên Giáp thoáng một nụ cười khâm phục, trong khi đó Đào Văn Lạt tiếp tục nói.
- Bài hát nói về lòng lang dạ sói của quân ngoại xâm, một đàn quạ đen, bay khắp cùng đất nước, kêu gọi toàn dân đứng lên đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi. Đồng chí Đại Tướng còn nhớ chứ?
Giáp gật đầu, bài hát này là bài hát của kháng chiến quân, đã được coi như bài hát cộng đồng, bình dân ở Pháp trong những tháng cuối cùng của cuộc thế chiến thứ hai, được phổ biến như một bài quốc ca mà kháng chiến quân Pháp đã dùng trong thời gian chống lại Đức Quốc xã. Giáp đưa tay nhìn đồng hồ, viên Tư lệnh Quân Đội Nhân Dân quyết định.
- Nửa tiếng đồng hồ nữa hãy cho phát thanh bài hát này xuống bên dưới thung lũng, coi như đó là lệnh tấn công cuối cùng của chúng ta.
Ba mươi phút sau đó, Đào Văn Lạt ngồi trước một chiếc máy truyền tin nhỏ, chăm chú theo dõi người chuyên viên truyền tin đang cố dò tầng số của Bộ chỉ huy Pháp bên dưới căn cứ. Khi đâu đó xong xuôi, Đào Văn Lạt đứng lên để chiếc dĩa hát vào máy, đồng thời cầm lấy ông liên hợp. Đào Văn Lạt cất giọng từ tốn bằng Pháp ngữ.
- Hỡi các con, hãy khoan tiêu hủy các máy truyền tin của mình vội. Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn dành cho các con một hợp khúc nhún nhường: Bài kháng chiến ca.
Bên dưới các căn hầm dột nát, ẩm nước và các lô cốt còn lại trong cái căn cứ tan hoang dưới lòng chảo Điện Biên Phủ, các binh sĩ Nhảy dù và Lê Dương của Pháp bắt đầu nghe một giọng đàn bà cất tiếng hát qua các máy truyền tin của họ. Giọng hát có tiếng đàn lục huyền cầm đệm theo.
- Hỡi các chiến hữu, Tự Do đang chờ chúng ta lúc này đây.
Chiếc máy hát cũ kỹ đưa chiếc dĩa quay đều đặn. Đào Văn Lạt mỉm cười với người lính truyền tin.
- Đồng chí hãy cho quay đi, quay lại trên tầng số này cho đến khi xong trận đánh rồi hẳn thôi.
Đào Văn Lạt định bước ra khỏi phòng truyền tin thì điện thoại reo. Lạt đưa ống liên hợp lên tai thì nhận ra người đang nói chuyện với mình là viên Chính ủy Trung đoàn 59, một trong số các Chính ủy mà Lạt đã truyền lệnh của Tướng Giáp về cuộc tấn công tối hậu cách đây không lâu.
- Thưa đồng chí Chính ủy, tôi xin được phép trình với đồng chí Chính ủy một thỉnh cầu của người Đại đội trưởng trong đơn vị của tôi. Người Đại đội trưởng này muốn xin tình nguyện được lãnh trách nhiệm cắm ngọn cờ của chúng ta lên nóc pháo đài chỉ huy của địch, nếu như đồng chí có ý định thành lập một đội xung kích đặc biệt.
- Vâng, chúng ta đang lập một đội tình nguyện. Tên của người Đại đội trưởng đó là gì?
- Tôi nghĩ rằng đồng chí Chính ủy có biết anh ta.
Viên Chính ủy Trung đoàn 59 đáp.
- Anh ấy và Đại đội của anh ta đã kéo khẩu súng sau cùng lên chóp núi với thời gian kỷ lục đó. Tên của đồng chí ấy là Ngô Văn Đồng.
Lạt đáp không ngập ngừng.
- Vâng, tôi biết đồng chí Đồng là một chiến sĩ lừng danh và can đảm vô cùng. Đồng chí ấy đáng được tham dự vào cái danh dự này.