MƯỜI
Trong một buổi chiều đẹp trời của tháng tám, ánh nắng dịu dàng đổ lên tiền đường của trường đại học Cornell ở Ithaca, Nữu Ước, tạo cho các kiến trúc Gothic của tiền sảnh loang loáng ánh nắng, phản chiếu với vẻ âm u của các tàn cây bóng mát trước sân một vẻ yên tĩnh khác thường của những ngày trường đang vào dịp nghỉ hè. Ngoài những con chim đang bay nhảy trên các cành cây rợp bóng mát trong khuôn viên trường đại học ra, còn có Joseph đang rảo bước, tiến về phía phòng ốc Uris, nơi mà từ năm 1950 phòng ốc này được dùng làm cơ sở nghiên cứu về Viễn Đông trong chương trình Đông Nam Á.
Mấy lúc gần đây, Joseph có tổ chức một cuộc hội thảo tại nơi này. Lặng lẽ bước đi một mình trong khuôn viên sân trường, Joseph có cái cảm tưởng bất ổn trên từng bước đi của mình khiến cho anh không thể nào có hứng thú trong cái thế giới học hành mà mình đang tham dự vào. Joseph bây giờ đang ở vào lứa tuổi trên năm mươi, mái tóc của anh đã điểm một vài điểm trắng xám, nhưng vóc dáng anh vẫn còn cao ráo, chững chạc và vẫn còn đầy đủ phong độ của một lực sĩ thời niên thiếu. Chỉ có riêng khuôn mặt của anh là có ít nhiều thay đổi với nét đăm chiêu thường xuyên trên vầng trán và khuôn miệng, lúc nào cũng căng thẳng khác thường.
Bước lên cửa phòng ốc Uris, vầng trán của Joseph vụt chau lên thật cao khi mắt anh đọc được hàng chữ lớn chạy trên tờ New York Times xuất bản số buổi chiều. Hàng chữ bốn cột chuyên đăng những tin tức quan trọng ở trang nhất đập vào mắt anh.
“KHỦNG HOẢNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM TRẦM TRỌNG THÊM - BINH SĨ DIỆM TẤN CÔNG VÀO CHÙA CHIỀN.”
Joseph cầm vội tờ báo vừa mở cửa phòng bước vào bên trong, vừa đưa mắt đọc. Đây là khu nhà ở của phân khoa. Vừa bước vào bên trong Joseph để ý đến trên mặt bàn có một phong thư viền màu xanh trắng đỏ, dấu hiệu của bưu tín hàng không. Nhìn nét chữ và con dấu được đóng tại Sài Gòn, Joseph biết đây là thơ của Gary, con hai lớn của anh. Joseph ngưng đọc tờ báo, đưa tay nhét vội lá thư vào túi áo rồi thơ thẩn bước vào một gian phòng được trang trí theo kiểu Á Đông với sàn gạch được lót bằng thảm Trung Hoa, các bức tranh sơn mài có cẩn xa cừ cùng những bức tranh cuốn vẽ thành nội Huế được treo khắp nơi trên vách tường. Một vài bức sáo có vẽ các con rồng uốn khúc quanh các giường ngủ trong các phòng ngủ của Vua chúa thời xưa theo kiểu người Trung Hoa, tại mỗi chiếc bàn nhỏ và mỗi chiếc kệ có chưng bày nhiều đồ sứ, cẩm thạch, các lưđồng và chưn đèn Việt Nam. Rải rác khắp trong phòng còn có một vài bức tượng bằng sứ to như người thật với trang phục đại triều của Đông Phương và Thái Lan.
Đứng giữa căn phòng với tờ báo trên tay, Joseph như quên hẳn các món đồ chưng bày trong phòng mà từ nhiều năm nay anh phải nhọc công sưu tầm.
Tin tức trên trang báo đã chiếm ngự tâm hồn anh lúc này. Theo tin tức từ Sài Gòn đánh đi thì ngày 21 tháng 8 vừa qua, binh sĩ chính quy và cảnh sát của chính phủ đã bất thần tấn công vào chùa Xá Lợi, cùng nhiều chùa khác tại Sài Gòn giữa đêm tối. Joseph thất vọng lắc đầu rồi cúi xuống đọc bài báo. Một số tăng ni kể như bị giết, hàng trăm Phật tử khác bị bắt nhốt, và Tổng Thông Ngô Đình Diệm bắt đầu ban bố tình trạng Thiết quân luật. Tại các ngã tư đường phố Sài Gòn, chiến xa được đưa vào để trấn giữ. Tin đánh đi còn cho biết binh sĩ chính quy kiểm soát khắp mọi nơi trong thành phố. Trong một lời tuyên bố chính thức, người em trai của Tổng thống Ngô Đình Diệm là ông Ngô Đình Nhu đã mô tả Phật tử là những người Cộng Sản đội lốt tu hành và kết án những người chủ xướng phong trào này đang âm mưu làm phản.
Đọc xong bài báo, Joseph quăng tờ báo sang một bên, miệng thì thầm nguyền rủa. Trời đã bắt đầu tối, Joseph đưa tay bật ngọn đèn làm việc trên bàn rồi móc lá thư của con trai trong túi áo ra. Cũng giống như người, nét chữ trên phong bì của Gary thật đẹp, ngay ngắn và rõ ràng. Những trang thư đều bị Gary xóa bỏ đi hàng chữ mang nhãn hiệu khách sạn Continental trên đầu mỗi tờ giấy. Joseph cẩn thận ngồi bên cạnh ngọn đèn, đưa mắt đọc từng hàng chữ trong thơ với thái độ không che giấu được nỗi hồi hộp vì sợ những dòng thơ của con mình sẽ mang đến những điều mà anh cố tình không muốn nhắc đến. Lá thư bắt đầu:
Ba thân mến!
Con nghĩ rằng con đã vô cùng ngạc nhiên khi nhận được thơ của ba, sau những năm dài mà chúng ta đã không ai đá động gì đến ai hết. Phản ứng đầu tiên của con gồm có buồn vui lẫn lộn. Con phải nhìn nhận như vậy bởi các lý do mà bây giờ nếu có nhắc lại vẫn còn làm con đau lòng đến khủng khiếp. Một hai ngày đầu, con đã tự hứa với mình là con sẽ không trả lời thơ cho ba đâu, nhưng rồi sau đó, khi đọc đi, đọc lại thơ của ba thêm vài lần nữa, con nghĩ rằng con đã bắt đầu nhận thức ra là con phải mừng khi biết ba còn bỏ thì giờ để quan tâm mà viết thơ cho con mà không nề hà đến những điều mà con đã xúc phạm tới ba trong lần chúng ta gặp nhau sau cùng tại Viện Bảo Tàng. Con cũng nhận thức được rằng con đã thật sự quá ngu xuẩn nếu như con lại xoay lưng, ngoảnh mặt làm ngơ trước một người có tầm hiểu biết sâu rộng về cái đất nước này như ba, đặc biệt là trong lúc này đây, không có một ai ở nơi này có thể hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Cho nên khi con được đi nghỉ cuối tuần trên Sài Gòn, con đã mang theo bức thư của ba để có dịp góp phần vào việc đánh tan sự im lặng giữa hai chúng ta. Con cũng đã quyết định là ngay lúc này đây, con cũng nên để chuyện đã qua nằm yên đi theo như ba đã khôn khéo viết trong thư cho con và không nhắc đến vấn đề của ba, mẹ, và quá khứ. Ba hãy để cho con được nói, là trong suốt thời gian dài đã qua, con đã vô cùng ân hận về sự hỗn hào của con đối với ba tại Bảo Tàng Viện. Bây giờ con càng ngày càng lớn lên, con đã bắt đầu ý thức được rằng trên đời này không có ai hoàn toàn được, nghĩa là không có ai hoàn toàn tốt, không có ai hoàn toàn xấu hết cả. Hầu như vấn đề nào cũng có bề trái và bề phải của nó. Bây giờ thì con đã bỏ đi được cái lòng khắc nghiệt đó với Ba, con xin thẳng thắn hỏi ba một vài câu hởi ngớ ngẩn và viết cho Ba biết đời sống của một người lính nó khốn nạn như thế nào tại nơi này. Con cũng sẽ cẩn thận đi gửi cho Ba thơ này ở một thùng thơ ngoài phố thay vì chuyển thư theo hệ thống quân bưu cục để bị kiểm duyệt. Làm được vậy thì có khác gì mình đang được ở thiên đàng vậy đâu. Các lạc thú văn minh ở cái thành phố xa lạ này đã làm cho con vô cùng thoải mái sau sáu tuần lễ dầm mình dưới ruộng nước đuổi theo ba thằng Việt Cộng khốn nạn. Con bắt đầu nghĩ là chân cẳng của con rồi dây sẽ vĩnh viễn đen màu đất sình lầy, nhưng ngay lúc này đây, ly bia lạnh đá tuyệt diệu đã làm cho tinh thần của con trở lại bình thường. Đây là chưa kể tới các thiếu nữ mỹ miều Việt Nam trong các y phục tuyệt vời của họ.
Nhân dịp này, con cũng báo tin cho ba biết để Ba đừng quá ngạc nhiên khi thấy một ngày nào đó con trở về và có mang theo một cô gái mắt xếch đó nghe. Các thiếu nữ ở đây ba phải biết là những bóng dáng tô điểm cho các nỗi uẩn lòng của mình, mặc dù con xin bảo đảm với Ba rằng họ không giống cái bà em dâu của ông Tổng Thống ở đây đâu. Bà Nhu đó. Bà này thì đẹp thật, nhưng ở đây ai cũng gọi bà ta là “Con Rồng Cái’’ hết, bởi vì bà ta đã ra lệnh đóng cửa các vũ trường, cấm nhảy Twist, cấm đĩ điếm, không cho ly dị, cấm ngừa thai, cấm phá thai, cấm đá gà, nghĩa là cấm hết tất cả mọi thứ mà một người Việt Nam bình thường có thể có được để mà sống cho đỡ khổ cuộc đời. Người ta đồn rằng một ông Đại Sứ từng là người tình của bà ta đã bỏ rơi bà ấy vì mê vũ nữ, và cứ theo như luật thì không có gì độc ác bằng đàn bà hoạn thư, cho nên bà ra lệnh cho đóng cửa hết các vũ trường để trả thù.
Thôi con không viết về chuyện này nữa, nếu không con sẽ không có dịp để hỏi Ba câu hỏi ngớ ngẩn đầu tiên của con. Tại sao ngay từ lúc đầu chúng ta lại đi đỡ đầu một chính quyền cầm đầu bởi những người như cái Bà mang danh hiệu là “Rồng Cái” và chồng của bà ta cũng như ông anh chồng của bà ta như vậy? Thí dụ như cách họ giải quyết vấn đề Phật giáo đã làm cho con gặp không biết bao nhiêu là trở ngại. Trong khi chúng con suốt mấy tuần lễ cực khổ tại các cánh đồng ruộng sình lầy để cố giành phần thắng lợi cho cuộc chiến tranh này, thì ở Sài Gòn và các thành phố khác, người ta như muốn làm cho chúng con bị thua. Các binh sĩ Việt Nam trong đơn vị của con ai cũng đeo một tấm vải vàng mà người ta nói đó là miếng vải lấy từ những chiếc áo cà sa mà họ đã dùng để gói xác nhà sư tự thiêu. Họ nói cho con biết, họ làm vậy để tỏ lòng ủng hộ Phật giáo đang có ý lật đổ chính quyền mà họ đang xả thân phục vụ. Còn nữa, các sĩ quan Công giáo và Phật giáo đã không chịu ngồi ăn chung một bàn. Ba thấy có lý được một chút nào hay không? Con thì không làm sao chịu được. Một sĩ quan Việt Nam mà con rất nể phục đã kể cho con biết là Phật giáo đang bị Cộng Sản giật dây, nhưng Trời đất quỷ thần ơi! Hầu như ai ở miền Nam này mà không phải là Phật giáo? Trừ gia đình ông Diệm ra mà thôi, vậy thì chúng ta đang làm cái chó gì ở đây? Đây là câu hỏi ngớ ngẩn cuối cùng của con đó, con hứa như vậy!
Hiện tại tất cả mọi người trong đám chúng con, ai cũng đều vô cùng chán nản, ai cũng nghĩ rằng Hoa Kỳ đang thí thân cho một chính quyền tham quyền cố vị hơn là lo việc đánh đuổi Việt Cộng. Chúng ta đã bỏ một số tiền không nhỏ và đã hy sinh nhiều nhân mạng, nhưng người Việt không tỏ ra một điều gì biết ơn chúng ta hết cả, mà ngược lại. Các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, một số đã tỏ ra là họ không muốn chúng ta có mặt ở nơi này. Con không hiểu tại sao chúng ta không bỏ phứt nơi này đi và cứng rắn với họ hơn. Con có phản đối việc này với chú Guy khi con cùng chú ấy uống nước tại nhà hàng Continental ngày hôm qua, nhưng chú ấy chỉ đáp mập mờ mà thôi. Bằng cách này hay cách khác, dường như chú ấy muốn nói với con, rằng vấn đề này quá phức tạp để giải nghĩa cho một Trung Úy quèn như con. Chú Guy chỉ ngồi được với con độ năm phút rồi hối hả đi lo công việc mà chú ấy cố ý cho con biết là rất quan trọng và bí mật. Không khí ở đây bây giờ như Ba đã đọc biết trên báo là sẽ có đảo chánh và phản đảo chánh.
Mặc dù có rất nhiều điều không được vừa lòng và rắc rối như vậy, con cũng vô cùng ngạc nhiên khi thấy một số sĩ quan Hoa Kỳ ở đây vẫn tin tưởng vào công việc tự nguyện của họ. Rừng rú, ruộng sình trùng trùng cùng những bí ẩn ở nơi này có vẻ như đang đổ trùm và bao phủ chúng con đầy kỳ bí. Việc tình nguyện phục vụ thêm tại đây không còn là một việc hiếm hoi nữa, và con không biết các đồng ruộng kia có thể cám dỗ con được chút nào hay không, nếu có thể nói như vậy.
Có thể vì đã khống thể thấu hiểu được ngọn ngành để thấy cái quốc gia đẹp đẽ này có nhiều quyến rũ quái lạ, nhưng trên hết mọi việc là bất cứ người Hoa Kỳ nào đặt chân lên phần đất đầy xáo trộn này mấy lúc gần đây cũng đều kinh hoàng trước cái thảm cảnh mà họ phải chịu đựng hàng ngày, xem chừng không biết đến bao giờ mới hết được. Bất cứ người sĩ quan nào mà con có dịp trò chuyện với họ cũng đều có những lập luận riêng của mình. Một số cho rằng đây là việc rút tỉa kinh nghiệm rất tốt, một số khác thì cho rằng họ đang kinh hoàng chịu thiệt thòi, nhưng tất cả đều chấp nhận một cách tiêu cực. Đối với con thì diễn biến xảy ra ở Mộc Linh - Chắc Ba có đọc trên báo về tin tức của trận đánh này - Viên sĩ quan đối vấn của con ngay từ đầu là một người rất tốt. Ngay trước khi Việt Cộng tấn công, anh ta có cho biết là anh thù hằn Cộng Sản như thế nào, vì Cộng Sản đã tra tấn và giết cha của anh ấy trong trận chiến tranh với Pháp ngày xưa. Vài phút sau đó thì đôi chân của anh ta bị một quả mìn làm đứt hẳn ra khỏi thân thể của mình, sau đó con khám phá ra Việt Cộng đã bắn một viên đạn thật gần vào màng tang của anh ta để thi ân. Có lẽ vì người sĩ quan này cũng còn trẻ và cùng cấp bậc như con, tuy nhiên vấn đề này lúc nào cũng là trận giặc của riêng con, và khiến con đã quyết định là Cộng Sản sẽ trả giá trận này trong lần tới để con phục hận.
Chắc con sẽ kết thúc thư này cho Ba bằng một chuyện buồn rồi đó, thật tình thì con khâng muốn làm cho Ba có cái cảm tưởng là cuộc chiến tranh này không phải là không thê thảm, con nghĩ chính vì lẽ đó mà con viết thư cho Ba với ý nghĩ rằng, nếu để lâu hơn nữa biết đâu con sẽ không còn có dịp để viết cho Ba, cho nên con xin nói với Ba: Ba, con cám ơn Ba đã biên thơ cho con và con sẽ cố gắng phúc đáp cho Ba nếu như ba muốn viết cho con nữa. Bây giờ thì con đang thèm một hoặc hai chai bia lạnh bên quán cà phê rợp bóng đàng kia. Con xin dừng bút nơi đây.
Lúc nào cũng là con của Ba.
Gary.
Joseph buông tay cầm lá thơ của con xuống đùi, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng tối đen bên ngoài vòng ánh sáng của ngọn đèn để bàn. Gương mặt đầy căng thẳng chừng như phải chịu đựng một nỗi đau đớn đang dày vò trong tâm khảm của mình, nhưng rồi mọi việc đều tan đi. Joseph ngã người nằm dài xuống chiếc trường kỷ, khẽ nhắm mắt lại. Chợt có tiếng cửa bật mở, rồi sau đó có tiếng chân người bước nhẹ dọc theo hành lang. Joseph vẫn nằm yên không buồn quay đầu lại. Một lúc sau đó bóng dáng một cô gái người Á Châu với mái tóc dài, đen xuất hiện trước cửa. Có lẽ vì trời nóng nên cô gái chỉ mặc trên người một cái quần chẽn ngắn và một chiếc áo thun không có tay, chân mang đôi giày săng đan đơn giản.
- Joseph, anh có sao không?
Giọng nói đầy vẻ lo lắng của người con gái, làm Joseph phải mở choàng mắt ra. Bên dưới ánh đèn nhòa nhạt, đôi chân trần của cô gái bóng láng đang bước đến gần phía anh đang nằm. Cô gái dừng lại bên chiếc ghế trường kỷ đưa tay đặt nhẹ lên vai Joseph. Một thoáng chau mày lo lắng hiện lên vầng trán của nàng.
- Anh yên lặng quá, còn nhà thì vắng vẻ.
Giọng nói của cô gái vụt ngắt quãng, cô ta nhìn lá thơ mà Joseph đang cầm trên tay.
- Bộ thư có tin buồn hả?
Joseph lắc đầu, anh để bức thợ xuống cạnh đó rồi đứng lên.
- Không Emerald, anh vẫn thường, đây là thơ của con trai anh, Gary, nó đang ở Việt Nam.
Đứng bên sau Joseph, Emerald trông thật vô cùng nhỏ bé, dáng của người con gái chỉ cao tới ngực của anh mà thôi.
- Vậy em đã không bỏ công lặn lội tới đây.
Vừa nói Emerald vừa nghiêng đầu mỉm cười với Joseph rồi chìa ra một xấp giấy mà nàng giấu đàng sau lưng từ nãy giờ.
- Đây là chương mười một mà em hy vọng giáo sư Sherman sẽ quyết định coi như là một bài bình luận khá hay cho dự án Tiến Sĩ nói về cuộc bạo động ở Đài Loan. Em xin nạp để giáo sư phê chuẩn cho.
Giọng nói tiếng Anh đặc miền Tây Hoa Kỳ không ảnh hưởng chút nào đến nguồn gốc Trung Hoa của người con gái hết, nhưng giọng nói và thái độ của Emerald rõ ràng và nhỏ nhẹ mang đầy tính chất Á Đông khiến Joseph phải mỉm cười đưa tay cầm lấy xấp giấy trên tay nàng.
- Anh phải cười nhiều thêm lên mới được, Joseph à.
Vừa nói Emerald vừa áp sát mặt mình vào ngực Joseph, hai tay ôm chặt ngang hông người đàn ông.
- Anh có vẻ nghiêm khắc và tự nhốt mình, cứ như đời anh chưa lần nào được vui hết cả vậy.
Joseph nhìn thoáng qua đống bản thảo của Emerald rồi đem đến để lên chiếc bàn sơn mài đầy màu sắc cạnh đó, cười giả lả.
- Anh xin lỗi em nghe Emerald, để chút nữa anh sẽ đọc, bây giờ thì anh không làm sao có thể tập trung tư tưởng của mình được cả. Cái thơ đó là cái thơ đầu tiên mà anh nhận được của con trai lớn của anh trong vòng bảy năm nay. Cho nên giờ đây anh không còn đầu óc đâu để suy nghĩ đến điều gì khác được cả.
Emerald bỏ tay ôm Joseph, nàng đưa tay kéo Joseph đến ngồi lên chiếc trường kỷ với mình.
- Thơ đó làm anh buồn lắm phải không? Anh có muốn nói ra không?
Joseph đưa mắt nhìn vào lá thơ mà không biết phải làm gì, Emerald nhanh nhẩu.
- Anh chưa bao giờ nói với em về Gary hoặc đứa con trai kế của anh hết cả. Họ có giống anh nhiều lắm không?
- Anh không có bao giờ nói vơi em về Gary, bởi vì năm nay nó đã hai mươi lăm tuổi, cùng tuổi với em đó.
Joseph cất tiếng nói nhanh và không nhìn tơi Emerald, giọng anh nặng nề, thoái thác. Emerald thì thầm.
- Nhưng có ăn thua gì đâu? Tuổi tác của anh đâu có làm thay đổi được lòng em. Anh hãy nói cho em nghe về Gary đi, nếu như chuyện này quan trọng đối vơi anh.
Joseph cất tiếng nhỏ nhẹ.
- Anh nghĩ, thật khó lòng để cho anh nơi gì về các đứa con của mình, bởi vì anh đã nhận ra rằng chính mình là người chịu trách nhiệm về việc xung đột máu mủ giữa cha con anh. Ngay khi chúng vừa mơi lớn, anh cũng đã không dành được nhiều thì giờ để gần gũi vơi chúng, vì lúc đó anh chỉ lo đi khắp Á Châu. Chừng chúng nó lớn lên, đi học ở đây, đầu óc anh vẫn lo cho công việc nhiều hơn là lo chuyện gia đình. Sau dó thì anh rơi bỏ vợ và các con của anh, coi như hoàn toàn không có anh trong đời sống hàng ngày của họ, kể từ khi các con anh còn vị thành niên. Khi chúng lớn để có thể nghĩ được chúng sẽ phải làm gì trong tương lai thì vẫn không có anh. Phải mất gần hai năm trường, anh mới nhận thức được rằng anh đã bỏ bê chúng nó tệ hại như thế nào, cho đến một hôm, anh nhận được thư của vợ anh viết báo tin cho anh biết là Gary đã quyết định chọn vào học trường Võ Bị West Point và Mark thì có ý định sẽ trở thành một phi công trong Không quân và anh thì nghe máu chảy về tim đau đớn.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì đó là điều mà anh muốn cho các con anh thực hiện khi chúng lớn lên. Cha của anh, ngay từ lúc anh còn bằng tuổi của chúng nó đã nài ép anh theo võ nghiệp, trong khi đó anh hết sức phản đối để được sống theo ý mình. Vợ anh lúc đó, sau khi ly dị với anh, nàng đã vội vàng lấy chồng khác, một vị Đại Tá làm việc trong Ngũ Giác Đài, và anh chợt nghĩ như vậy chẳng hóa ra hay vì với ảnh hưởng của ông Đại Tá đó, hay ít nhứt cũng từ đó cái dự tính của cha anh bắt đầu nẩy nở trong đầu óc của anh.
- Vậy anh đã làm được điều gì?
- Anh đã viết thơ cho Gary và Mark để xin gặp chúng gấp. Mark đã thẳng thắn từ chối lời yêu cầu của anh, hai đứa con của anh đã xem việc anh bỏ rơi mẹ con chúng là một hành động mà chúng không thể tha thứ cho được. Mark đã dứt khoát với anh trong khi Gary đồng ý gặp anh, và anh đã đáp phi cơ xuống Hoa Thịnh Đốn vào một dịp cuối tuần để gặp nó.
- Và việc đó có hàn gắn được sự rạn nứt không?
Joseph lắc đầu.
- Ngược lại, cha con anh thiếu điều muốn giết nhau. Trong lần viếng thăm lại Bảo Tàng Viện của gia đình đó, cuối cùng Gary đã nói thẳng cho anh biết sự thật và mỗi lần nghĩ đến, anh vẫn còn nghe đau khổ vô cùng.
- Vậy lá thơ hôm nay cũng làm cho anh đau lòng lắm phải không?
Joseph thở dài.
- Không hẳn như vậy. Cách đây vài tháng anh đã liều viết cho nó một lá thư, sau khi Phật Giáo ở miền Nam bắt đầu có việc lộn xộn. Gary được bổ nhiệm qua bên đó vào đầu năm nay, và anh không thể nào không ngớt suy nghĩ là nó sẽ bối rối biết chừng nào trước tình cảnh đó, cho nên anh đã viết cho nó một vài cảm nghĩ mà anh biết, với hy vọng giúp được cho nó khi phải cô đơn ở xứ người và nếu như anh dám thẳng thắn nói ra thì với lá thơ đó anh cũng hy vọng sẽ giúp cho anh giãi bày nỗi lòng của anh cho nó hiểu. Anh cũng đã có lúc nghĩ rằng, con anh sẽ không bao giờ trả lời thư cho anh đâu.
- Nhưng anh ấy đã viết thư cho anh rồi đó. Vậy chuyện giữa hai người bây giờ đã tốt đẹp hơn rồi phải không?
- Có thể có chút ít, nhưng nó vẫn còn dè dặt trong thái độ của nó lắm.
Emerald bóp nhẹ tay Joseph, đoạn tuột bỏ đôi xăng đan dưới chân và đi chân không, bước nhanh vào nhà bếp. Joseph nghe có tiếng khua động của các bình pha rượu, anh đưa mắt nhìn xuống những dòng chữ trên tờ báo nói về cuộc tấn công vào các chùa chiền. Joseph cầm tờ báo lên đọc lại. Lúc Emerald đem ra hai ly Martini thì Joseph cầm lấy một ly đưa lên miệng uống, mắt vẫn không rời tờ báo và chăm chú đọc bài báo nói về phản ứng của Hoa Thịnh Đốn trước tình hình hiện tại của Việt Nam và anh không để ý Emerald đang chồm người xuống cởi nút áo và đưa tay vào xoa lấy ngực của mình.
- Ngồi tại Cornell này mà lo lắng thì cũng không làm thay đổi được chuyện gì xảy ra cách đây nửa vòng trái đất đâu Joseph.
Emerald thì thào đưa môi mím nhẹ vào vành tai của Joseph.
- Hãy quên những chuyện đó một lúc đi. Em phải chờ đợi anh suốt cả ngày mới gặp được anh, thôi hãy vô giường đi anh.
Joseph miễn cưỡng bỏ tờ báo xuống, uống cạn ly rượu của mình rồi để cho Emerald giúp anh cởi áo ngoài và để nàng nắm tay kéo vào buồng ngủ. Khi hai người cùng bỏ hết áo quần trên người, Joseph ngã người nằm dài trên chiếc giường làm bằng gỗ nu, đưa mắt nhìn lên trần nhà, để mặc cho Emerald xoa bóp khuôn ngực trần của mình, dần dần bàn tay của Emerald đưa lần xuống phần dưới thân thể của Joseph.
- Thân thể của anh không khác gì thân thể của một thanh niên. Em không hiểu tại sao anh lại đi lo lắng việc em bằng tuổi của Gary làm gì.
Emerald thì thầm bên tai Joseph, đồng thời cầm lấy tay của Joseph đặt xuống phần dưới bụng của mình, hơi thở nàng dồn dập.
- Ching Ping Mei đã nói cho chúng ta biết là chúng ta không nên bận tâm đến điềm gở của đám quạ đen phải không? Một khi Thiên Long đã vào lầu ngọc thì có phải sách đã dạy mình không nên nghĩ tới điều gì nữa, phải không?
Emerald ôm chầm lấy Joseph và tung mình lên trên thân thể của Joseph. Chừng Joseph đưa tay ôm choàng lấy nàng vào lòng thì Emerald khẽ khép mắt lại, toàn thân nàng hòa nhịp với cử động của Joseph, nhưng bỗng nhiên Joseph bỏ dở. Emerald mở mắt ra, bắt gặp Joseph đang nhìn mình bằng một cặp mắt đầy xa vắng, anh cất tiếng.
- Emerald, anh xin lỗi em, anh không thể…
Joseph lẩn tránh người khỏi thân thể của Emerald đoạn vói tấm khăn mỏng đắp lên thân thể của mình. Emerald cất tiếng thổn thức và tức giận.
- Joseph, chuyện gì vậy? Khi anh nhìn em như thế này, đôi lúc em tưởng chừng như anh đang nhìn suốt qua thân thể của em, coi như em không có mặt ở đây vậy, tưởng chừng em không có ở đây.
Emerald tiếp tục đưa mắt nhìn Joseph lúc này đã ngồi lại lên giường và không đáp lời nàng.