MƯỜI MỘT
Nằm trằn trọc bên cạnh Emerald đang ngủ vùi, Joseph mơ màng chợt nhớ lại ngày hôm đó. Một ngày hè oi ả khác thường tại Hoa Thịnh Đốn. Trời nóng đến một trăm độ, trong lúc đó nhiều đám mây ẩm hơi nước bay là đà trên thành phố Joseph còn nhớ rõ lưng áo mình ướt đẫm mồ hôi, anh cũng nhớ rõ cả chiếc tháp nhọn đài kỷ niệm Tổng Thống Washington cũng bị mây che phủ phần trên khi anh ngồi trên taxi từ phi trường về viện bảo tàng Sherman. Theo lời đề nghị của Gary, Joseph về đây thăm con để tránh không phải đến căn nhà ở Maryland, nơi mà Gary và Mark cùng ở với Tempe và người chồng sau này của nàng, và cũng để khỏi phải bị sự can thiệp của thượng nghị sĩ và mẹ của Joseph tại ngôi nhà lớn ở Georgetown.
Khu bảo tàng viện lúc này được đóng cửa để tu bổ và trang hoàng lại. Gary đã lễ phép đón Joseph từ ngoài cửa. Joseph còn nhớ tiếng chân của hai cha con anh vang động khắp đại sảnh và gương mặt của Gary lúc bây giờ bắt đầu ánh lên những vẻ bối rối, khi chợt khám phá ra mình đang ở bên cạnh người cha mà đã từ nhiều năm nay anh chưa lần nào tiếp xúc. Tại gian hàng bán cà phê, lúc đó vẫn còn mở cửa để phục vụ những người tu bổ lại nơi này, hai cha con đứng lại đây để dùng cà phê và trao đổi một vài chuyện vụn vặt. Sau đó Gary dẫn cha đi xem những khu trưng bày được tu bổ và trang hoàng lại thật sáng sủa. Khi hai người đi ngang qua khu tưởng niệm Chuck, Joseph chợt nhận ra cái cơ hội mong manh mà hai cha con anh gặp nhau tại đây chẳng qua là một sự định sẵn từ trước mà anh đã thiếu đắn đo nên chọn nơi này.
- Ba đã không tới khu này mười lăm năm qua rồi.
Joseph khởi đầu câu chuyện, nhưng vừa nói xong anh chợt nghe ân hận về những lời nói của mình.
- Tại sao lại không tới?
Joseph ngần ngừ khi nhận thức được những lời giải thích của mình về sự thật lúc này sẽ không giúp được sự thể một chút nào.
- Ba đã hết sức phản đối với ông nội của con về việc trưng bày các con thú ở đây.
- Ba muốn nói tới các con thú do bác Chuck bắn hạ phải không?
Giọng nói của Gary tưởng chừng vô cùng xa vắng và hời hợt, khiến Joseph nghĩ, không biết mình có nên khôn khéo để khỏi giải thích thêm điều này hay không, hai người đi ngang qua tấm bảng có lồng kính, ghi chi tiết của các con thú bị giết được ở Nam Kỳ cách đây hơn ba mươi năm trước. Anh cũng nhận thấy là nhờ vào sự chăm sóc kỹ lưỡng và thường xuyên, cho nên con trâu cổ và con bò mộng xấu xí giờ này vẫn trông còn như sống thật không khác gì khi chúng rong từng đoàn tại các cánh rừng rậm bên cạnh sông La Ngà. Các khung kính được sơn phết lại cũng như tất cả một thứ chung quanh đều được chỉnh trang lại khiến cho khu trưng bày vô cùng lộng lẫy. Lòng Joseph chợt vùng lên cơn kinh hoàng mới toanh khi nhìn thấy cặp sừng giết người của con bò mộng đã đâm lút vào người Chuck cho tới chết. Joseph quay mặt đi nơi khác thì gặp Gary đang nhìn mình chăm chú.
- Tại sao ba lại nghĩ việc trưng bày tại nơi này là không phải?
Gary cất giọng nhỏ nhẹ hỏi cha, tưởng chừng như anh đã thấy được sự bối rối của cha mình.
- Hồi đó, với lứa tuổi còn nhỏ, ba đã không thích đi săn một chút nào, Gary à. Ba nghĩ rằng cái khu trưng bày để tưởng niệm cái thể thống của gia đình Sherman này không thích hợp và sai lạc. Tất cả chúng ta đã cùng chịu chung một số phận là nạn nhân của cái mặt trái lố lăng nhứt về thiên bẩm của mình. Cao thiên đã biết rõ là chúng ta lúc nào cũng bị cái ảo tưởng phải chiến thắng bằng bất cứ giá nào, và lúc nào cũng lo sợ sự tự cao tự đại của mình sẽ đẩy đưa đàn ông chúng ta vào những cái thừa mứa tầm thường. Khu trưng bày này đối với ba là một bằng chứng nhắc nhở sự thái quá của nam tính mù quáng mà thôi.
Gary im lặng lắng nghe lời nói của cha, mắt anh đầy vẻ khó hiểu.
- Vậy ba đã nói những điều này với ông nội rồi chứ? Nói trước mặt ông nội?
- Có lẽ ba đã không nói hết những điều này với ông nội con. Không, chắc con cũng biết là ba và ông nội đâu có gần gũi nhau nhiều.
Lúc bấy giờ Gary quay đầu đi nơi khác. Một sự im lặng nặng nề bao trùm lấy hai người, nhưng chính sự kiện này đã giữ chân hai người trước khu tưởng niệm và Joseph chợt thấy con đang suy nghĩ một điều gì. Rõ ràng sẽ không còn phương cách nào để ngăn chặn con trước hai sự kiện giữa sự thù hận của con và việc cãi vã với Thượng nghị sĩ Sherman của mình. Trong lúc túng cùng, Joseph đành quyết định cố tìm cách hòa hoãn, anh cất giọng nhỏ nhẹ.
- Khi được tin con quyết định vào West Point, ba không làm sao quên được lúc ba ở vào tuổi của con bây giờ. Ông nội của con đã tìm cách để bắt buộc ba chọn lấy binh nghiệp. Ba chống đối, vì ba biết rõ đây không phải là con đường đúng cho ba, nhưng ba nghĩ vì ba không ở gần bên con những năm sau này, nên ba lo rằng con có thể chịu nhiều ảnh hưởng của ông nội con, hay ít nhứt con cũng bị ảnh hưởng với người cha kế của con, cho nên ba muốn hỏi xem con đã suy nghĩ chín chắn về vấn đề này chưa hở con? Con có thể chọn lựa nhiều vấn đề khác phù hợp với con hơn. Quân đội không phải là con đường mà ba muốn tiến thân trong thời bình.
Joseph đã không còn đủ bình tĩnh để giữ giọng đang thật khẩn thiết của mình, anh nhìn lên khuôn mặt đầy vẻ khó chịu tràn ngập trên khuôn mặt trẻ con của con, lòng tràn đầy thất vọng.
- Con không như ba đâu. Con không giấu giếm tình cảm của mình, cho nên ba hãy để cho con hỏi ba một việc. Ba nghĩ lại xem, ba có quyền gì để đến đây can thiệp vào đời sống của con. Ba đã bỏ rơi con, ba còn nhớ không? Ba bỏ rơi con để ba có dịp đeo đuổi những lý do riêng tư của mình. Ba đã bỏ mặc mẹ con chúng con làm sao thì làm. Ba đã quá bận rộn với các thứ thiếp Á Đông của ba chớ có còn thì giờ đâu để bận tâm đến con và Mark? Vậy thì bây giờ vì lý do gì bỗng dưng ba lại quan tâm đến chúng con?
- Mẹ con đã kể cho chúng con nhiều đến chừng nào về vấn đề này?
- Không nhiều lắm, nhưng đủ để Mark và con nghĩ nhiều về những sự kiện mà ba đã dành cho mẹ. Mẹ nói ba chưa bao giờ để ý đến gia đình, và mẹ đã nói đúng. Con muốn có một người cha mà không phải lúc nào nói chuyện cũng chực chờ nước mắt tuôn tràỏ. Nhưng bằng cách này hay cách khác, ba lúc nào cũng làm cho con và Mark có cái cảm tưởng là chúng con không đúng, khi ba bỏ thì giờ quý báu của ba để nói chuyện với con.
- Có khi nào con nghĩ tới những lúc sau này ba đã đổi thay ít nhiều, như việc ba đã ân hận về những điều ba đã làm không?
Bỗng dưng Gary cất tiếng cười thật lớn. Tiếng cười làm vang động khắp các khu vực hành lang, dội vào những khu vực trống trải chung quanh Viện Bảo Tàng.
- Chuyện đó con không thể nào tin tưởng được, không thể nào có thể xảy ra được. Ba vẫn không thay đổi chút nào. Ba vẫn ích kỷ. Ba làm sao biết được điều gì quan trọng mà con mong muốn thực hiện cho cuộc đời của con? Không phải là những điều mà ba muốn con làm đâu.
- Nói theo ý của con thì con càng làm cho ba khó xử thêm hơn. Có lẽ rồi đây, một ngày nào đó con sẽ ước ao làm lại những việc khác hơn với thái độ của con bây giờ.
Gary lạnh lùng trả lời.
- Nếu như bây giờ ba đã biết là ba đã đi lầm đường, thì chuyện đó cũng không cứu vãn được gì đâu. Ba đừng mong mỏi mua chuộc được tình cảm của chúng con. Mark nó đã nói rất đúng. Ba không đáng để cho nó nói chuyện.
Nói xong Gary quày quả bước đi, bỏ một mình Joseph đứng lại trong đại sảnh trước khu vực tưởng niệm Chuck. Joseph đưa mắt nhìn xuống cặp sừng cong, nhọn của con bò mộng và chợt rùng mình. Đôi mắt bằng thủy tinh của con vật tạo nên một vẻ hung dữ khác thường khiến Joseph có cảm tưởng như toàn thể khu vực triển lãm vắng vẻ này không khác gì một nấm mồ hoang vắng. Anh lặng lẽ rời Viện Bảo Tàng, thẫn thờ bước đi dưới cơn nóng của buổi chiều với tấm lòng sầu khổ, đơn đau.
Dòng ký ức cô đơn vừa qua, làm Joseph nhớ lại bức thơ của con mà anh vừa nhận được lúc ban chiều. Tất cả dồn dập vào tâm tưởng khiến Joseph nghe thống khổ dâng đầy. Anh biết mình không thể nằm lại trên giường này được nữa nên khẽ bước ra khỏi phòng ngủ, cố tránh làm Emerald đang say sưa trong giấc ngủ bên cạnh đó khỏi thức giấc. Joseph khoác lên người chiếc áo ngủ Kimono, xỏ chân vào đôi dép mỏng và lặng lẽ bước ra khỏi phòng. Tại phòng khách, cũng là nơi làm việc, Joseph bước tới cầm bức thư mà anh để đó từ chiều hôm trước đi thẳng đến chiếc bàn bằng sơn mài của Trung Hoa ngồi xuống. Lúc đưa tay vặn ngọn đèn để bàn, chiếc đồng hồ cạnh đó chỉ ba giờ sáng. Joseph đưa tay dụi lên đôi mắt mệt mỏi của mình, vuốt lại mái tóc xõa rồi kéo bức thư của con ra đọc lại thật nhanh, đoạn cầm tờ giấy và bắt đầu viết thư cho con.
Gary thân mến của ba,
Ba không biết nói làm sao để con hiểu được, là ba rất mừng khi nhận được thư của con chiều hôm nay. Đã nhiều năm qua rồi, ba đã vô cùng khổ sở khi nghĩ đến việc mà ba đã làm cho con và Mark giận ba, và trong thời gian qua, điều mà ba ao ước nhất trên đời này là làm sao ba có thể hàn gắn được những rạn nứt trong lòng của các con. Ba đã bỏ rất nhiều thì giờ để ăn năn hối lỗi, nhưng cũng như con đã nói, những lá thư như thế này không phải là nơi để chúng ta có thể trút bỏ được những điều lầm lỗi của mình. Con hãy để cho ba được nói với con, là lúc nào ba cũng nghĩ tới các con, nhớ đến các con hơn bao giờ hết khi lá thơ của con đến cùng một lúc với tờ New York Times đăng tin về các cuộc bố ráp các chùa chiền Phật Giáo ở bên đó. Ba đã hết sức kinh hoàng trước tin tức này, và đã vô cùng cảm động trước những cảm tưởng của con đối với Việt Nam. Cả hai đều đã làm cho ba không ngủ yên được và cũng không thể suy nghĩ gì được cả. Ba vừa thức giấc nửa đêm để viết thư này cho con.
Tay viết của Joseph thoăn thoắt trên tờ giấy, anh cặm cụi trên bàn viết nên đã không để ý đàng sau lưng mình, trong phòng ngủ, Emerald đã thức giấc. Thân thể để trần, nàng đứng dựa cửa phòng ngủ nhìn Joseph một lúc rồi khẽ bước qua căn phòng tối mù mờ bên cạnh đó. Thỉnh thoảng Emerald dừng lại, đưa tay sửa các bức tượng bằng cẩm thạch, và bằng sứ. Nàng đưa tay sờ các bức tranh lụa treo trên tường.
Ba nghĩ rằng hiện tại ba quá mù mờ nên không biết phải nói với con như thế nào, nhưng thôi để ba bắt đầu một chút về chuyện không liên quan tới bản thân của mình trước, để trả lời câu hỏi tại sao chúng ta lại đỡ đầu, như chữ của con, cho gia đình họ Ngô. Câu chuyện là một câu chuyện buồn và đầy ân hận mà ba biết được, bởi vì có một thời gian ba đã dính líu vào. Khi ba bỏ rơi mẹ con của con thì có nhiều chuyện xảy ra cùng một lúc. Có thể sau này nếu có dịp ba sẽ kể cho con nghe, nhưng ngay sau khi ba quyết định, không phải là vội vàng đâu, bỏ nghề làm báo cũng cùng một năm đó để trở về Hoa Kỳ tự ẩn dật, cố xa lánh Á Châu càng lâu càng tốt để dấn thân vào thế giới học hành ở nơi này. Nhưng sự trốn chạy này của ba vẫn không làm cho ba trút bỏ được trong đời sống của mình, và ba đã không sống yên được tại trường Đại Học Cornell này. Khi tiểu bang Michigan mời ba tham dự vào một chương trình do chính phủ tài trợ vào năm 1956 để tạo lập nên một cơ cấu chính quyền tân tiến cho ông Diệm thì ba nhận lời và trở lại Sài Gòn với nhiệt tâm cố góp phần vào để làm một cái gì tốt đẹp tại đó, nhưng không bao lâu thì giấc mộng đó bị đổ võ.
Joseph ngừng tay viết dựa người ra sau ghế. Đầu óc anh đặc quánh không còn suy nghĩ được điều gì rõ ràng. Anh biết là trong suốt sáu tháng trường làm việc tại Sài Gòn với thâm tâm mong tìm kiếm lại được đứa con gái của mình là Tuyết mà không có kết quả gì và Joseph đã vỡ mộng. Qua lần gặp gỡ Gary tại viện bảo tàng, Joseph đã nghĩ rằng chắc chắn Tempe đã không nói gì với con về sự có mặt của Tuyết trong cuộc đời của anh, và Joseph biết động cơ thúc đẩy để anh trở lại Việt Nam là vì lòng anh lúc nào cũng mong muốn tìm lại được đứa con gái của mình. Joseph đã bàng hoàng khi biết trong một đêm nào đó của năm 1954, Tuyết đã biệt tích không còn để lại dấu vết gì. Trần Văn Tâm đã cho Joseph biết, là Tuyết đã tham gia vào kháng chiến. Tuyết cũng báo cho Tâm và gia đình của Tâm biết là Tuyết đã lấy một cán bộ Việt Minh, và với tất cả ý định cũng như lý do riêng của mình, Tuyết đã đi mất. Khi khám phá ra được điều này, Joseph cũng nhận ra những kỷ niệm về cái thành phố Sài Gòn càng ngày càng chồng chất, khiến anh càng đau khổ thêm gấp bội phần, đã vậy mỗi lần Joseph phải đi ngang khách sạn Continental Palace thì Joseph đã không làm sao cầm lòng được cái ký ức kinh hoàng lúc chính mắt anh chứng kiến cái chết tức tưởi của Lan và ông Hiếu bên vệ đường, vì vậy Joseph muốn rời khỏi cái thành phố này và sẽ không bao giờ trở lại đó nữa.
Một tiếng sột soạt gần đó làm cắt đứt dòng tư tưởng của Joseph, anh quay đầu nhìn thấy Emerald đang đưa tay vơ chiếc áo ngủ màu xanh được phủ lên một pho tượng lớn bằng sứ. Biết Joseph đang nhìn mình, Emerald nhoẻn miệng cười rồi khoác chiếc áo đó lên người, đoạn đưa hai tay ôm chặt làn tơ mịn vào sặt thân thế.
- Joseph, anh biết không, một đôi khi em không làm sao dứt bỏ được cái ý nghĩ rằng em chỉ là một trong các thứ mà anh sưu tập ở đây thôi.
Emerald cất tiếng phàn nàn, nhưng không có vẻ gì trách móc, nhưng đôi môi nàng thoáng run run, tưởng chừng như sắp khóc. Trong chiếc áo choàng lóng lánh, gương mặt của Emerald ánh lên những đường nét Á Đông thuần túy, hai gò má mũm mỉm rõ ràng. Joseph ngẩn ngơ nhìn Emerald một lúc lâu mới lấy lại thần trí, anh cất tiếng nhỏ nhẹ.
- Em hãy đi ngủ trở lại đi, anh phải viết cho xong cái thơ này.
- Không có anh, em không ngủ được.
- Em hãy cố gắng một chút.
Joseph đáp lời rồi đưa mắt nhìn theo bóng dáng của Emerald đang thẫn thờ bước vào vùng bóng tối trong căn phòng. Sau cùng anh quay lại tờ giấy trên bàn. Tay viết lại bắt đầu chạy đều trên trang giấy.
Sau cùng ba nhận ra nhóm Michigan State không phải hoàn toàn như ba nghĩ. Nhóm này có cả thảy năm mươi giáo sư. Một vài người lo soạn thảo Hiến Pháp và các phương thức cho công chức, trong khi đó một số lớn những người còn lại thì lo các công việc Tình Báo, lo chuyển súng đạn, vũ khí cho một đơn vị Cảnh Sát Đặc Biệt mà họ đã huấn luyện cho ông Ngô Đình Nhu, tương tự như FBI của chúng ta. Họ cũng tăng cường thêm lực lượng Cảnh Sát, và công việc áp đảo chính trị dường như là nhiệm vụ chính yếu của phái bộ này. Sau cùng thì mọi mưu tính của nhóm này càng lúc càng lấn áp hết các công việc mà đáng lẽ dành cho vấn đề thành lập các thể chế dân chủ, vì vậy cho nên sau sáu tháng làm việc với họ, ba đã xin từ chức.
Ba chưa bao giờ có cảm tình với ông Diệm. Ông Diệm không có tính độc ác như người em là ông Nhu. Ông Diệm không bao giờ có ý nghĩ muốn làm giàu cho riêng mình, nhưng ông ta lại ngoảnh mặt làm ngơ trước cảc việc tham nhũng để chỉ lo đến việc nắm được quyền hành mà thôi. Ông ấy sống cách xa mọi người một cách lạnh lùng. Là một người khó lay chuyển, khư khư với truyền thống của Khổng Giáo nên ông đã phải làm ngơ trước những hành động không phải của em mình, và bà em dâu thì làm lũng đoạn sự gần gũi với quần chúng của ông ta. Ba có thể nói rõ ràng thêm với con về ông Diệm ở một điểm là ông ta là nạn nhân của sự tàn ác và tham quyền quá độ của gia đình, nhưng điều này có thể dễ dàng tha thứ.
Để nói chuyện về việc khinh lờn của một vài người lính Việt Nam Cộng Hòa, việc này không làm ba ngạc nhiên chút nào. Người dân miền Nam Việt Nam, như con đã thấy đó, họ theo tập quán cổ truyền với đời sống thảnh thơi dễ dàng ở vùng đồng bằng phì nhiêu và kết quả là họ không giống như những người Việt Nam khác ở tại các vùng sỏi đá ở miền Trung và miền Bắc. Dân miền Nam cũng bị thuộc địa hóa dễ dàng hơn, và họ đã hợp tác mật thiết với người Pháp nhiều hơn, cho nên họ đã tạo cho mình cái ý muốn tranh đua với chủ nhân ông của họ, thí dụ như các sĩ quan người miền Nam, họ có đầu óc phân biệt giai cấp hơn bất cứ ai ở vùng Đông Nam Á này, nhưng cũng cùng lúc đó họ lại có ý tưởng lưng chừng ép buộc vào cái thế coi thường các chủ nhân ông người ngoại lai - lần trước là người Pháp, bây giờ là người Hoa Kỳ - dù người ngoại lại này có đem lại cho họ cơm no áo ấm và cho họ cái đặc quyền và ý chí đạt tới địa vị cao cũng vậy. Ba không biết những điều ba vừa viết cho con có giúp ích được gì cho con trong việc tiếp xúc với người Sĩ quan đối vấn Việt Nam Cộng Hòa của con lần kế tiếp đây không, khi hai người cùng ở giữa làn đạn địch bay khắp đồng ruộng ở bên đó. Ba hy vọng nó sẽ giúp ích con ít nhiều.
Joseph ngừng tay, anh cầm bức thư của con lên đọc lại đoạn mà Gary tả về cái chết của người Trung úy Việt Nam Cộng Hòa. Joseph đọc đi, đọc lại thật chậm đoạn thơ này nhiều lần, gương mặt anh hằn lên những đau đớn khôn cùng. Anh để lá thư lại xuống bàn, đưa mắt nhìn vào vùng bóng tối trước mặt một lúc thật lâu rồi cầm viết lên ngồi lặng yên một lúc trước khi viết tiếp.
Việc con kể cho ba nghe về cái chết của viên Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã làm ba vô cùng cảm động và đã khiến cho ba nghĩ đến cái kỷ niệm đau buồn tương tự như vậy trong cuộc đời của ba. Ba có thể đoán được con đã buồn khổ như thế nào. Gom chung lại những sự việc đó, ba muốn nói cho con biết là ba rất hiểu và có rất nhiều cảm tình về những điều mà con đã viết trong thơ cho ba, nó càng làm cho ba bị lôi cuốn nhiều thêm hơn về cái quốc gia và dân chúng ở đó. Ba phải chọn lựa cẩn thận từng chữ ở đây mới được, vì ba biết con rất nhạy cảm trong việc ba “can thiệp’’ vào đời sống riêng tư của con (Ba đã học được bài học này đã lâu và sẵn đây ba cũng phải nói, là ba rất khâm phục sự can đảm của con trong việc quyết định cho cuộc đời của mình với sự chọn lựa binh nghiệp mà con muốn, và ba rất mừng khi thấy con đã vượt được lên hết mọi thường tình trong vấn đề này). Ba không thể chấm dứt lá thư này mà không cẩn thận dùng lời lẽ để khỏi đánh mất đi cái lòng tốt của con. Ba đã lợi dụng cơ hội rồi đó! Và ba sẽ lợi dụng để phá lệ một lần nữa, để nói với con về việc ba tự trút bỏ gánh nặng của mình và ba sẽ có thề viết thêm rằng tay ba hiện đang run rẩy khi viết ra những điều này. Điều đã đẩy đưa ba làm đổ vỡ gia đình mà ngay lúc này ba tiếc nuối hơn bao giờ hết. Hồi đó ba đang ở vào khoảng tuổi của con bây giờ và ba đã có một affaire de coeur tại Việt Nam. Ba đã yêu một người con gái, con của một ông quan đại thần ở đó. Tên của cô ta là Lan, và trong một phút vội vàng ba đã hỏi cưới cô ấy. Cô ấy đã bằng lòng, nhưng sau đó lại đổi ý vì lòng hiếu thảo của mình đối với cha. Ba đã cố gắng để quên người đàn bà đó và sau này ba đã gặp và cưới mẹ của con, rồi do một tình cờ, ba trở lại Sài Gòn vào những ngày cuối cùng của trận thế chiến vừa qua, lần đó ba gặp lại người đàn bà đó.
Joseph lại ngưng tay viết, anh đưa tay áo Kimono gạt lên trán và chợt thấy lòng bàn tay mình cũng ướt đẫm, Joseph chập hai tay vào nhau một lúc.
Ba chưa bao giờ có ý nghĩ là ba sẽ viết cho con về chuyện này, cũng như ba không bao giờ dám nghĩ là ba sẽ kể cho con, khi con ở trước mặt ba được. Điều làm cho ba ngạc nhiên nhứt là sau khi ba gặp lại Lan, ba mới khám phá ra là ba đã có một đứa con gái với Lan mà từ trước tới lúc đó ba không hề hay biết. Đứa con gái đó là chị của con, tên của chị con là Tuyết. Lúc đó chị của con đã được tám tuổi và được lén lút giao cho một gia đình Việt Nam khác nuôi dưỡng trong một hoàn cảnh vô cùng bi đát. Từ đó về sau, không lúc nào ba xua được ý nghĩ trong đầu mình về cái ý tưởng là mình đã không làm tròn bổn phận với đứa con này. Có lẽ điều bận tâm này của ba mà có lần con đã cho rằng trong mắt ba lúc nào cũng chực chờ nước mắt. Không, đó chỉ là nỗi bận lòng của ba mà thôi con à. Ba cũng chùng tay viết khi muốn nói thêm với con rằng: Ba không muốn kể chuyện này ra cho con với dụng ý làm cho con thay đổi thái độ đối với ba đâu. Trở lại câu chuyện khi ba rời bỏ mẹ con, ba lúc đó hy vọng là sẽ cưới được Lan và sẽ đem được chị của con về sống chung với nhau. Nhưng biến cố lại xảy ra, Lan bị chết, Tuyết lại từ chối lời đề nghị về ở với ba. Từ đó cho đến nay, ba chưa lần nào gặp lại Tuyết nữa. Lần đến Sài Gòn vừa qua, ba cũng cố tâm tìm kiếm tung tích của Tuyết, nhưng vẫn không được may mắn nào cả.
Tất cả những điều đau khổ trên đây mà ba muốn viết ra cho con biết, đương nhiên là ba không có chút hãnh diện nào khi viết ra những điều này. Lý do mà ba kể ra đây cho con là để cho con thấy ý của ba muốn giải quyết thẳng sự hiềm khích ở trong lòng của con đối với ba mà thôi. Ba cũng hy vọng là trong tương lai, ba cũng sẽ có được cơ hội để giãi bày với em của con nữa. Con có thể nghĩ rằng tình thương của một người cha như ba sẽ không xứng đáng gì hết cả, nhưng nó hiện hữu và có thật, mãnh liệt hơn bao giờ hết, cho nên ba hy vọng con sẽ chấp nhận nỗi lòng đơn thuần này của ba trong lòng của con, ba đã cố gắng trút hết nỗi lòng của mình vào lá thơ này. Bây giờ là bốn giờ sáng, ba nghĩ là ba cần uống một ly rượu mạnh, cho nên từ đây cho đến ngày nhận được tin của con nữa, con hãy bảo trọng.
Joseph suy nghĩ một lúc trước khi chấm dứt lá thơ bằng cách viết thêm vào bên dưới.
Thương con thật nhiều. Ba.
Đẩy lá thơ ra trước mặt, Joseph đưa tay lên dụi mắt rồi đứng lên đi về phía nhà bếp. Vừa rời khỏi bàn viết thì Emerald từ trong vùng bóng tối của căn phòng bước vội tới bàn viết. Nàng đưa mắt đầy đau khổ nhìn theo Joseph rồi đưa tay cầm lên một khung hình áp sát vào chiếc áo choàng bằng lụa trên người rồi vội vã bước theo Joseph đến trước mặt anh chận lại.
- Joseph, ngay từ lúc đầu, mỗi lần em đến đây, em nghĩ em là người hạnh phúc nhất trên đời này, nhưng bây giờ em biết là mình đã lầm.
Thình lình Emerald xoay ngược tấm hình trong khung ảnh đưa về trước mặt Joseph.
- Phải đây là người mà anh đã nghĩ tới khi cặp mắt của anh khác thường không?
Joseph nhìn vào tấm hình của Tuyết một lúc và không nói gì cả.
- Nếu không thì tại sao anh lại úp tấm hình này trong hộc bàn?
- Đó là con gái của anh.
Nói xong Joseph đưa tay cầm lấy tấm hình trên tay Emerald.
- Anh gặp nó lần cuối cách đây chín năm rồi. Anh vô cùng đau khổ khi phải nhìn thấy nó hàng ngày như thế này.
Joseph từ từ đem đặt khung hình vào học bàn như cũ. Lúc quay trở lại anh còn thấy Emerald vẫn đứng nguyên chỗ cũ, cúi đầu xuống sàn nhà. Thình lình đôi vai nàng run run. Emerald đưa hai tay ôm lấy mặt. Joseph đứng bên cạnh bàn nhìn vào gương mặt nhợt nhạt của Emerald, anh vẫn đứng tại nơi này cho đến khi Emerald mặc lại áo quần và ra về. Khi tiếng xe của nàng mất hút vào đêm tối. Căn phòng trở lại hoàn toàn yên tĩnh, Joseph quay sang nhìn lá thơ anh vừa viết cho con mình, gương mặt anh vụt thoáng lên một chút áy náy khi nghĩ đến những dòng cuối trong lá thơ, Joseph khép mắt lại, đứng yên một lúc lâu, sau cùng anh mở choàng mắt ra và đưa tay cầm lấy mấy trang thơ xé ra từng mảnh vụn quăng vào sọt rác cạnh đó.