← Quay lại trang sách

MƯỜI BA

Bây giờ là thứ sáu đầu tiên của tháng bảy năm 1954. Joseph đang ngồi dùng điểm tâm trên khách sạn Continental Palace tại Sài Gòn. Anh cố kiên nhẫn để khỏi phải nhìn vào đồng hồ tay. Thường thì những chậu kiểng xinh xắn cũng như những tượng điêu khắc được chưng bày giữa các dãy bàn lúc nào cũng trông thật hào nhoáng và đẹp đẽ, nhưng đêm qua Joseph đã trằn trọc suốt đêm trên phòng mình đến gần sáng mới chợp mắt được một chút, cho nên sáng nay Joseph đã dậy thật trễ và bây giờ lòng anh bồn chồn vô cùng, không còn chủ tâm về bất cứ vấn đề nào nữa được.

Khi người hầu bàn bước đến, Joseph gọi bánh ngọt bọc dâu và cà phê như thường lệ, nhưng lúc thức ăn được mang đến thì Joseph lại thẫn thờ nhớ đến những vườn dâu trên vùng cao nguyên Lang Biang và bỗng dưng anh không còn muốn ăn nữa. Joseph nghĩ đến khoảng thời gian mà anh và Lan gần gũi nhau tại Đà Lạt, dù chỉ mới ba tháng qua, nhưng anh lại tưởng chừng như đã lâu lắm rồi. Bây giờ thì giờ hẹn với Lan đã sắp qua hết, anh chợt liên tưởng đến những rắc rối có thể xảy ra, nghĩ đến việc mình sẽ không biết phải làm gì và sẽ đối phó ra sao nếu như đời sông của anh rồi đây không có Lan bên cạnh như ý muốn và không hiểu sao tự dưng anh lại có cái linh cảm sợ sệt, nếu như Lan từ chối không chịu lấy anh.

Ngay từ khi trận Điện Biên Phủ còn đang tiếp diễn thì anh và Lan đã cùng thỏa thuận sẽ gặp lại nhau sau khi trận chiến ở đó kết thúc, và Joseph phải đợi suốt một tháng dài, cố gắng không tìm gặp Lan cho đến khi được tin Paul chết ngay vào ngày Điện Biên Phủ thất thủ. Joseph cũng biết rằng, theo phong tục của người Việt Nam thì Lan cần phải có một thời gian để cư tang chồng trước khi nàng có thể tái giá. Lan đã hứa vơi Joseph, là nàng sẽ cho Joseph biết quyết định của mình vào đầu tháng bảy tới đây. Chiều hôm sau, Joseph đã đáp máy bay từ Hồng Kông trở lại Sài Gòn để gặp Lan, bỏ mặc Tempe mặt mày tái mét vì giận dữ, ở lại lặng lẽ thu xếp hành trang để trở về Baltimore.

Mặc dù đang giận run người trước đòi hỏi bất ngờ của chồng khi nghe Joseph xin ly dị với mình, Tempe đã tự chế được lòng mình, và chính vì sự dễ dãi cũng như sự im lặng của vợ để Joseph có thể phủi tay dễ dàng đã làm cho anh càng thêm bứt rứt và tức giận trước mặc cảm tội lỗi của mình, một thứ mặc cảm từng hành hạ và dày vò anh liên tục kể từ ngày anh rời Điện Biên Phủ lần sau cùng. Suốt mấy ngày liền sau khi rời khỏi căn cứ đổ nát này, Joseph đã không làm sao xua đuổi được trong tâm khảm mình cái hình ảnh Paul đứng chơ vơ bên ngoài miệng hầm trong lúc chiếc Dakota Hồng Thập tự cuối cùng cất cánh tung mình vào các đám mây nặng trĩu nước mưa, cho đến khi căn cứ này bị thất thủ.

Qua danh sách của cơ quan Hồng Thập tự, Joseph được biết là Paul đã chết. Sự đau khổ bùng lên, hành hạ anh đến nỗi anh thực sự đẩu ốm mấy ngày liền, và trong vài tuần sau đó, Joseph đã uống thật nhiều rượu để tránh không phải suy nghĩ được gì nữa. Sự phiền muộn rồi cũng theo thời gian vơi dần đi cùng lúc với tâm tư của anh lại tượng hình với cái ý nghĩ có lẽ định mệnh đã an bài để anh có thể lấy được Lan và từ đó cơn phiền muộn trong lòng dần dần phai lạt đi. Sau cùng thì cái ý tưởng chính định mệnh đã giữ vai trò quan trọng trong việc anh cố gắng đưa Lan và Tuyết rời khỏi đất nước này để quên hẳn đi tất cả quá khứ là một điều hiển nhiên.

Vừa tới khách sạn đêm hôm qua, Joseph đã nhận được giấy của Lan viết để lại cho biết nàng sẽ đến gặp anh vào mười một giờ trưa hôm sau, và từ lức thức dậy cho đến giờ này, Joseph đã nhìn vào đồng hồ tay không biết bao nhiêu lần rồi. Để trấn an sự nôn nóng đang chực chờ bùng dậy trong lòng mình, Joseph đưa tay cầm lấy tờ Journal De Saigon, tờ báo mà bất cứ một phóng viên, ký giả ngoại quốc nào đến đây cũng đọc để biết tình hình địa phương. Hàng tựa chạy kín trang nhất của tờ báo nói về việc chiếm giữ và phân phối ruộng đất đang được thi hành tại miền Bắc do các cán bộ Đảng Lao Động của Hồ Chí Minh trực tiếp điều khiển. Theo tin tức trên tờ báo thì các chiến thuật ám sát và khủng bố được Việt Minh cho áp dụng trên một bình diện thật rộng lớn, nhằm vào các thành phần địa chủ. Theo bài báo, thì vấn đề này đã gây ra cho một số người bị giết thê thảm. Tại bàn Hội nghị Genève thì các nhà lãnh đạo các cường quốc trên thế giới đang họp bàn về vấn đề Đông Dương vẫn chưa đạt đến một thỏa thuận chính thức nào, dù các phiến họp đã kéo dài suốt hai tháng qua. Cuộc chiến thắng của Tướng Giáp đương nhiên bắt buộc Pháp phải xin đình chiến ngay sau khi Điện Biên Phủ bị thất thủ. Trong lúc đó ở miền Bắc, Việt Minh đã không ngần ngại cho áp dụng các chính sách của đảng Cộng Sản tại các vùng mà họ kiểm soát được. Ở một bài báo khác, cũng được đăng trên trang nhứt, tờ Journal de Saigon cũng loan những tin tức liên quan đến việc ngay cả tại các vùng ở châu thổ sông Cửu Long tại miền Nam này, Việt Minh cũng càng ngày càng tin tưởng vào sức mạnh của họ. Trong một chương trình lén lút ngày hôm trước, Việt Minh đã thông báo rõ ràng một chiến dịch từng giai đoạn sẽ được cấp tốc thi hành khi cuộc hòa đàm ở Genève đã có chiều hướng sắp đến hồi kết thúc bằng giải pháp một nước Việt Nam chia hai mà Cộng Sản sẽ giữ miền Bắc và miền Nam sẽ về phe Tự Do.

Joseph đưa mắt nhìn khắp các cột báo, nhưng trong lòng không còn được chút yên ổn nào để chú tâm đến những chi tiết khác nữa. Anh mượn cớ đến Sài Gòn để chuẩn bị viết bài về trạng thái của Thực dân trong buổi giao thời sau trận thất bại nhục nhã của họ tại Điện Biên Phủ, nhưng với nhiều điều bất ổn trong lòng, anh đã không còn tư tưởng đâu để nghĩ đến vấn đề đó. Anh đứng lên khỏi bàn ăn sau khi ngó sơ qua tờ báo một lần nữa rồi thả bộ xuống đường Catinat và tự hứa là chiều nay anh sẽ bắt đầu vào công việc báo chí của mình.

Joseph thẫn thờ bước đi bên dưới đường phố mà lòng không có một định hướng nào nhất định và suốt nửa giờ qua đầu óc anh nghĩ ngợi mông lung, và mặc dù có nghĩ đến những điều riêng tư của mình, nhưng anh cũng không làm sao bỏ qua được cái khung cảnh của cái thành phố mà anh đang thơ thẩn chung quanh đây đang thay đổi rất nhiều so với thời gian anh đến đây lần đầu tiên cách đây bốn mươi năm. Suốt tám mươi năm mà người Pháp có mặt tại nơi này, cho đến khi trận thế chiến thứ hai chấm dứt, thì ba mươi ngàn Pháp kiều đã không còn lưu tâm gì đến cái thành phố này cho lắm, vì lúc nào họ cũng phải canh cánh lo âu, họ lo sợ có thể bị giết bằng lựu đạn, bằng bom đặc công mà địch quân có thể ném vào các hàng quán trong lúc họ nhâm nhi các thức ăn của mình, lo âu trước sự bành trướng của các phong trào chống Pháp mà Việt Minh là một mối quan tâm hàng đầu cho đời sống hàng ngày của họ tại thành phố này. Rồi sự thất thủ của Điện Biên Phủ lại càng làm thay đổi thêm nhiều nữa.

Hiện có hơn mười ngàn Pháp kiều đã rời khỏi đây. Tại khách sạn Continental Palace, chủ nhân đã không còn ân cần chào đón thực khách với vẻ trịnh trọng, diêm dúa như ngày trước nữa, trái lại Joseph thấy ông ta trầm tư với vẻ mặt đầy lo lắng cúi mình sát bên người thủ quỹ. Anh cũng thấy phòng trà La Pagode, quán cà phê De La Paix nơi mà các cựu thực dân ưa lui tới, chủ và khách thường lăng xăng líu lo vui vẻ, giờ đây chỉ còn tụ tập từng nhóm nhỏ xầm xì đầy vẻ khẩn trương, gương mặt người nào cũng đầy vẻ lo âu. Riêng tại sở mật thám trên đường Catinat, các cánh cửa sổ được bảo vệ kiên cố lúc nào cũng tấp nập người là người, nhưng khi Joseph đi ngang qua nơi này thì tại đây vắng lặng khác thường, lác đác một vài người Pháp hoặc một vài người Việt vội vã ra vào khiến anh nghĩ đến những hoạt động bí mật mà bao lâu nay cơ quan này đã bỏ công thực hiện giờ đây đã đến hồi bỏ dở.

Trên gương mặt của bất cứ người Pháp nào mà anh gặp trên đường, ai cũng nặng vẻ lo âu bất thường, cũng cùng lúc này Joseph lại nhận ra là số người Mỹ làm việc cho Tòa đại sứ Hoa Kỳ cũng như tại các cơ quan chính quyền khác bây giờ càng đông đảo hơn, và không như người Pháp, họ có vẻ ung dung, thư thả, tưởng chừng như qua thái độ của họ, người ta có thể nhận được sự trái ngược, ở đó những người Hoa Kỳ này cho thấy họ tin tưởng rằng chỉ có người Pháp mới phải gánh chịu sự thua thiệt tại Việt Nam mà thôi. Họ có vẻ như muốn nói cho mọi người biết rằng nếu như Hoa Kỳ vạn bất đắc dĩ bị lâm vào thế trận như của người Pháp hiện nay thì sự thể sẽ không giống như tình cảnh hiện tại được.

Vừa đi, Joseph vừa nghĩ đến cái hậu quả sẽ nguy hiểm không biết đến mức độ nào trước những thái độ đơn giản hóa tình hình đầy hiểm nguy của những người đồng hương đang có, nếu như Hoa Kỳ thật sự dính líu vào cái đất nước này. Mặc dù các lực lượng của Liên Hiệp Pháp vẫn còn trấn giữ tại các vùng châu thổ sông Hồng, vùng cao nguyên Trung phần và miền Nam này trong khi hội nghị Genève vẫn chưa đến hồi kết thúc, nhưng tất cả đều cho thấy ý chí tiếp tục cuộc chiến tranh tại đây của người Pháp đã tan rã theo tâm lý, qua sự thất bại ở Điện Biên Phủ. Không phải vì số thương vong lên đến năm ngàn người tại mỗi một mặt trận đó mà qua các phim tài liệu của người Nga, người ta còn thấy mười ngàn binh sĩ Pháp ốm yếu, bẩn thỉu bị Việt Minh chĩa súng áp giải tại các trại tập trung, đã làm cho nước Pháp phải bắt buộc từ bỏ chế độ thuộc địa của mình tại nơi này.

Cùng lúc này, khi các ngoại trưởng Nga, Anh, Pháp, Trung Hoa cùng nhau thảo luận về tình hình tương lai của Đông Dương tại Genève thì viên Ngoại Trưởng chống Cộng tới chiều của Hoa Kỳ là John Foster Dulles đã không có mặt tại bàn hội nghị ngay từ đầu. Ông chỉ để lại một người phụ tá để theo dõi tình hình của cuộc hội đàm mà thôi. Thái độ của ngoại trưởng Dulles cho thấy là Hoa Kỳ sẽ không đồng ý việc nhượng đất cho Cộng Sản tại Đông Dương, và căn cứ theo số lượng nhân lực của người Hoa Kỳ hiện có mặt tại Sài Gòn lúc này, Josph nhận ra ngay dụng ý của Hoa Thịnh Đốn muốn tiếp tục cuộc chiến tranh này của người Pháp sắp bỏ dở.

Thật tình thì khi Pháp anh dũng chiến đấu tại Điện Biên Phủ chống lại nhiều Sư đoàn của Việt Minh, thì Joseph cũng đã nhiều lần nhớ đến mình và một số chuyên viên của OSS đã từng huấn luyện cho đám du kích quân èo uột ngày trước, để dám quân ít oi đó tăng trưởng và trưởng thành đến cấp đại đoàn. Anh tự hỏi cuộc diện sẽ như thế nào, nếu như Hoa Kỳ đồng ý với các đề nghị chân thành của Hồ Chí Minh ngày trước? Rất có thể với sự hợp tác của OSS, Hồ Chí Minh từng là cộng sự viên của tổ chức này, ông ta có thể thay đổi, và nếu như Tổng Thống Truman chịu phúc đáp gần một chục lá thơ mà Hồ Chí Minh đã viết kêu gọi Hoa Kỳ giúp đỡ ông ta để chống lại ý đồ của người Pháp định tiêu diệt mầm mống cách mạng của ông ta, thì liệu tình thân hữu giữa Hoa Kỳ và Hồ Chí Minh có thể xảy ra và khi Cộng Sản Trung Hoa chiếm được lục địa Trung Hoa năm 1949 thì biết đâu Hồ Chí Minh và những người ủng hộ ông ta đã chẳng bỏ Nga và Trung Cộng để trở thành một TiTo như tại Âu Châu? Các ước đoán này bây giờ nghiễm nhiên không thể nào thành tựu được, vì hiện tại Joseph đã thấy rõ ràng là chính phủ Hoa Kỳ đang đúc kết tất cả các lỗi lầm của mình bằng cách tìm mọi hình thức để đương đầu trực tiếp với Hồ Chí Minh. Chủ tịch họ Hồ đã chứng minh với Joseph trong thời gian hai người còn là bạn vơi nhau là ông ta và nhân dân do ông ta lãnh đạo đã cương quyết vạch trần những bất công mà dân của ông ta phải gánh chịu dưới sự cai trị của người Pháp. Joseph hiểu được rõ ràng môi nhục nhã lịch sử này là động cơ chính yếu cho sức mạnh của dân chúng Việt Nam. Joseph cũng nhận ra lúc này Hoa Kỳ đã không cân nhắc gì hết cả để nhảy xô vào đây, đương đầu với Nga và Trung Cộng, mà rõ ràng ngoại trưởng Dulles đang trù tính thực hiện dưới cơn 1ÔC chính trị đầy phức tạp trong lúc này chẳng khác gì đâm đầu vào sự thất bại đang chờ chực sẵn… Joseph vừa đi, vừa suy nghĩ những điều mông lung như thế này, nhằm tạo cho mình một cái cớ vững chắc để đưa Lan và Tuyết rời khỏi nơi đây càng sớm càng tốt trước nhiều hiểm nguy đang phơi bày rõ ràng ở vào những ngày sắp tới. Nghĩ tới đây, Joseph chợt nhớ tới điều mình phải làm, anh vội quay người bước về khách sạn.

Lúc về đến khách sạn thì đã mười một giờ trưa, nhưng Lan vẫn chưa tới nơi hẹn, anh nóng lòng chờ đợi thêm mười lăm phút nữa rồi vội vàng đến quầy hàng xin gọi nhờ điện thoại. Joseph nghe điện thoại ở nhà Lan reo lên từng hồi, mãi một lúc lâu mới có người nhấc lên, nhưng anh lại thất vọng vì người trả lời điện thoại là người giúp việc của Lan. Người đàn bà ấm ứ, ậm ừ với vài tiếng Pháp nặng nề cho biết là bà Devreaux đã rời khỏi nhà để đến thăm cha mình có việc cấp bách, trước khi đi bà Devreaux có dặn nếu có ông Joseph gọi thì nhờ chị ở xiu lỗi đã trễ hẹn, nhưng sẽ đến gặp Joseph vào khoảng nửa giờ sau.

Biết được Lan không thể đến đúng giờ, Joseph không thể nào kiên nhẫn ngồi chờ Lan tại khách sạn nên anh vội bước xuống đường tảng bộ một lần nữa. Lần này, Joseph đi ngược xuống hướng bờ sông Sài Gòn. Đến cuối đường, Joseph vội vàng bước nhanh qua khỏi các quán nước của đám người đảo Corse mà ở đây nhạc được mở thật lớn từ bên trong vang dội ra hẳn tận ngoài đường. Anh băng qua đường, bước xuống bến tàu với ý định tìm được một chút yên ổn với các hoạt động thường nhật tại nơi này.

Đứng tựa người vào hàng rào, Joseph đưa mắt nhìn các chiếc xuồng nhỏ nhắn di chuyển qua lại giữa các thương thuyền to lớn. Cảnh nước sông trước mặt với các con tàu lớn, nhỏ dập dìu trước mặt tưởng sẽ làm cho Joseph tìm được chút thanh thản trong tâm hồn đang bồn chồn này, nhưng ngược lại, chính những khung cảnh này lại làm cho Joseph nhớ đến Hồng Kông. Hồng Kông lúc này dật dờ với hình ảnh giận dữ của Tempe. Gương mặt tái mét nhìn mình cũng trong một khung cảnh của một thương cảng tương tự như hình ảnh trước mặt anh lúc này, cho nên đầu óc Joseph lại bùng lên với chuyện đã xảy ra.

Lúc đó Tempe đứng dựa lưng vào cửa sổ tại căn nhà của họ trên một ngọn đồi, nhìn trân trối vào mặt Joseph khi anh nói ra ý định của mình. Trước cái tin chấn động này, Tempe đứng lặng yên, không nói một lời nào thật lâu. Điều này đã khiến cho anh vô cùng luống cuống không tìm ra được lời lẽ nào để giải thích và biện hộ cho mình trước tình yêu chung thủy của. Một lúc thật lâu sau, Tempe cất tiếng nghe thật vô cùng tội nghiệp.

- Thì ra đứa con trai ngơ ngác trước ngai vàng của vua Khải Định vẫn còn cố đi tìm chiếc vương miện ngọc ngà đó, phải không Joseph?

Tempe thì thầm với giọng run run, rồi bỗng gương mặt Tempe nhăn nhó đầy vẻ uất ức lẫn đau khổ. Một lúc sau, Tempe mới lấy được giọng nói bình thường.

- Anh lúc nào cũng không được hài lòng về em hết phải không? Em vẫn tầm thường quá phải không? Anh lúc nào cũng khao khát đường xa, xứ lạ, khao khát những cái mà mình không đạt được. Có lẽ tại cái tính anh là như vậy. Hầu như người con trai nào lớn lên người ta cũng hết mơ mộng đến những chuyện thần tiên trước khi người ta trưởng thành. Còn anh, có lẽ mẹ anh đã quên dạy cho anh điều đó.

Biết mình sắp sửa khóc, Tempe bật tiếng cười khan. Tiếng cười ảnh hưởng đến tâm trạng của mình lúc bây giờ và lại bật ra thật tình cờ nên đã làm cho Joseph tưởng đó là tiếng mà Tempe thường hay phát ra trong những giây phút nồng nàn ái ân giữa hai người, mà từ trước đến giờ Joseph không hề để ý tới, cho nên tiếng cười vừa rồi của Tempe đã làm anh khó chịu vô cùng, cơn khó chịu chợt làm Joseph bừng giận không đâu. Anh quay người, nhìn xuống hải cảng, cố chú tâm vào cảnh hỗn độn của các chiếc thuyền buồm tấp nập bên dưới. Tempe từ từ bước đến bên cạnh Joseph.

- Anh đã lừa dối em từ ba mươi năm nay rồi phải không Joseph? Lần trên xe lửa từ nơi khánh thành viện bảo tàng về lại nhà ở Richmond, anh còn nhớ không? Em đã hỏi anh đã có ngủ với đứa con gái con của ông quan đại thần Annam đó không và anh đã trả lời với em bằng một giọng như đỉa phải vôi: Không, không, gia đình người Việt Nam họ rất nghiêm khắc về vấn đề này lắm. Trong khi cô gái đó lại có thai với anh, có phải vậy không? Kể từ đó anh là người nói láo. Nếu như lúc đó anh nói thật với em thì em còn có thể hiểu được…

Joseph nghe tiếng thở hào hển từng chập của vợ đàng sau lưng mình tưởng chừng như Tempe đang cố gượng giữ để khỏi bật khóc. Anh chán nản quay người lại.

- Chuyện này mãi chín năm sau anh mới biết. Em có hiểu như vậy không? Hồi đó anh có hỏi cưới cô ta, nhưng cô ta từ chối vì chữ hiếu với cha mình.

Tempe cắn chặt môi gật đầu:

- Vì vậy anh về nhà để tìm chỗ chạy trốn phải không? Đáng lẽ em phải biết rõ điều này hơn ai hết mới phải, nhưng em đã dành hết cho anh, hết những điều anh muốn và anh cần. Hai đứa con ngoan ngoãn Joseph à! Một người đàn ông cứng cỏi phải bỏ hết dĩ vãng lại sau lưng mình để nghĩ và lo cho thực tế hiện tại.

Tempe lắc đầu đầy thương hại rồi nói tiếp.

- Riêng anh thì không đâu. Anh luôn luôn khao khát các điều bí hiểm ở Đông Dương, những thứ đó đã cướp hồn anh từ hồi anh mới mười lăm tuổi. Bây giờ anh đã trung niên rồi mà vẫn không bỏ được cái ý tưởng là anh sẽ tiếp tục đi tìm một dinh thự ngọc ngà khác phải không? Dù cái mà anh tìm kiếm đó nó nằm ở giữa háng của một con đàn bà ở Sài Gòn.

Joseph khẽ khép mắt lại để đè nén cơn bất bình, đồng thời để khỏi nhìn thấy khuôn mặt đầy đau khổ của vợ. Anh thì thầm.

- Em biết không? Đây chỉ là một việc ngoài ý muốn của anh mà thôi. Nếu như anh không tình cờ trở lại Sài Gòn sau chiến tranh và biết được sự có mặt của Tuyết, thì chắc chắn sẽ không có chuyện này xảy ra.

- Em không nghĩ rằng anh trở lại đó hoàn toàn vì vô tình đâu Joseph.

Joseph mở mắt nhìn vợ đầy kinh ngạc.

- Em nói vậy nghĩa là làm sao?

Tempe lắc đầu luống cuống.

- Em không biết được, nhưng em vẫn thấy trong nội tình chắc chắn anh sẽ nhúng tay vào những chuyện đại loại như vậy. Nếu như chuyện không phải xảy ra tại Sài Gòn và không phải đó là vợ một sĩ quan Pháp thì chuyện của anh cũng sẽ xảy ra với một người khác và ở một nơi khác.

Tempe vừa nói vừa vói tay cầm một ly rượu vang của Pháp. Nhìn tới ly rượu ửng hồng, bỗng dưng anh chợt có ý nghĩ là Tempe sẽ tát ly rượu đó vào mặt mình, nhưng không, Tempe đặt nhẹ ly rượu xuống bàn rồi bước đi, vừa đi hai tay nàng ôm vòng lấy thân thể đầy vẻ tức giận, thân thể nàng cong về phía trước, lúc này trông Tempe già hẳn ra như người bị ốm. Joseph bỗng dưng muốn an ủi nàng.

Một giờ đồng hồ sau đó, Joseph rời khỏi nhà để ra phi trường thì Tempe vẫn cố giữ cho mình được cái vẻ bình tĩnh nhìn Joseph ra đi. Hai môi nàng cắn chặt lại, nhưng vẫn đầy vẻ quyến rũ của một người đàn bà đang thời. Tempe đã cố giữ để khỏi bật khóc trước mặt chồng. Chính vì sự can đảm, chịu đựng này của vợ, giờ đây đứng trên bến tàu, Joseph chợt nhớ lại Tempe và tự dưng lòng nghe bất nhẫn với chính mình khiến anh không còn đứng yên được.

Lúc quay lưng về hướng bờ sông, Joseph chợt thấy mình đang đứng nhìn quang cảnh Sài Gòn không khác gì như lần đầu tiên anh được nhìn nơi này khi chiếc tàu Avignon vừa cập bến cách đây ba mươi năm về trước. Những hàng cây rợp bóng, từng là nơi nghỉ trưa của những công nhân nhai trầu nhễ nhại vẫn còn rợp bóng trên các đường phố nóng bỏng và hai chiếc tháp nhọn trên nóc Vương Cung Thánh Đường vẫn sừng sững vương cao lên trên các nóc nhà trong thành phố này.

Joseph vụt nghe thương hại cho chính mình, anh đã không làm sao hiểu, cho dù lòng nhân đạo của mình có tràn đầy cách mấy đi nữa thì một đứa con trai mười lăm tuổi đầu làm sao lại lầm lẫn việc các nhân công mỏi mệt kia là những nạn nhân của một cuộc thảm sát, để mãi sau này cũng vẫn với tấm lòng từ bi đó có thể làm cho đứa con trai như anh có thể đương đầu với tất cả những điều khắc nghiệt, phức tạp của đời sống trước mặt cho được. Làm sao người ta có thể chuẩn bị cho một đứa trẻ như anh biết được những cạm bẫy dẫy đầy trên dòng đời? Không lẽ không còn cách nào để tránh khỏi người lớn không làm tổn thương lẫn nhau từ thế hệ này sang đến thế hệ khác hay sao? Liệu đem hết tất cả những điều phiền muộn, những yếu đuối cũng như những thất bại của họ để chứng minh đó là hành trang cho sự ngã lòng, thì liệu họ sẽ xua đuổi được đi hết mọi thứ để sau cùng chỉ còn lại cái thân xác đầy tình cảm của mình và ôn hòa lại được hay không?

Joseph thả bước đi về lại khách sạn mang theo những điều đau buồn trong tâm tư, cho đến lúc về gần tới nơi thì anh cũng vừa kịp thấy Lan đang từ đàng xa đi bên dưới các tàn bóng mát của hàng cây hai bên đường. Lan hôm nay mặc áo dài gấm có thêu hoa hồng, quần dài trắng óng ả. Joseph thấy Lan vừa đi vừa nói chuyện với một người bên cạnh nàng là ông Trần Văn Hiếu, cha của Lan. Với đời sống sung túc hiện thời, Trần Văn Hiếu có vẻ phốp pháp, ông ta vận một âu phục nhạt màu may bằng một loại vải đắt tiền chớ không còn mặc áo dài như ngày xưa nữa. Mái tóc bạc trắng chung quanh gương mặt tròn trĩnh của ông ta vẫn còn ánh đầy vẻ thông minh và nghiêm khắc như lệ thường.

Có lẽ lúc này Trần Văn Hiếu đang chăm chú nghe con gái nói điều gì đó với mình, nên ông không thấy Joseph đang tiến về phía ông ta.

Giữa đám người qua lại dập dìu trên đường phố, bóng dáng của Lan đang cầm tay cha bỗng làm cho Joseph giật mình, anh nhớ lại rõ ràng cảnh nàng yên lặng ngồi cạnh bên cha với thái độ khước từ khi anh từ Hà Nội trở lại Sài Gòn hồi năm 1936, và bây giờ bỗng dưng Joseph lại thấy cái cảnh đó trước mặt, khiến anh nghe lòng chùng lại thê thảm.

Kịp khi thấy cả hai người cùng cười với nhau, Joseph nghĩ rằng chắc Lan đã đồng ý với cha mình điều gì nên mới có được tình trạng đó. Không còn giữ được sự kiên nhẫn, Joseph vội vã bước nhanh đến định chào hai người. Vì vội vàng nên Joseph đã va vào người một chú bé từ đàng xa, chạy vụt tới dọc theo lề đường. Đứa bé quỵ ngã xuống một bên vì sự đụng chạm này. Joseph đứng nhìn theo đứa bé sau khi nó đứng lên và vội vã bỏ đi. Dưới cặp mắt của một người phóng viên, Joseph nhìn ngay ra bên dưới chiếc áo rộng và chiếc quần trắng nhớp nhúa của đứa bé có vẻ bình thường, nhưng anh lại vụt một thoáng nghi ngờ thấy có điều gì khác lạ trong cử chỉ của đứa bé này. Chiếc áo đang mặc trên người đứa trẻ dồn lên một cục như có giấu vật gì bên bong làn áo ở ngang thắt lưng, điều này rõ ràng hơn khi Joseph thấy nó đưa tay nâng vật giấu trong mình lên. Nhớ lại bài báo anh đã đọc được trong tờ Journal de Saigon sáng hôm nay, Joseph cất tiếng thét lớn rồi vụt chạy theo. Đám đông bên vệ đường không một ai kịp có phản ứng gì trước khi đứa bé ra tay. Đây là một thiếu niên cảm tử của tiểu đoàn 905 đặc công của Việt Minh. Đứa bé đang cố gắng thi hành một cuộc ám sát điển hình đầu tiên trong kế hoạch cải cách ruộng đất của Việt Minh, và Trần Văn Hiếu là người được chọn để thực thi kế hoạch của họ. Trần Văn Hiếu là người thân Pháp lâu đời, một địa chủ có nhiều ruộng đất tại vùng đồng bằng Cửu Long. Trần Văn Hiếu ngẩng đầu lên nhìn đứa bé khi nó vung một cánh tay quàng lên cổ ông ta.

Trong nhứt thời, Joseph mong cho mình dự đoán lầm đây chỉ là một sự biết ơn mà Trần Văn Hiếu biết đâu lần nào đó trong quá khứ ông đã từng gia ơn cho đứa bé này, nhưng không, Lan vụt tắt hẳn nụ cười trên môi trong khi đứa bé vung cánh tay còn lại thò vào bên trong làn áo, kéo ra một vật lạ. Hai người một lớn, một nhỏ ôm nhau vật ngã xuống đường. Đám đông bắt đầu bỏ chạy náo loạn trong khi đó Joseph thấy Lan đang cố sức kéo đứa bé ra khỏi cha mình mà không được vì nàng đâu có biết là đứa bé đã từng được huấn luyện công tác này nhiều lần trong rừng. Đôi mắt của Trần Văn Hiếu bắt đầu ánh lên đầy vẻ sợ sệt. Joseph cố tránh đám đông để chạy đến, nhưng rủi thay ngay lúc đó một người đàn bà vì quá hốt hoảng nên đã chạy thẳng vào người anh, khiến Joseph phải lảo đảo ngã người vào một cửa hàng gần đó. Cũng ngay lúc này thì trái lựu đạn phát nổ. Thân thể Trần Văn Hiếu và đứa bé bay vụt lên cao rồi cùng rơi xuống đất một lượt. Một vài người qua đường gần đó cũng gục xuống trước những cặp mắt bàng hoàng của những người chung quanh đây. Máu thịt của hai người đổ tuôn lai láng khắp vệ đường.

Lúc trái lựu đạn vừa phát nổ. Joseph với phản ứng tự nhiên, anh đã tung mình nằm rạp xuống đất nên không bị hề hấn gì, nhưng lúc nhỏm mình đứng lên và bước đến gần nơi cuộc ám sát vừa xảy ra, Joseph thấy Lan nằm sóng soài cách chỗ cha mình không bao xa. Toàn thân thể của Lan uốn cong và lỗ chỗ vết miểng đạn. Joseph không nhìn được mặt Lan vì lúc này mặt nàng cúi gằm xuống mặt đường. Chiếc áo dài trên người Lan càng lúc càng đỏ sẫm thêm hơn dưới ánh nắng ban trưa, và trên làn lưng thon đẹp của Lan không còn dấu vết nào cử động hết cả.