HÒA BÌNH KIỂU MỸ 1963
Hiệp định Genève ra đời, chấm dứt cuộc chiến tranh đầu tiên tại Đông Dương bằng cách chia đôi nước Việt Nam ra làm hai, lấy vĩ tuyến mười bảy làm ranh giới nhường miền Bắc cho Cộng Sản và miền Nam cho Pháp. Các phái đoàn tham dự hội nghị đều đồng ý việc phân chia lãnh thổ này chỉ là vấn đề tạm thời mà thôi, để hai năm sau đó sẽ có một cuộc tổng tuyển cử nhằm thống nhứt lại đất nước. Nhưng Hoa Kỳ đã cương quyết không nhượng bộ thềm một tấc đất nào cho Cộng Sản nữa sau trận chiến tranh tại Đại Hàn, cho nên tại bàn hội nghị ở Genève, Hoa Kỳ đã không ký vào bản hiệp định này và Washington đã thúc bách Tổng Thống Ngô Đình Diệm của miền Nam từ chối việc tổng tuyển cử. Lúc bấy giờ Nga Xô và Trung Cộng đồng nhận thấy việc tổng tuyển cử không cần thiết cho mục tiêu của họ nên hai quốc gia này cũng không phản đối gì. Từ đó chính phủ Sài Gòn coi lằn ranh giới ở vĩ tuyến 17 là biên giới của hai quốc gia và từ chối hợp tác với Hà Nội trong việc tổ chức tổng tuyển cử mà theo đà thuận lợi lúc bấy giờ chắc chắn sẽ đưa Hồ Chí Minh lên cầm quyền với công trạng của ông ta đánh đuổi được quân Pháp.
Từ khi Hồ Chí Minh từ vùng núi thượng du Bắc Việt tràn xuống, đến khi hiệp định Genève ra đời thì có non một triệu người Công giáo tại miền Bắc đã theo lực lượng Pháp rút về miền Nam. Trong khi đó thì các thành phần ủng hộ Hồ Chí Minh tại miền Nam lục tục tập kết kéo về Bắc, và sự di dân ngược chiều này đã cho thấy rõ ràng cái quan niệm chống đối và khai trừ Cộng sản của dân chúng một cách rất rõ rệt. Năm năm sau đó, Cộng Sản Bắc Việt với sự mệt mỏi vì cuộc chiến vừa qua, giờ đã củng cố lại được lực lượng và quy luật của họ ở miền Bắc. Cùng lúc này thì tại miền Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng dẩy các nỗ lực tương tự, và mặc dù Hoa Kỳ đã ồ ạt viện trợ kinh tế và quân sự cho Sài Gòn, nhưng chính phủ miền Nam càng ngày càng quá khích và đã không chiếm được đại đa số lòng dân tại đây.
Ngô Đình Diệm là một người tù khổ, độc thân, xuất thân từ một gia đình quan lại của triều đình Huế, được Bảo Đại bổ nhiệm làm Thủ Tưởng chính phủ trước khi cựu hoàng này bị truất phế. Sau một cuộc trưng cầu dân ý không được minh chính cho lắm, Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống miền Nam. Ông đã bỏ công mang lại an ninh trật tự cho miền Nam, bằng cách bẻ gãy các nhóm phiến loạn và giải tán các lực lượng quân sự của các phe nhóm này, nhưng về sau Ngô Đình Diệm càng ngày càng áp dụng chính sách phi dân chủ để củng cố địa vị của mình. Lạm quyền và tham nhũng xảy ra khắp mọi nơi. Ngô Đình Diệm lại bị lệ thuộc quá nhiều vào ảnh hưởng tự cao, tự đại điên rồ quá đáng của người em là Ngô Đình Nhu. Các sĩ quan an ninh của chính quyền đã khủng bố các người đối lập một cách vô cùng dã man, họ cũng bắt nhốt vô số người vô tội. Chính vì những sự xung đột này tại miền Nam đã khiến cho Hồ Chí Minh một lần nữa chú ý đến cái nhiệm vụ hoàn tất cuộc cách mạng mà ông ta đã đề xướng cách đây hơn nửa thế kỷ trước.
Năm 1959, Hồ Chí Minh cho mười chín ngàn người tập kết ra Bắc hồi 1954 lén lút xâm nhập lại miền Nam. Chỉ một năm sau, các cán bộ xâm nhập này sát nhập với một số các nhóm chính trị và tôn giáo chống đối vào một tổ chức mới gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Với chủ trương lật đổ chính quyền ngụy trang thuộc địa của Ngô Đình Diệm và Hoa Kỳ, Mặt Trận được võ trang bằng các vũ khí tịch thu được của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và cho đến năm 1962 thì mặt trận đã kiểm soát được bốn phần năm các làng mạc tại miền Nam. Bộ máy tuyên truyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã gán cho tất cả những thành phần của mặt trận này là Việt Cộng, và mặc dù Mặt Trận Giải Phóng vẫn tiếp diễn tấn tuồng cũ của Việt Minh ngày trước, nghĩa là họ chỉ dùng một số ít cán bộ Cộng Sản để áp dụng chiến thuật tuyên truyền và khủng bố và họ đã dễ dàng dẫn dụ các dân quê ít học vào cái lý tưởng chống Pháp.
Trong khi đó tại Hoa Kỳ thì sự cơ cực, khổ ải của dân chúng quê mùa tại miền Nam mà họ phải chịu đựng dưới chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không được người Hoa Kỳ coi là một tệ trạng thực sự đưa tới sự sụp đổ trong tương lai tại nơi này. Cho nên dân quê tại miền Nam Việt Nam đã dễ bị Cộng sản tuyên truyền, khiến họ có cái nhìn về chính phủ Ngô Đình Diệm không khác gì hơn các quan lại tham nhũng đã từng đè đầu, đè cổ nhân dân cách đây cả trăm năm về trước, khi các chủ nhân ông thực dân da trắng ngày xưa là Pháp, còn bây giờ là người Hoa Kỳ. Đối với Washington thì sự ra đời của Mặt Trận Giải Phóng được coi như là một tổ chức ngụy tạo của Cộng Sản xâm lược do Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh giật dây mà thôi, khi Tổng Thống Kennedy lên nhậm chức năm 1961, ông đã cương quyết xác nhận là bằng mọi giá Hoa Kỳ nhất định phải gánh lấy bất cứ trách nhiệm nào để bảo đảm sự sinh tồn của Tự do, và miền Nam Việt Nam được chọn làm nơi để thực hiện chủ nghĩa lý tưởng đầy kiêu ngạo đó.
Lúc bấy giờ chỉ có bảy trăm Cố vấn Hoa Kỳ có mặt tại Sài Gòn từ năm 1950, nhưng rồi lực lượng này được Tổng Thống Kennedy cho tăng cường liên tục vào những năm kế tiếp. Tới năm 1963 thì mỗi ngày Hoa Kỳ phải chỉ tiêu một triệu rưỡi Mỹ kim cho cuộc chiến tại các vùng đồng ruộng và rừng rú miền Nam với mười sáu ngàn cố vấn Hoa Kỳ tham dự vào các trận đánh, và từ đó số thương vong của Hoa Kỳ càng ngày càng tăng thêm lên. Năm 1961 có mười bốn binh sĩ Hoa Kỳ tử thương, sang năm sau, con số này nhảy lên trên một trăm.
Tại mặt trận chính trị, các ngân khoản viện trợ của Hoa Kỳ được dùng để thiết lập các Ấp Chiến Lược. Các làng, ấp này được cho nào kẽm gai, đặt chông và bẫy xung quanh. Cho đến năm 1963 thì có hơn mười triệu dân quê trong tổng số mười lăm triệu trên toàn quốc được đưa vào các làng ấp kiên cố này để tách rời với các khu tiếp tế của du kích Cộng sản, và mặc dù Hoa Kỳ có can thiệp vào hầu hết mọi lãnh vực trong cơ cấu chính quyền tại miền Nam, nhưng sự liên hệ giữa các cố vấn Hoa Kỳ và các binh sĩ chính quy nhỏ bé của Việt Nam đã xảy ra sự va chạm tại các chiến trường rất trầm trọng. Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tự kỷ ám thị, muốn cho binh sĩ của mình lúc nào cũng tránh tổn thất đến mức tối thiểu. Ngô Đình Diệm đã cách chức nhiều sĩ quan Việt Nam nào đã để cho đơn vị của mình bị tổn thất quá nhiều, cho nên các cố vấn Hoa Kỳ tại các chiến trường đã gặp cảnh các đơn vị mà họ cố vấn lúc nào cũng muốn tránh né các cuộc đụng độ với địch quân. Mậc dù gặp phải các trở ngại như vừa kể trên, nhưng với sự trang bị bằng các trực thăng võ trang và các lực lượng hải thuyền xung phong, đã làm cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam có được một thế di động nhanh nhẹn trên các chiến trường.
Cho đến cuối năm 1962, lần đầu tiên Việt Cộng phải chịu nhiều trận thất bại đáng kể trong các cuộc hành quân lùng và diệt địch thần tốc của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đề đối đầu với các thành quả này, cũng như để đương đầu với chương trình Ấp Chiến Lược, các giới lãnh đạo ở Hà Nội bắt đầu đưa các cán bộ cao cấp của họ từng chiến đấu tại Điện Biên Phủ xâm nhập vào Nam. Việc xâm nhập này được Cộng Sản âm thầm lén lút thực hiện để bên ngoài ai cũng tưởng rằng sự xung đột tại miền Nam Việt Nam chỉ là một vấn đề nội bộ mà thôi, nhưng thật sự thì Mặt Trận Giải Phóng đã được tăng cường ào ạt, cho đến những tháng đầu của năm 1963 thì tại miền đồng bằng Cửu Long, sự xung đột gia tăng thật cao với các lực lượng du kích được tổ chức hoàn hảo hơn và quân đội được Hoa Kỳ võ trang của Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại rơi vào một thế chiến đấu mới để tranh giành thắng lợi cho mình.