← Quay lại trang sách

BA

Trong lúc người con trai kế của Joseph Sherman đang thiếp người trong phòng giam tại một khám đường u tối ngoài Hà Nội, thì Joseph đang thẫn thờ bước đi bên dưới đường phố mờ tối tại Sài Gòn, tâm trí cố quên đi những hình ảnh trong quá khứ đang thường xuyên ám ảnh trong trí não mình. Joseph trở lại cái Thủ Đô miền Nam này sau mười hai năm không hề đặt chân đến, và mặc dù bộ mặt của cái thành phố này bây giờ đã đổi thay rất nhiều với các cảnh tượng ồn ào và nghịch thường của các nỗ lực dồn hết cho chiến tranh mà Hoa Kỳ đang thực hiện tại đây, nhưng những tình cảm của một thời xa xưa vẫn bùng dậy mãnh liệt trong lòng anh, dù thời gian qua có làm nhòa đi với đời sống hàng ngày của mình.

Bên cạnh Joseph lúc này có Trần Văn Tâm đang lặng lẽ song đôi đi dọc theo đường Công Lý. Bên ngoài hàng rào làm bằng những thanh sắt nhọn, Joseph thấy Dinh Độc Lập của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu được kiến trúc theo kiểu tân thời, mặc dù quang cảnh chung quanh đây đã thay đổi, nhưng khi nhìn vào khuôn viên Dinh thự này, Joseph vấn còn thấy rõ ràng cái vườn hoa mà những người trồng tỉa đã bỏ công thật nhiều để chăm sóc cẩn thận không khác gì như những khoảng không gian của Dinh Thống Đốc ngày xưa.

Joseph thấy rõ ở đó một đứa con trai mười lăm tuổi đầu, hay cả thẹn trong bộ đồ Tuxedo đầu đời chạy thục mạng trên sàn gạch để cố đỡ chiếc bình sứ vô giá Trung Hoa đang bị một con khỉ nhỏ hoảng hốt nhảy vào bên trong và làm lật đổ khỏi chiếc bệ chưng bình. Joseph cũng thấy rõ đứa con trai mười lăm tuổi lúc đó rất hãnh diện về việc làm của mình trước mặt viên Đại Thần người bản xứ, thân sinh của người đàn ông đang đi bên cạnh mình lúc này. Hồi đó ông ta từ một Dinh thự khác đến dây, đứng trước bậc thềm Dinh thự này, đưa cặp mắt thất thần nhìn đứa con trai Hoa Kỳ dang ôm trên tay một con khỉ nhỏ với vẻ nửa vời, nhưng đầy hiểu biết. Con khỉ nhỏ vẫn vùng vẫy vòng tay đứa con trai với bộ Tuxedo nhàu nát.

Joseph cũng kiểm soát trí nhớ của mình để nhớ lại khuôn mặt ngây thơ bí hiểm của đứa bé gái mười tuổi, con của vị quan Đại Thần lúc đó đang trơ mắt nhìn người ân nhân xa lạ đã cứu được con vật của mình. Joseph liếc nhìn sang Trần Văn Tâm bên cạnh và tự hỏi không biết Tâm có đọc được ý nghĩ của mình trong lúc này hay không. Tâm bây giờ đã đứng tuổi, nhưng vẫn còn mang vóc dáng dễ thương của người Á Đông, anh bình thản đưa mắt nhìn chung quanh. Tâm theo dõi một đoàn quân xa của quân đội Hoa Kỳ đang ồn ào chạy qua chỗ hai người, và khuôn miệng như con gái của Tâm chau lên khó chịu khi đoàn xe vừa di chuyển vừa bóp kèn inh ỏi, dể lại nhiều cuộn khói dày dặc khắp một vùng.

Joseph và Tâm, không ai nói gì với nhau hết cả, cả hai cùng bước rẽ qua một con đường khác dẫn về phía Cercle Sportif. Tại đây, Joseph thấy có một số người chủ đồn điền Pháp, nhiều người Hoa Kỳ và một số thương gia vừa Việt Nam vừa Trung Hoa đang tụ họp thành từng nhóm riêng biệt. Mọi hình ảnh thời thuộc địa xa xưa giờ đã biến mất, nhưng khi vừa đến cổng khu vực này, đầu óc của Joseph sống lại với cái kỷ niệm êm đềm lúc anh đưa Lan từ nơi này về nhà trên chiếc xe thổ mộ khi có sự xáo trộn trong một cuộc tranh tài quần vợt, rồi tâm hồn Joseph chùng xuống buồn thảm.

Joseph mới đến đây có ba ngày, mà ngay lúc phi cơ chưa chạm bánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất, thì đầu óc anh đã bị quay cuồng với các ký ức thời xa xưa. Suốt cuộc hành trình dài hai mươi bốn giờ bay, Joseph đã cố dỗ giấc ngủ mà không làm sao chớp mắt được, và khi chiếc Boeing của hãng hàng không Pan Am bắt đầu bớt tốc lực bay qua các nhánh sông Sài Gòn, Joseph đã thấy bóng dáng hai chiếc tháp nhọn của Vương Cung Thánh Đường, từ đó trí nhớ lại đưa anh về với cái kỷ niệm lần đầu tiên trên chiếc tàu Avignon, lúc uốn mình dọc theo giòng sông Sài Gòn cách đây bốn mươi năm, Joseph đã thấy hai chiếc tháp nhọn mà theo trí tưởng tượng của đứa con trai hồi đó tưởng là đôi tai của một chú thỏ rừng nhô lên giữa rừng cây rậm rạp của Sài Gòn. Đến khi bước ra khỏi lòng phi cơ, Joseph chợt khám phá ra, là chỉ có Sài Gòn năm xưa mới vẫn còn mãi mãi trong lòng anh mà thôi.

Sài Gòn với không khí ẩm nước vẫn không thay đổi, nhưng Sài Gòn lúc này lại có thêm dầy đặc mùi ét xăng nồng nặc lúc nào cũng chui vào cổ họng và suốt dọc đường từ phi trường về đến khách sạn Continental, Joseph phải trải qua một cơn kẹt xe chưa từng thấy bao giờ. Trên đường phố, các chiếc xích lô đạp vẫn do những người Việt Nam ốm yếu còng lưng đạp thay cho những chiếc xe kéo ngày nào. Chen lẫn vào đó những chiếc taxi màu xanh và vàng nhạt hiệu Renault dập dìu, thỉnh thoảng cũng có một vài chiếc Citroen hoặc Peugeot cũ kỹ thời Pháp thuộc chen chúc, bây giờ Sài Gòn còn có thêm nhiều quân xa đồ sộ của quân đội Hoa Kỳ lẫn một số xe Chevrolet, Pontiac và Mercury của các nhân viên dân chính Hoa Kỳ nữa, trong khi đó trai thanh gái lịch Việt Nam di chuyển đầy đường trên những chiếc xe Lambretta, Vespa và lớp lớp, đoàn đoàn Honda. Điều làm cho Joseph nghe vui được trong lòng nhất trong lúc này là anh còn thấy được nhiều thiếu nữ Việt Nam vẫn còn mặc những chiếc áo dài ra đường, thỉnh thoảng một vài thiếu nữ phải lấy khăn tay buộc ngang mũi để tránh ngửi mùi ét xăng giữa giòng xe cộ dập dìu tại đường phố Sài Gòn. Các cảnh trí êm đềm này làm cho Joseph mơ màng nhớ tới niềm hân hoan của mình có được từ nhiều năm trước.

Với ba ngày có mặt tại Sài Gòn, lần nay Joseph chợt khám phá thêm là vì lối sống vội vàng do chiến tranh gây ra đã làm cho Sài Gòn mất đi cái thói quen nghỉ trưa trong khi có thêm bốn giờ giới nghiêm bắt đầu từ nửa đêm đến bốn giờ sáng. Thời gian này thay vì thành phố được yên tĩnh thì trái lại là lúc mà, tiếng ồn ào của những đoàn quân xa Hoa Kỳ vang dậy khắp mọi nơi. Trưa Sài Gòn bây giờ vẫn còn một vài cửa tiệm kéo kín cửa sắt để nghỉ trưa, nhưng các bảng hiệu bằng đèn néon tại các quán rượu, các gian hàng bán đồ kỷ niệm dọc theo đường Tự Do, Lê Lợi và Nguyễn Huệ vẫn còn mở cửa để phục vụ khách hàng người ngoại quốc là những người Hoa Kỳ đang được nghỉ phép dập dìu khắp đường phố đầy ô nhiễm này. Đó đây các cao ốc được xây cất thêm rất nhiều để đáp ứng nhu cầu nơi ăn chốn ở cho quân đội Hoa Kỳ, làm mất đi vẻ đẹp của thành phố Sài Gòn thời xa xưa.

Một điều khác làm Joseph còn hài lòng, là sau khi đắn đo cân nhắc nhiều lần, sau cùng anh nhận làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ tại đây với chức vụ cố vấn cao cấp tại phòng liên lạc dân sự của Hoa Kỳ thuộc cơ quan Juspao. Người ta đã thu xếp để cho anh cư ngụ tại một biệt thự cũ của Pháp trên đường Công Lý. Chính tại nơi này Joseph đã mời Trần Văn Tâm đến dùng cơm chiều với mình do một người đầu bếp người Việt đứng nấu và mặc dù sự liên hệ giữa anh và Tâm cũng như gia đình của Tâm đã quen biết nhau trong một thời gian không phải là ngắn ngủi gì, nhưng trong suốt bữa ăn, dù Joseph có nói năng gì thì Tâm vẫn không cởi mở như ý của Joseph hết cả.

Trần Văn Tâm đã gượng gạo cười trong bối rối, khi Joseph hỏi về gia tài, ruộng đất mà Tâm được thừa hưởng ở vùng đồng bằng Cửu Long, từ đó Joseph khám phá ra rằng dù sau nhiều năm Hoa Kỳ có làm áp lực để Việt Nam cải tổ lại chính sách ruộng đất, nhưng Tâm vẫn còn thừa hưởng một số ruộng đất rất lớn, cho nên thái độ dè dặt của Tâm khởi điểm từ đó. Hiện tại, Tâm là Thứ Trưởng Bộ Thông Tin trong Nội Các của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Joseph hiểu ngay với chức vụ này Tâm không được công chúng biết tới nhiều về tất cả mọi cơ hội thăng tiến, về kinh doanh cũng như mọi khía cạnh ung thối trong nền kinh tế thời chiến tại nơi này. Một lần khác Tâm cũng đã cười miễn cưỡng thú nhận là mình đang có nhịều mối lợi lớn về tài sản kiến trúc và các vấn đề xuất nhập cảng, mặc dù có tiết lộ như vậy nhưng thái độ của Tâm vẫn hết sức e dè tưởng chừng như Tâm hiểu được rằng sau cùng thì mình cũng sẽ bị hỏi đến những vấn đề khó trả lời như vậy.

Joseph phải vỗ về sự tò mò của mình, thật ra đây chỉ là một mối quan tâm giữa tình bạn mà thôi. Anh cố dàn xếp sự gặp gỡ cho có vẻ tự nhiên khi hai người lên sân thượng của ngôi nhà này để ngồi uống rượu và để thở không khí trong lành với vườn hoa ngát hương thơm trên đó. Trần Văn Tâm thoát được các câu hỏi về Chính quyền mới, về Hiến Pháp mới, về các câu hỏi liên quan đến chương trình Bình Định Nông Thôn nên anh quày quả ngỏ lời cám ơn Joseph về bữa cơm chiều với chả giò đặc biệt do một đầu bếp người Việt khéo tay đứng nấu với rượu vang hảo hạng của Pháp. Đến khi Joseph hỏi Tâm về Tuyết thì Tâm yên lặng thật lâu, đến nỗi Joseph tưởng Trần Văn Tâm cố tình bỏ qua câu hỏi của mình, mãi một lúc thật lâu sau Tâm mới đưa mắt nhìn vào khu vườn nhỏ trên sân thượng để tránh cái nhìn đầy kiên nhẫn của Joseph rồi mới cất giọng nói:

— Tôi vẫn không biết gì chắc chắn hơn những điều mà tôi đã nói cho anh nghe hồi năm 1956. Con gái của anh bỗng dưng mất tích. Trên thực tế nó mất biệt đi mà không để lại tung tích gì hết cả.

— Anh nói là trên thực tế?

Joseph thình lình quay lại hỏi, không giấu được vẻ hồi hộp và hy vọng trong lời nói của mình.

— Nói như vậy, có nghĩa là trong thời gian qua anh có biết sơ qua về tin tức của nó phải không?

Trần Văn Tâm lại trở về với sự im lặng thẫn thờ của mình và Joseph có cảm tưởng như thấy gương mặt Tâm đanh lại.

— Tất cả chỉ là tin đồn mà thôi. Không có gì chứng minh được đó là tin xác thật hết cả. Từ khi Tuyết nó quyết định theo Cộng Sản, anh cũng nên hiểu rằng gia đình chúng tôi không một ai có ý muốn tìm hiểu thêm tình cảnh của nó. Chúng tôi có nghe kể lại là Tuyết nó lấy một du kích quân có tên là Đặng Đình Lương. Tên này bị bắt và chết tại Sài Gòn. Người vợ của y, có lẽ là Tuyết, vì chồng con nên quyết tâm trả thù. Nó gia nhập vào một toán ám sát nội thành và giết chết một vài nhân viên an ninh của chính quyền, rồi cũng chính nó sau này là một Trung Đội Trưởng nổi tiếng xuất hiện tại một vùng thuộc đồng bằng Cửu Long. Tuyết lấy tên của chồng ghép vào tên của mình để gia nhập cách mạng với tên mới là Tuyết Lương.

Joseph kinh hoàng chồm người tới bên cạnh Tâm.

— Tôi không làm sao tin được chuyện này.

Trần Văn Tâm đáp không cần suy nghĩ:

— Như tôi đã nói với anh, chuyện này không có bằng chứng nào người đó là con gái của anh hết cả, vì đây chỉ là tin đồn, do người ta nói lại mà thôi. Hơn nữa Tuyết cũng không phải là một cái tên hiếm hoi gì ở Việt Nam, có điều tin đồn cho biết Tuyết là một cô gái lai.

Joseph ngồi dựa xuống ghế, anh chùng chân lại cố tập trung tư tưởng về lời nói của Trần Văn Tâm vừa đề cập đến. Một lúc sau, Joseph đứng lên bước tới, bước lui trên sân thượng.

— Anh nghe người ta nói tin này vào khoảng thời gian nào hở Tâm?

— Đâu vào những năm đầu 1960.

— Vậy từ đó đến nay, có ai còn nhắc đến tên nó nữa không?

Trần Văn Tâm lắc đầu:

— Khoảng 1963 thì dường như nó không còn xuất hiện ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nữa.

Joseph nhìn Tâm với vẻ hốt hoảng:

— Vậy có lẽ nó đã bị giết rồi?

Tâm trả lời, nhưng vẫn cố tránh cái nhìn của Joseph.

— Cũng có thể lắm, nhưng như tôi đã nói là gia đình tôi đã không sốt sắng cho lắm để tìm hiểu sự thật chuyện này cho tường tận. Có thể cấp lãnh đạo của Mặt Trận Giải Phóng đã đưa nó đi nhận một nhiệm vụ mới nào đó để ít bị chú ý hơn. Cộng Sản lúc nào cũng đòi hỏi sự trùng hợp và kỷ luật trên hết mọi việc. Một người đàn bà đẹp, lưng đeo súng lục Hoa Kỳ như các tay súng miền Viễn Tây, xuất hiện làm sao phù hợp với vùng đồng bằng dưới đó được? Có lẽ nó đã quá nổi tiếng cũng nên.

Joseph dừng chân, cầm chai rượu rót thêm cho hai người, và suốt trong một thời gian khá lâu, hai người đàn ông ngồi yên lặng uống rượu mà không ai nói với nhau một lời nào. Bỗng dưng Joseph quay lại nhìn Tâm, gương mặt đầy chiều suy nghĩ.

— Anh có nghĩ là người ta đưa Tuyết ra Đà Nẵng để làm những công tác tình báo không?

— Để theo dõi các phi công Hoa Kỳ khi họ ra phố phải không?

— Đúng vậy.

Joseph gật đầu vội vã.

— Có thể như vậy, nhưng tại sao anh lại hỏi như vậy?

— Bởi vì con trai kế của tôi là Mark, nó đi không quân và đóng tại Đà Nẵng. Trước khi nó bị bắn rơi ngoài Bắc cách đây hai năm. Chúng tôi không biết được là nó còn sống hay đã chết trong lần bị bắn rơi đó, nhưng trong một lá thơ cuối cùng mà nó viết về cho mẹ nó, nó có đề cập lờ mờ tới một cô gái Việt Nam tại Đà Nẵng mà nó nghĩ là cô gái đó đã tự xưng mình là Tuyết. Lá thơ không nói điều gì rõ ràng hết, nhưng cái người mang tên Tuyết đó đã biết tên con trai tôi và qua một người con gái khác đã nói lại với Mark thì Tuyết có cho biết cha của cô ta là người Hoa Kỳ. Con trai tôi nó viết thơ này không có chủ định, chứng tỏ nó không biết gì về nội tình hết cả.

— Vậy con trai của anh có biết là nó có một người chị cùng cha khác mẹ với nó không?

Joseph vụt quay nhanh đi nơi khác.

— Không, cả hai đứa con trai của tôi, không đứa nào biết về Tuyết hết cả. Tôi không có nói cho chúng nó biết. Tôi rất ân hận là kể từ ngày chúng nó lớn lên, tôi đã không ở gần và giúp đỡ gì cho chúng hết cả.

— Vậy anh có ra Đà Nẵng lần nào chưa?

Joseph gật đầu:

— Ngay khi đến đây, tôi đáp máy bay ra ngoài đó.

— Vậy anh có tìm ra manh mối gì không?

Joseph thở một hơi dài.

— Không, tôi không tìm ra được gì cả. Tôi không tìm ra được dấu vết nào về cô Tuyết đó cả, nhưng tôi vẫn còn một chút hy vọng.

Trên gương mặt Tâm vụt nở một nụ cười buồn thẳm như có ý cùng chia sẻ nỗi niềm với Joseph.

— Joseph, nếu quả thật Tuyết Lương đúng là con gái của anh thì anh sẽ là một người vô cùng đau khổ khi có một đứa con đứng về phía quân thù, nhưng cũng có thể từ đó sẽ giúp anh hiểu được rõ hơn sự bất hạnh của dãy đất này nhiều hơn. Bây giờ thì chúng ta cùng có chung một nỗi niềm. Chúng ta cùng có người cùng chung máu mủ chống đối và chém giết lẫn nhau trong trận chiến tranh tàn bạo này.

Joseph cất tiếng nhỏ nhẹ:

— Tôi xin lỗi anh. Tôi chỉ nghĩ đến mỗi một mình tôi thôi, tôi đã quên hẳn đi việc anh cũng có một đứa em trai là Kim.

— Đừng xin lỗi, Joseph à. Đối với người Việt Nam chúng tôi thì chuyện này không phải là một chuyện bất thường.

— Cách đây không lâu, chúng tôi cũng bị một trận nội chiến, nên tôi cũng hiểu được ít nhiều. Những năm sau này, anh có liên lạc được với Kim không?

Joseph nói với giọng buồn thảm trong khi Tâm nhún nhẹ vai quay đi nơi khác:

— Làm sao mà một đảng viên kỳ cựu của Trung ương Đảng Cộng Sản của Hà Nội lại có thể liên lạc được với một nhân viên thứ yếu trong Nội Các Sài Gòn như tôi được.

— Nhưng mà đâu có ai biết, phải không? Các du kích Việt Cộng vẫn thường lén về nhà ăn Tết, mặc dù họ vẫn ở phía bên kia.

— Chuyện đó chỉ có thể xảy ra cho những nhân viên cấp nhỏ mà thôi. Đối với đứa em của tôi thì không có gì bằng việc lãnh đạo Cách Mạng của nó. Kể từ ngày nó làm nhục cha tôi, tôi đã thề không bao giờ nói chuyện với nó nữa, trừ phi nó quỳ xuống xin lỗi tôi mà thôi.

Trần Văn Tâm bật một chuỗi cười chua chát, nói tiếp:

— Anh có thể tưởng tượng được Kim nó sẽ trở về Sài Gòn này để quỳ gối xuống mà xin lỗi tôi về những tội ác tày trời của nó không? Mẹ tôi đã giấu nỗi đau khổ trong lòng mình cho tới ngày bà mất đi. Mẹ tôi đã không bao giờ được vui, kể từ ngày Kim nó sỉ nhục cha tôi cùng ông bà tổ tiên một cách quá quắt như vậy.

Trần Văn Tâm nói trong vô vọng:

— Nhưng mặc dù vậy, mặc dù chúng tôi bị chia rẽ trầm trọng như thế, mặc dù Kim là Cộng sản, nhưng nó vẫn là em tôi.

Joseph cất giọng đầy chán nản:

— Vâng, và Tuyết dù bây giờ nó ở đâu, dù nó có làm gì, nó vẫn là con của tôi.

Cả hai người cùng trở lại im lặng. Để đánh tan bầu không khí nặng nề này, Joseph đã đề nghị với Tâm cùng tản bộ xuống các đường phố để giải khuây. Hai người cùng sóng vai dưới lề đường, nhưng mỗi người lại đeo đuổi một ý tưởng riêng của mình. Bỗng Joseph nhớ tới đứa con trai của Lan và Paul, anh lên tiếng hỏi thăm Tâm về vấn đề này và Tâm cho anh biết là Trang đã bị giết sau khi ra trường được vài tháng. Tin tức này càng làm cho hai người buồn thêm hơn, cho nên cuối cùng hai người lại bị rơi vào im lặng.

Thành phố về đêm với dân cư trên ba triệu người vẫn ồn ào với các toán lính người Hoa Kỳ ra vào tấp nập tại các quán rượu. Tại công trường Quách Thị Trang và chung quanh chợ Bến Thành, người người tấp nập. Đó đây một vài người không nhà, không cửa dọn chỗ để tạm ngủ qua đêm tại các cửa chợ và các lề đường. Không ai bảo ai, cả Tâm cùng Joseph vội vã bước nhanh đi để tránh cái thảm cảnh mà chiến tranh đã gây nên. Khi hai người đến công trường ở Vương Cung Thánh Đường thì Joseph và Tâm cùng chia tay.

Joseph quay người hướng về đường Công Lý để về nhà, nhưng vừa bước đi được vài bước thì Joseph lại dừng chân. Mặc dù vừa trải qua một thời gian đầy buồn bã với Trần Văn Tâm, và phải trải qua một cơn kinh hoàng trước một Sài Gòn đổi thay quá nhiều và nhanh chóng, nhưng đối với Joseph, cái thành phố mang một bộ mặt mới này vẫn còn một điều gì không rõ ràng, nhất là dân chúng tại đây vẫn còn làm trong lòng Joseph gợi lên một rung động khác thường, khiến anh dừng bước và chần chừ giữa đường. Giữa bầu không khí mát mẻ của buổi chiều, sau một ngày nắng nóng, Joseph bỗng nghe trong người dâng lên một cảm giác lạ lùng, chừng như dễ chịu giữa các ồn ào, giữa cái bất ổn không tượng hình, khiến anh như không còn thở được. Sau một thoáng chần chừ, Joseph quay người bước ngược lại đường Tự Do, băng mình qua bên kia lề đường để tránh không phải bước ngang qua vỉa hè khách sạn Continental. Joseph đi thẳng xuống đường Lê Lợi.

Bên dưới bức tượng hai người lính Thủy Quân Lục Chiến được tạc trong vị thế xung phong, một đám đông người đang quây quần thành một vòng tròn khá lớn. Phải đến gần, Joseph mới thấy được ngọn đèn chiếu của máy quay phim phản chiếu trên đầu những người chung quanh đây. Một trong các nhiệm vụ mà Joseph chuẩn bị để tiếp nhận công việc mới của anh tại Juspao, là quán xuyến các cuộc họp báo hàng ngày tại một thính đường trên đường Nguyễn Huệ. Sự bi quan của nhiều người trước cuộc chiến tranh này càng lúc càng bành trướng trong giới thường quan tâm đến thời cuộc, nhất là trong phạm vi báo chí Hoa Kỳ cũng như báo chí ngoại quốc hiện có mặt tại đây, thì những cuộc họp báo hàng ngày tại Juspao để loan tin về những tin tức cùng các diễn tiến trong ngày tại phần đất này đã bị người ta đặt cho một cái tên là “The Five O’Clock Follies”. Một trong các nhiệm vụ của Joseph là cố gắng tổ chức lại các cuộc họp báo này hàng ngày làm sao để có phần hiệu quả hơn. Cảnh tượng trước mắt khiến cho Joseph nghĩ ngay đến việc anh sẽ gặp một đoàn phóng viên của một hãng truyền hình Hoa Kỳ nào đó. Anh tò mò bước đến gần đám đông và cố ý lắng nghe những lời bình luận của người phóng viên, nhưng anh đã ngạc nhiên vô cùng khi khám phá ra người phóng viên đài truyền hình tại nơi này là một người đàn bà và giọng nói đang vang lên trong vòng người đông đảo kia đặc giọng miền Anh Cát Lợi.

Nhướng người lên khỏi những cái đầu đang lố nhố bao chung quanh đây, Joseph nhìn thấy một người đàn bà cao ráo, sáng sủa, trên người mặc một bộ quần áo như những tay thợ săn tại Châu Phi, chân đi giày trận. Bộ áo quần trên người đàn bà nhàu nát, chứng tỏ đoàn quay phim này mới ở từ một mặt trận nào đó về tới đây. Người chuyên viên âm thanh đưa một tấm bìa giấy, trên đó có ghi các tiền đề cho cuộc thu hình này bên sau máy quay phim để người đàn bà theo dõi và phát biểu lời bình luận cho cuộc thu hình của mình. Joseph đoán người nữ phóng viên đang thực hiện một đoạn phim tóm lược cho phần phúc trình của mình đã thu được từ mặt trận trước đây. Một đôi lần, giọng nói của người đàn bà lạc hẳn đi vì mệt mỏi và vì phải lặp đi, lặp lại lời nói của mình nhiều lần. Qua lời nói và giọng điệu của người đàn bà, người nghe có thể đoán là nàng sắp kết thúc bài bình luận của mình. Joseph cố chen tới gần về phía trước, trong khi người chuyên viên thu hình đang đưa ống kính thu cận chiếu lần chót.

Lời kết của bài bình luận được nói với giọng đầy cân nhắc và chậm rãi:

— Tôi bắt đầu tường trình cuộc chiến tranh này lần đầu tiên cách đây năm năm. Lúc đó cuộc chiến tranh ở đây chỉ có một vài ngàn người Hoa Kỳ tham dự vào các trận chiến mà thôi. Bây giờ ở đây, hơn nửa triệu binh sĩ Hoa Kỳ đang có mặt tại Việt Nam. Mặc dù các phát ngôn viên Hoa Kỳ luôn luôn nói cho chúng tôi biết rằng mọi biện pháp dính líu đến cuộc chiến này đều cho thấy là Cộng Sản đang bị đánh bại, và chiến thắng không khác gì như khói sương nếu như có nắm được thì sương khói chiến thắng đó sẽ vượt dễ dàng qua khe hở của các ngón tay.

Người đàn bà ngưng nói để cho lời nói của mình có được một chút âm vang rồi mới tiếp tục:

— Đây là Naomi Boyce Lewis, tường trình từ Sài Gòn.

Joseph nhìn kỹ khuôn mặt người nữ phóng viên dưới ánh đèn của máy quay phim, trong lúc người chuyên viên quay tiếp mấy đoạn dành cho tòa soạn. Cùng lúc này, Joseph đang vận dụng trí nhớ để cố tìm hiểu xem mình đã có quen biết cái tên mà anh vừa được nghe qua hay không. Người chuyên viên thu hình đưa tay bật tắt ngọn đèn chiếu thì Joseph chợt khám phá ra điều mình đang tìm kiếm. Đám người tò mò chung quanh đây lần lượt bỏ đi. Joseph chen mình bước tới. Sát bên chân bước tượng hai người lính Thủy Quân Lục Chiến, Naomi đang khom người phụ giúp dọn dẹp lại dụng cụ. Joseph cất giọng nhỏ nhẹ:

— Tôi không sao bỏ ngoài tai những lời bình luận đáng giá cuối cùng của cô, cho nên tôi xin phép được hỏi thăm xem cô có phải là người nhà của Đại Tá Harold Boyce Lewis, thuộc Quân Lực Hoàng Gia Anh Quốc, từng có mặt tại nơi này hồi thế chiến thứ hai không?

Naomi quay người lại, nhìn vào người vừa nói chuyện với mình đầy vẻ ngơ ngác:

— Ông muốn nói đến cha tôi?

Joseph tươi cười đưa tay cho Naomi bắt:

— Tôi nghĩ có lẽ là vậy, tôi là Joseph Sherman. Ông Harold dạo này vẫn mạnh khỏe phải không cô?

Naomi trả lời thật nhỏ:

— Cha tôi bị giết hồi 1945 ở đây, thưa ông Sherman.

Đôi mắt của Naomi vụt sáng hẳn lên, nàng nhìn thẳng vào mặt Joseph.

— Và nếu thật như ông có biết đến cha tôi, thì tôi xin sẽ được nói chuyện cho ông nghe vào một dịp khác.