MƯỜI HAI
Trong căn phòng của mình bên dưới lòng chảo Điện Biên Phủ Đại Tá Paul Devraux ngồi nhìn trân trối vào tấm chiếu che vách tường trước mặt mình. Mặc dù Paul đã cố gắng không màng để ý tới giọng hát nghe rờn rợn của một người nữ ca sĩ Pháp đang léo nhéo bài Kháng Chiến Ca trên tầng số liên lạc của Bộ Chỉ Huy, anh vẫn không làm sao tập trung được hết tinh thần vào công việc để hoàn tất các bản báo cáo về tình hình địch cho buổi sáng hôm nay. Gương mặt nhễ nhại mồ hôi của Paul trông thật tiều tụy và đầy vẻ mệt mỏi. Ngồi thừ trên ghế thỉnh thoảng Paul đưa tay sờ lên làn vải băng ngang vết thương trên đầu của mình.
“Rồi đây quân thù sẽ sớm biết được giá trị của máu và nước mắt của chủng ta. Các bạn hãy đứng lên, từ các thành thị hoang tàn đến các vùng rừng núi xa xôi, các bạn hãy đứng lên… Tự do đang chờ đón chúng ta đêm nay.’’
Qua sự liên lạc với các cấp chỉ huy còn lại chung quanh đây, Paul biết bài hát đầy xúc động này đang nhắm vào việc làm lung lạc tinh thần của các binh sĩ trong trại. Tại các hầm trú ẩn, tại các giao thông hào, các binh sĩ Nhảy dù và lính Lê Dương mệt mỏi đã bắt đầu cất tiếng hát một cách say mê theo tiếng hát xuất phát từ các máy truyền tin của đơn vị. Bên dưới các ngọn đồi vùng căn cứ Elaine, tiếng hát dìu dặt này đã thu hút hầu hết các binh sĩ trú phòng, trong khi đó Việt Minh lại bắt đầu cuộc xung phong mới vào các giao thông hào và các lô cốt dưới cơn mưa mùa như thác đổ. Mặc dù binh sĩ trú phòng đã chống cự một cách hăng say, nhưng từng chốt nhỏ lần lượt bị tràn ngập, đến nỗi toàn thể khu vực phòng thủ giờ đây chỉ còn thu gọn nhỏ lại một vùng không lớn hơn một sân banh dã cầu.
Một hồi chuông điện thoại vang lên trên bàn làm việc của Paul. Anh nhìn vội xuống đồng hồ đeo tay mới biết bây giờ đã mười giờ sáng. Để mặc cho chiếc điện thoại reo vang, Paul vội vã ôm chồng giấy tờ trên bàn, chạy ra giao thông hào, tiến về phía bộ chỉ huy Trung ương. Tại đây một tấm bảng tên mới được gắn trên một cây cột, dựng bên ngoài hầm làm việc, cho thấy Đại Tá De Castrie đã được vinh thăng Thiếu Tướng. Cũng như tất cả các sĩ quan ở đây, Paul cũng được vinh thăng Đại Tá cách đây mấy ngày do quyết định của Hà Nội. Một điều đáng nói là trong khi Hà Nội cho thả dù các cấp bậc mới cho những người được thăng cấp cùng với những chai rượu để uống mừng các sự vinh thăng này, tất cả đều bị rơi ra ngoài vòng kiểm soát của trú phòng. Từ ngoài cửa, Paul bây giờ là Đại Tá, thấy Tướng De Castrie ngồi bất động bên sau bàn làm việc của mình, trên miệng đang phì phèo điếu thuốc lá đang cháy dở. Trên đầu De Castrie đội một cái nón có viền băng đỏ, biểu hiệu của trung đoàn Maroc mà ông từng chỉ huy. Trên người ông mặc một bộ Khaki màu vàng lợt. De Castrie chào viên Tham Mưu Trưởng của mình bằng một cái gật đầu nhẹ. Paul bắt đầu báo cáo tình hình địch.
- Địch hiện đang cho tung Sư đoàn 312 và 316 vào cạnh sườn hướng Đông của chúng ta với sự tăng cường của hai Trung đoàn thuộc Sư đoàn 308. Bên hướng Tây thì chúng chỉ sử dụng một Trung đoàn. Nói chung thì địch đang sử dụng khoảng ba mươi lăm ngàn quân để tấn công chúng ta. Pháo binh của địch hiện vẫn là mục tiêu cho phi cơ của chúng ta, trong khi đó tin tức thu thập được còn cho biết chắc chắn địch đang thiết kế nhiều hỏa tiễn nhiều nòng và sẽ sử dụng loại vũ khí mới này để đè bẹp chúng ta.
- Còn lực lượng bên ta như thế nào?
Giọng nói của De Castrie đầy vẻ thối chí.
- Nếu tính cả quân số còn dùng được thì quân số của chúng ta ở đây lúc này ra sao?
- Chúng ta chỉ còn tối đa chừng bốn ngàn quân có thể chiến đấu được.
Paul ngừng nói, đưa tay gạt mồ hôi trên trán, vết thương trên đầu bỗng dưng trở cơn đau, thỉnh thoảng Paul không còn nhìn được những sự vật chung quanh mình rõ ràng như bình thường. Paul nói tiếp.
- Nhưng ngay cả binh sĩ Nhảy dù và lính Lê Dương thiện chiến của chúng ta có tài ba cách mấy đi nữa, họ cũng không làm sao cầm cự được lâu thêm nữa vì thiếu lương thực và thiếu ngủ. Ba Đại đội khinh binh Ma Rốc có lẽ đã buông súng, ngay cả các đơn vị thiểu số Thái cũng ở vào tình cảnh đó. Chỉ riêng có đơn vị Nhảy dù Việt Nam thì họ còn chống cự hết mực. Tiểu đoàn 1 và 2 Nhảy dù Lê Dương, mỗi tiểu đoàn chỉ còn lại có hai Đại đội. Tiểu đoàn 8 xung phong Dù cũng chỉ còn có hai Đại đội mà thôi.
De Castrie vẫy tay cho Paul ngừng nói, đồng thời ra hiệu cho anh để đống giấy tờ lên bàn để ông sẽ tự mình đọc lấy sau này.
- Bằng mọi giá, chúng ta phải giữ cho kỳ được bờ sông hướng Tây, bằng không chúng ta sẽ không có nước và lương thực để mà đánh đấm gì nữa cả. Đơn vị nào có khả năng cầm cự phải chuẩn bị cuộc tấn công tối nay của địch ở hướng đó.
- Thưa Thiếu Tướng, tôi nghĩ là quân ta không còn đủ mạnh để mở đường máu chạy vô rừng, ngay như việc cầm cự từ giờ cho đến tối cũng chưa chắc.
Paul lại nghe cơn choáng váng chạy rần trong đầu, anh bước tới, vịn vào thành bàn nói tiếp.
- Trình với Thiếu Tướng là mới đây có ba cái chốt kháng cự tại cứ điểm Elaine đã bị thất thủ.
De Castrie đưa mắt nhìn lên mặt viên Tham Mưu Trưởng của mình.
- Toa cũng không được khỏe phải không?
Trước mặt Paul, gương mặt của De Castrie nhạt nhòa. Paul lúc lắc đầu để lấy lại thăng bằng.
- Cũng như mọi người, tôi vì thiếu ngủ một ít thôi.
De Castrie cất giọng nhỏ nhẹ.
- Moa xem chừng toa không chỉ có vậy thôi đâu, trông như toa đang bị lên cơn sốt. Toa hãy trở về và ráng ngủ chừng một tiếng đồng hồ đi, moa sẽ cho người đánh thức toa dậy, nếu như tình hình bất ổn xảy ra.
Trở về căn hầm của mình, Paul nằm vật lên ghế bố, đắp lại tấm mền trên người, toàn thân anh run lẩy bẩy, một chập sau Paul chập chờn như lên cơn say. Trong cơn nửa mê, nửa tỉnh bất thường này, cái ý tưởng mà anh cố gắng quên đi kể từ khi Joseph rời khỏi nơi này cứ chờn vờn trong đầu óc mình. Được có thì giờ rảnh rỗi lần đầu tiên trong suốt tám tuần lễ bị căng thẳng trong tình cảnh bị bao vây. Cái ý nghĩ về sự đau đớn đầy tuyệt vọng đã đẩy đưa anh đến bên bờ sắp giết người, sau khi nghe Joseph thú nhận sự thật, chính sự kiện này đã hành hạ anh không ít. Mặc dù tình chồng vợ giữa anh và Lan có vẻ lạnh nhạt, nhưng sự phản bội của nàng với một người mà xưa rày anh vẫn coi như thân thiết nhất đã làm anh bàng hoàng đến tột cùng. Cơn bùng nổ giận dữ lúc đầu đã nhường bước cho sự đau khổ, u sầu thê thảm.
Cái hình ảnh mà Lan và Joseph lén lút gặp nhau ám ảnh và hành hạ anh ngày đêm, tưởng chừng như không làm sao còn chịu đựng nổi. Bây giờ trong giấc ngủ chập chờn cộng thêm cơn sốt đang hành tác, Paul lại mơ thấy bạn và vợ hẹn hò nhau. Lan và Joseph cùng trần truồng nồng nhiệt bên nhau càng làm Paul thêm thống khổ. Mấy ngày qua Paul bị cơn thống khổ này đè nặng tâm tư với ý nghĩ về một tương lai mờ mịt và sự thua thiệt hiển nhiên về phía mình. Paul đã thay đổi rất nhiều, anh không còn màng tới mạng sống của mình nữa. Trong căn cứ lúc này số thương vong của sĩ quan càng lúc càng lên cao. Paul đã tình nguyện dẫn binh sĩ tấn công chiếm lại Huguette. Chính thái độ bất cần can đảm này đã làm cho đơn vị mà Paul chỉ huy đã thành công bất ngờ trong việc đánh lại các đơn vị Việt Minh giữa cơn sóng trào của địch quân. Các cuộc chiến thắng này đã đem lại cho Paul niềm tin tưởng vào khả năng của chính mình và anh nghĩ là anh có thể tạo lập lại một đời sống khác. Từ đó một quyết định lỳ lợm mới được nhen nhúm lên trong lòng. Paul đã quyết định dù tình thế ra sao đi nữa, anh cũng phải giữ được sống còn để trở lại Sài Gòn, để chính mình sẽ đối chứng với Lan về Joseph và sẽ chứng minh với Lan rằng với anh, Lan vẫn có thể cùng sống chung trong hạnh phúc tốt đẹp như thường, dù phải sống ở Pháp. Nếu Paul có thể cứu vãn được tình nghĩa vợ chồng qua được khỏi cuộc chiến này, là anh sẽ có đủ khả năng để sửa đổi lại những sai lầm từ đầu trong cuộc sống lứa đôi của mình.
Paul đã an toàn trong các trận đánh vừa qua, nhưng vết thương trên đầu của anh càng lúc càng hành tác anh không ít. Các bác sĩ y khoa đã khám phá ra trước đây người ta đã không tìm ra trong sọ của anh có một mảnh vụn của lựu đạn ghim vào đó. Ngay sau khi người ta gắp miếng miểng đó ra, Paul vẫn tiếp tục bị nhức đầu thường xuyên, nhưng với quyết tâm phải sống còn để thực thi kế hoạch trù liệu của mình, Paul đã cố giấu tất cả mọi người chung quanh đây sự đau đớn mà mình phải gánh chịu.
Kể từ khi cái nhà thương dã chiến tại căn cứ này tràn ngập vô số thương bịnh binh, các y sĩ đã mệt nhoài vì công vụ ngày đêm, nên không còn ai để có thể thay thế chức vụ của anh, nên Paul vẫn phải tiếp tục nhận lãnh chức vụ Tham mưu trưởng tại nơi này. Cơn sốt lại hành hạ Paul cách đây hai ngày. Với các báo cáo dồn dập, ngập đầu hàng ngày, Paul lại bị đưa vào cái cảnh tuyệt vọng mới, anh cố hết mình để xua đuổi các nỗi tuyệt vọng, nhưng ngay lúc này đây, nằm run rẩy dưới tấm chăn đơn, Paul biết mình hết phương chống cự các đổ vỡ trước mặt. Giọng hát của người nữ ca sĩ Pháp cứ mãi lặp đi lặp lại:
“Đàn quạ đen bay phủ cả bầu trời, và đất mẹ đang vùng lên từng hồi. ’’
Paul bắt đầu nghe toàn thể căn hầm của mình dầy đặc tiếng vỗ cánh của đàn quạ và chát chúa bên tai những va chạm của vòng dây xích sắt. Kịp lúc nghe có một bàn tay nắm lấy vai mình lắc nhẹ, Paul chợt thét lên hãi hùng rồi ngồi bật dậy. Viên sĩ quan phụ tá nói nhỏ:
- Thưa Đại Tá, đã hơn ba giờ chiều rồi, Việt Minh đã bắt đầu vượt sông và Thiếu Tướng De Castrie cho gọi gấp các sĩ quan cao cấp đến họp.
Paul cất tiếng cám ơn người sĩ quan phụ tá, đoạn vội vàng khoác nước lên rửa mặt trước khi quờ quạng chun ra khỏi căn hầm đến dự phiên họp tại Bộ chỉ huy Trung ương. Tại căn hầm, nơi mà cuộc họp đang diễn ra, tiếng đại bác vẫn liên tục nổ liên hồi làm rung chuyển cả mặt đất, khiến cho cuộc họp không được diễn tiến trôi chảy theo ý muốn, nhứt là những lời bàn cãi không nghe được rõ ràng cho lắm, nhưng nhìn vào những khuôn mặt đầy mệt mỏi và thối chí của các sĩ quan đang hiện diện tại nơi này ngay khi vừa bước vào đây, Paul cũng đã hiểu được là tình hình hiện tại đã vô cùng trầm trọng. Đại Tá Langlais cất tiếng chua chát:
- Chúng ta không còn phương cách nào khác nữa. Các vị trí chính yếu này sẽ không còn chống giữ nổi trước khi tối trời ngày hôm nay. Những người bị thương và các đơn vị đã hết đạn sẽ bị tàn sát nếu như chúng ta không cho địch quân biết ngay là chúng ta không có ý định chống cự nữa.
Paul đưa tay áo lên lau mặt và lắng tai nghe mọi người bàn luận. Loáng thoáng hiểu được sự bại trận sẽ xảy ra sắp tới đây, và khi cuộc họp chấm dứt, Tướng De Castrie ra hiệu cho Paul ở lại. De Castrie hỏi với giọng đầy đau khổ.
- Bây giờ toa đã khỏe đủ để lo công việc cuối cùng này không?
Paul gật đầu:
- Tốt, vậy toa về truyền lệnh ngay cho các đơn vị là lệnh của Tổng Tư Lệnh căn cứ Điện Biên Phủ, cuộc ngưng bắn sẽ bắt đầu có hiệu lực kể từ năm giờ chiều hôm nay, ngày 7 tháng 5 năm 1954. Tất cả các quân dụng và tiếp liệu phải được phá hủy trước giờ nói trên để không bị lọt vào tay địch. Có vậy thôi.
Paul đứng lên, đưa tay chào theo quân cách lần sau cùng với vị chỉ huy của mình, nhưng Tướng De Casttie, với đôi kính râm mà ông đeo trong suốt thời gian của buổi họp, lúc này mặt mày trắng bệch, vội vàng quay đi nơi khác không buồn nhìn đến phần quân phong của thuộc cấp. Paul vội vã chui ra khỏi hầm. Vừa quay người bước đi thì De Castrie cất tiếng nói thật nhỏ.
- Nhớ đừng quên đốt cả cái mũ đỏ của toa trước khi chúng tới đây nghe. Ai nấy đều nên làm như vậy để may ra còn sống sót được. Việt Minh chúng có lý do để không ưa tụi Dù mình đâu.
Trước khi thật sự rời khỏi căn hầm chỉ huy, Paul quay lại nhìn De Castrie một lần nữa, nhưng Paul đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy viên Chỉ Huy Trưởng vẫn không quay người nhìn lại. Paul lặng lẽ cắm đầu chạy về hầm của mình. Sau một cơn ngủ dài, Paul nghe tỉnh hẳn người ra, nhưng khi trở về đây và sau khi ra lệnh cho các đơn vị hiện còn đang cầm cự những chỉ thị của Bộ chỉ huy thì toàn thân của anh bỗng run lên cầm cập, người vã mồ hôi như tắm. Anh cố gắng tập trung vào việc thiêu hủy các giấy tờ trên bàn và bắt gặp trên đó bản tuyên dương công trạng mà Hà Nội đã gởi ra để tuyên dương cho toàn thể căn cứ huy chương Chiến công bội tinh cách đây mười ngày. Paul đưa mắt đọc vội các dòng chữ: “Lòng dũng cảm của họ mãi mãi sẽ là tấm gương sáng muốn đời”. Paul không đọc được tiếp những dòng chữ sau đó vì mắt anh hoa lên, những hàng chữ trên bản tuyên dương nhảy múa rối loạn. Paul bực mình đưa tay vò nát tờ giấy rồi lẩm bẩm chửi rủa.
Bài kháng chiến ca vẫn tiếp tục réo rắc trên các máy truyền tin lúc này thỉnh thoảng bị ngắt quãng bởi các giọng nói đầy tuyệt vọng của các binh sĩ Nhảy Dù và Lê Dương đang cho biết là họ sẽ phá hủy súng ống và máy truyền tin vì hiện địch đang tiến vào vị trí bố phòng của họ. Vũ khí cá nhân được nhận sâu xuống đất sình hoặc được bắn để cho bể nòng. Lưu đạn lân tinh được ném vào các nòng súng thiết giáp và đại bác để địch không còn sử dụng được. Các báo cáo từ các cứ điểm khác cho biết, Việt Minh đang bắt đầu vượt sông Nam Youn với một lực lượng vô vùng đông đảo trong khi đó các binh sĩ Maroc và Algérie đã đào ngũ, chui trốn trong các hang hốc dọc theo bờ sông trước đây, hiện đang dùng các mảnh vải trắng xé ra từ các cánh dù tiếp tế, phất cao đầu hàng.
Paul lặng lẽ theo dõi nghe các báo cáo dồn dập, hai tay anh nắm chặt lại rồi thả ra, sau cùng Paul vội xốc các đống giấy tờ trên bàn cho đến khi anh tìm được một tấm bản đồ nhỏ của phần tây bắc Bắc Việt, bản đồ ghi rõ một vùng núi đá vôi chạy dài qua tận biên giới Lào. Paul xếp gọn tấm bản đồ lại, đưa tay tháo vội chiếc giày trận, cẩn thận quấn tấm bản đồ bên trong làn vớ rồi cột lại dây, anh đưa tay chụp vội chiếc la bàn nhỏ, nhét vào một chân giày khác.
Nỗ lực để làm các công việc vừa rồi, khiến Paul bị một cơn xây xẩm chụp xuống, anh ngồi phịch xuống ghế một lúc, chờ cho cơn chóng mặt qua đi. Vẫn còn bị run từng chập, nhưng Paul cố dồn hết tất cả nỗ lực, đem đốt hết các giấy tờ của mình trong một chiếc cà mèn. Ngọn lửa bùng lên khi Paul đưa chồng thơ của Lan vào từng tờ một. Nhìn những tờ thơ bùng cháy, Paul điềm nhiên làm công việc này, bỗng anh đưa mắt nhìn vào khuôn mặt đẹp đẽ và đang tươi cười của vợ một thoáng rồi đưa bức ảnh vào ngọn lửa. Ngọn lửa trong chiếc cà mèn vừa sắp tắt thì Paul bỗng thấy chiếc mũ đỏ của mình vẫn còn nằm trên bàn cạnh đó. Anh đưa tay cầm lấy chiếc mũ, lòng bồi hồi chợt nhớ đến những thời liệt oanh của mình, nhưng Paul không suy nghĩ thêm nhiều nữa, anh thẳng người lên, đưa chiếc nón đội lại ngay ngắn lên đầu, sửa lại cho đúng vị thế ngang tàng mà anh thường đội.
Bên ngoài bỗng có nhiều tiếng kêu thất thanh vang lên.
- Tụi nó tới rồi.
Và sau đó là các tràng đạn nổ vang, ngay lúc đó thì trên nắp hầm của Paul cũng vang thình thịch tiếng chân dép Bình Trị Thiên. Paul đưa tay rút vội khẩu súng lục đeo bên mình, bước đến chiếc máy truyền tin và chĩa súng vào đó bóp cò, trút hết băng đạn vào chiếc máy trước khi đập vỡ báng súng.
Cùng lúc này trên mặt đất, Ngô Văn Đồng cùng đám binh sĩ trẻ đang chạy về phía căn hầm chỉ huy Trung ương, bên nách Đồng có kẹp theo một ngọn cờ đỏ sao vàng, khẩu tiểu liên Nga với băng đạn cong được choàng qua cổ, lửng lơ trước ngực. Đồng ghìm chặt khẩu súng trên tay, nhảy lên nóc các pháo đài chất đầy bao cát. Đồng cắm mạnh ngọn cờ và nhận sâu xuống bên dưới các làn bao cát trong lúc binh sĩ Việt Minh khác vội vàng đem gạch, đá tấn thêm bên dưới cột cờ cho khỏi bị ngã. Khi ngọn cờ đã được cắm chặt, ba người lính được để lại đó canh chừng. Viên Đại Úy chỉ huy tiểu đội đặc biệt này dẫn Đồng và các binh sĩ còn lại chạy vào cửa hầm dẫn đến Trung Tâm Chỉ Huy. Khi đám Việt Minh tung cửa, bước vào bên trong, Thiếu Tướng Christian Marie Ferdinand De La Croix De Castrie đã đứng đó chờ họ từ lúc nào trong bộ quân phục sạch sẽ với các chùm huy chương đầy trên ngực áo. Vụt thấy các mũi súng chĩa vào người mình, ông ta vội lên tiếng.
- Đừng bắn.
Một lúc sau, Tướng De Castrie được điệu ra khỏi căn hầm giữa sự xô lấn của đám binh sĩ Việt Minh, trong số đó không có Ngô Văn Đồng. Ở lại một mình trong căn hầm chỉ huy, Đồng chụp lấy một viên Trung úy người Pháp, chĩa mũi súng bắt buộc anh ta đứng lại với mình và chờ cho ai nấy đều bước đi khỏi nơi này, Đồng mới cất tiếng hỏi.
- Tham mưu trưởng Devraux ở đâu? Phòng làm việc của nó ở đâu?
Viên Trung úy người Pháp không nói một tiếng nào. Y đưa tay chỉ về hướng giao thông hào dẫn tới căn hầm của Paul. Đồng rút một trái lựu đạn trên dây lưng đạn của mình rồi bỏ chạy.
Bên trong hầm của mình, Paul đứng xiêu lệch bên cạnh chiếc máy truyền tin bể nát, cố kềm hãm cơn xây xẩm trong người. Kịp khi nghe có tiếng chân người bên ngoài cửa hầm. Paul ngẩng đầu nhìn lên. Trước mặt anh một người cán binh Cộng Sản, đầu đội nón cối có gắn ở giữa một phù hiệu ngôi sao đỏ. Phần Ngô Văn Đồng, anh cũng chưng hửng trước vẻ tiều tụy, mệt mỏi của viên sĩ quan người Pháp với miếng vải băng bẩn thỉu trên đầu. Đồng bước vào bên trong, tay cầm quả lựu đạn, anh nhận ngay ra Paul Devreaux, và mặc dù đã hai ngày qua, Paul không tắm rửa được gì, nhưng anh vẫn còn mang đầy vẻ già dặn của cha mình. Ngô Văn Đồng hít một hơi thở dài.
- Devreaux, ông đã bị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam bắt. Bây giờ ông phải nghe lệnh tôi.
Paul chau mày cố nhìn cho rõ gương mặt của người cán binh Cộng Sản trước mặt mình. Khi nhận ra được người đó là ai, Paul lắc đầu đầy bối rối.
- Ai gửi anh tới đây Đồng?
Vóc dáng Ngô Văn Đồng vụt co rút lại.
- Cha tôi, mẹ tôi, em Học tôi đã đưa tôi tới đây. Hãy quỳ xuống, tao sẽ giết mày.
Bên ngoài vùng trời Điện Biên Phủ bỗng dưng đâu đó im lặng như tờ, sự im lặng có được từ hai ngày qua. Paul với cơn đau đang hành hạ, anh không biết những điều đang xảy ra trước mặt mình có phải là ảo tưởng hay không. Anh nghe mình không còn đứng vững nữa, anh với tay vịn lấy một thành ghế để khỏi ngã, Paul thều thào:
- Anh đã thắng trận này, Đồng, anh đáng được hưởng vinh quang, từng đó chưa đủ cho anh sao?
- Đối với cái chết của toàn thể gia đình tao thì không có gì đủ hết cả. Hãy quỳ xuống mau.
Paul bỏ tay vịn trên đà hầm và bắt đầu quờ quạng tiến về phía Đồng đang đứng, hai tay buông thõng khi bước đi.
- Cuộc chém giết đã chấm dứt rồi Đồng, bây giờ là lúc chúng ta bắt đầu dọn dẹp các đổ vỡ này. Tôi bây giờ là tù binh của anh, nhưng rồi tôi cũng sẽ gia nhập với các tù binh khác.
Ngô Văn Đồng lúc bấy giờ bị du vào một tình thế vô cùng bấn loạn, kịp thấy Paul đang bước về hướng mình, Đồng vội đứng tránh qua một bên. Paul vượt ngang qua chỗ Đồng đang đứng rồi tiến thẳng ra miệng hầm. Đồng cất tiếng gọi người sĩ quan Pháp thật lớn, buộc Paul dừng lại, nhưng Paul không màng bận tâm đến. Ngô Văn Dồng siết mạnh cò súng, gương mặt anh hằn lên vẻ đau đớn tột cùng.
Một tràng đạn nổ giòn thật lâu. Paul ngã chúi người vào vách đất rồi quy hẳn xuống, gương mặt anh cắm thẳng xuống đống bùn lầy bên dưới, thân thể anh nằm yên bất động.