MƯỜI SÁU
Sáng ngày hôm sau, Joseph thức dậy trễ. Mưa phùn buổi sáng kéo theo hơi lạnh đang lất phất trên thành phố ngập đầy binh đao này. Mây đen càng lúc càng sà xuống mặt đất. Từ trên vòm che của khoang đò, nước mưa thấm vào kẽ hở rơi từng giọt đều đặn xuống chiếc mền đang đắp trên người của Joseph. Trước khi tỉnh ngủ hẳn, Joseph chợt thắc mắc không hiểu vì sao tiếng súng giao tranh từ đàng xa giờ này bỗng dưng nghe quá lớn. Mãi một lúc lâu sau anh mới nhận ra rằng trận giao tranh hiện đang tiến dần về nơi mình đang nằm. Anh cố lắng tai nghe, không phải để xác định vị trí của cuộc giao tranh mà cố dùng hết thần trí để bỏ hẳn các tiếng súng bên ngoài, chờ đợi tiếng động từ bên sau tấm màn che giữa khoang đò. Sau cùng Joseph biết mình không cần phải phí sức nữa, vì anh đã biết mẹ con của Tuyết đã rời khỏi nơi này rồi.
Anh chống người lên cùi chỏ, nhìn qua khẽ hở tìm kiếm, vết thương trên ngực anh bỗng giựt lên từng hồi, anh nghe làn vải băng vết thương trên ngực nhễ nhại máu mủ. Joseph nghĩ rồi đây anh sẽ không còn sống được bao lâu nữa nếu như vết thương này không được cứu chữa kịp thời.
Nhìn từ các khe hở của con đò, Joseph thỉnh thoảng thấy các cuộn khói trắng bốc lên từ các trái đạn hỏa tiễn và dọc theo bờ sông, lửa vẫn còn nghi ngút cháy vì các trái đạn pháo binh của Hoa Kỳ cách đây mười cây số được gọi bắn vào từ đêm hôm trước đã gây nên đám cháy cho tới giờ này vẫn còn âm ỉ, bốc khói đen, bay thẳng lên trời. Joseph cũng nhìn được một góc thành nội với mặt tường đầy vết loang lổ vì đạn của Việt Nam và Hoa Kỳ, nhưng bức tường thành dầy vẫn còn làm bình phong che đạn cho các tay bắn sẽ thuộc quân đội Bắc Việt thỉnh thoảng còn ở bên trong bắn ra. Joseph cũng kịp nhận ra được lá cờ ướt sũng nước, treo xiêu vẹo trước cửa Thượng Tứ là lá cờ xanh đỏ, có ngôi sao vàng ở giữa, lá cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Mặc dù Tuyết đã có nói cho anh biết, là Cộng Sản đã kiểm soát hầu hết thành phố này và đặt bộ chỉ huy của họ tại nơi lâm triều của vua chúa nhà Nguyễn ngày xưa, điều này chứng tỏ rằng Hoa Kỳ không có khả năng để đánh bật họ ra ngoài, vì nếu phải tàn phá các cung điện lịch sử này thì việc làm đó không thể thực hiện được. Joseph cũng thấy quân Cộng Sản đã giật sập cầu Tràng Tiền, làm cho một vòng cầu đổ sầm xuống dòng sông. Dù đã chứng kiến các thành quả này của Việt Cộng, Joseph vẫn không hiểu tại sao với sức mạnh thượng đẳng về vũ khí mà Hoa Kỳ có được, họ vẫn không sao chiếm lại được Huế nhanh chóng khi mà lúc này đây địch quân công khai xuất đầu, lộ diện như Hoa Kỳ từng mong muốn địch bỏ nơi rừng rú để ra mặt công khai đánh với họ như thế này.
Trời càng lúc càng trưa hẳn, vết thương trên ngực Joseph càng lúc càng thêm đau nhức, đến độ không còn chịu đựng được nữa, anh phải nằm dài xuống khoang đò để nghe nỗi thất vọng đang dâng trào và ngủ thiếp đi khi tiếng súng bên ngoài im dần. Trước đó, thỉnh thoảng Joseph cũng thấy được một vài người lính có giắt lá cây trên nón, của bộ đội Bắc Việt chạy vội vàng ngang qua con đò mà anh đang nằm, họ hối hả cắm đầu chạy mà không quan tâm đến điều gì cả, Joseph đã đoán là họ đang chạy về hướng Tây, dọc theo dòng sông trước sức tiến quân của Quân đội Hoa Kỳ.
Thời gian lần lượt trôi qua, Joseph càng tin tưởng là Tuyết đã dẫn hai con mình đi trốn rồi. Anh định rời bỏ nơi này, nhưng lại sợ bị kẹt giữa làn đạn của hai bên, như vậy sẽ nguy hiểm hơn là nằm lại đây. Lúc bấy giờ toàn thân anh như đập theo nhịp đau của vết thương, khiến Joseph nghe choáng váng và cảm thấy được sự trầm trọng trước cơn hành hạ của vết thương trên người. Thoáng trong ý nghĩ, Joseph tự hỏi, không biết có phải mình sắp sửa chết rồi hay không? Người anh mệt lả, thêm vào đó cái ý nghĩ Tuyết đã vĩnh viễn bỏ đi càng tạo cho Joseph một sự nản lòng đến cùng cực và anh bỏ mặc, không màng đến mạng sống của mình nữa.
Trời càng lúc càng về chiều, Joseph lại cảm thấy buồn ngủ, anh có cảm tưởng như mình đang nằm mơ khi nghe con đò tròng trềnh và bên sau tấm màn ngăn giữa khoang đò có tiếng thì thầm. Tiếng Tuyết đánh diêm quẹt để nhóm lửa thổi cơm, dưới sự phụ giúp của hai đứa nhỏ đang diễn ra như sự thật trong giấc mơ mà suốt bảy ngày qua đã quen thuộc trong thâm tâm của Joseph, nhưng lúc đó Joseph vẫn ngủ tiếp và chỉ thức dậy khi Tuyết vén màn, bưng vào cho anh tô cháo với khô nướng. Sau khi đặt tô cháo xuống sàn, Tuyết lặng lẽ bỏ đi, nhưng Joseph nắm vội lấy tay con:
— Tuyết, ba đã tưởng con không trở về đây nữa chứ.
Tuyết quay đầu lại nhìn anh không kháng cự gì cả và Joseph thấy gương mặt con gái mình xanh xao, tay nàng run run:
— Nhưng ba rất mừng thấy con trở lại, ba muốn cám ơn con về chuyện đêm qua. Ba không có quyền để mong được con hy sinh như vậy.
Joseph nghẹn lời và giọng nói của anh lạc mất âm thanh. Tuyết từ từ kéo tay mình ra khỏi tay của cha rồi ngồi xuống cạnh đó đặt hai tay lên đùi mình, mặt cúi gằm xuống sàn đò. Bên ngoài thình lình các tiếng súng giao tranh bỗng vang lên gần nơi này hơn lúc nào hết.
— Trận chiến có lẽ gần nơi này lắm phải không con? Có lẽ vì vậy mà con lo lắng, lo lắng không chiếm được Huế phải không?
— Con đã không còn quan tâm đến ai thắng, ai bại nữa cả.
Tuyết nói với những lời hết sức chân thành, mặc dù thái độ của nàng lúc này thật mãnh liệt, nhưng đôi mắt Tuyết rươm rướm ngấn lệ:
— Tại sao vậy hở Tuyết?
— Con đã chán cảnh tàn sát và giết chóc lắm rồi. Ngày hôm qua con đã chứng kiến hàng trăm người bị thảm sát. Một số bị bắn vào đầu, một số bị đập chết bằng cây gậy, bằng báng súng.
Tuyết rùng mình kinh hoàng khi nhớ lại cảnh này.
— Có người bị chôn sống nữa.
Joseph nhìn con đầy kinh sợ:
— Họ là aỉ vậy? Ai đã giết họ?
Giọng nói của Tuyết thình lình đầy chua chát và chán nản:
— Các đồng chí của con. Các đồng chí của con đã giết họ vì chúng con đã sai lầm.
— Ba không hiểu ý của con muốn nói gì?
— Chúng con đã tính sai về cuộc nổi dậy này. Người ta đã dự đoán là toàn dân miền Nam sẽ tổng nổi dậy. Tất cả mọi người dân sẽ đổ xô ra đường phố để chào đón đoàn quân chiến thắng của chúng con, nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Dân chúng đã giữ thái độ khác lạ, bây giờ thì các cấp lãnh đạo chính quyền ở Huế đã bị giết, ngoài ra một số viên chức nhỏ hơn cũng bị chết theo.
Thình lình một tiếng nổ thật lớn phát nổ gần chiếc đò, khiến hai cha con cùng im lặng, lo sợ, lắng tai nghe ngóng. Tiếng chát chúa của những tràng đạn tiểu liên tiếp tục nghe nổ gần hơn, tiếng dòn tan của các khẩu AK47 nghe khác biệt hẳn với tiếng vang vang của M16 phân biệt được rõ ràng.
— Công việc của con ở đây là thu thập tên tuổi của các công chức, sĩ quan, các nhà lãnh đạo tôn giáo, giáo sư, đại loại những người thuộc thành phần Ngụy. Người ta bảo cho chúng con biết là những người này sẽ được đưa đi học tập cải tạo, nhưng thực tế thì họ bị liệt kê vào những thành phần phải giết đi. Hôm nay các cấp lãnh đạo của chúng con đã thấy rằng chúng con sẽ bị đánh bật ra khỏi thành phố Huế này, nên họ lùa hết mọi người…
Tuyết ngừng nói, giọng nàng trầm xuống như thì thào:
— Có tới ba trăm người trong danh sách này, và tất cả đều đã bị giết.
Tuyết im lặng một lúc lâu rồi ngước mắt lên nhìn Joseph:
— Có cả những người ngoại quốc trong số đó nữa. Một vài vị linh mục người Đức, Pháp và một số người Hoa Kỳ. Có một người còn trẻ, cao ráo, tóc tai giống như ba vậy. Họ cột tay anh ta ra đằng sau, bắt anh ta quỳ trước một cái hố rồi bắn từ đàng sau ót bắn tới. Họ lấp đất, vùi thây người đó ngay lúc anh ta còn cử động dưới hố.
Nước mắt tuôn trào xuống hai bên má Tuyết, nàng khẽ khép mắt lại một lúc khá lâu. Các ngón tay đặt trên đùi nàng rung lên từng hồi, Joseph rướn người chồm tới Tuyết, anh nói với giọng cầu khẩn:
— Tuyết, hãy để ba đem con đi khỏi nơi này, qua Hoa Kỳ. Con có thể gạt bỏ hết những chuyện này khi tới đó.
Tuyết lắc đầu thật nhanh, hai mắt vẫn nhắm nghiền:
— Không thể nào được.
— Không có gì là không được, nếu như con muốn và nếu như con tin thì việc gì cũng có thể thực hiện được hết con à. Đời ba, ba mong muốn được đưa con rời khỏi Việt Nam hơn muốn bất cứ thứ gì trên cõi đời này.
Tuyết vẫn lắc đầu, một vài tiếng nấc nhỏ bật lên nghẹn ngào:
— Con còn làm nhiều việc kinh khủng khác nữa.
Tuyết mở mắt ra thấy cha mình đang nhìn mình với nỗi đau đớn in hằn lên mặt. Đôi môi Tuyết khẽ run run, nhưng nàng vẫn cố kiểm soát nỗi xúc động của mình:
— Phải, con đã đặt bom ở Sài Gòn, giết chết những người đã tra tấn chồng con cho tới chết. Nếu đó là tin đồn mà ba đã nghe được, và con sẽ làm nữa. Người ta đã giết chồng con, nghĩa là người ta đã cướp đi nguồn hạnh phúc duy nhất mà con có được trong đời mình, vì vậy lòng thù hận mong được trả thù đã không vơi đi được trong lòng con từ bao nhiêu lâu nay. Con đã làm Trung đội trưởng trong Quân Đội Giải Phóng dưới đồng bằng Cửu Long suốt hai năm trường, con đã giết nhiều người, cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ.
— Ba biết tất cả những chuyện đó.
Joseph nói với giọng thật nhỏ và Tuyết nhìn cha há hốc:
— Ba đã biết mà ba vẫn còn muốn đến đây?
Joseph yên lặng gật đầu. Đôi mắt Tuyết mở rộng đầy kinh hoàng trước những điều mình vừa chứng kiến. Tuyết bật khóc nhỏ, đầy đau khổ. Nàng luồn tay mình bên dưới cổ của cha và gục mặt xuống khuôn ngực trần của Joseph, khóc nức nở. Toàn thân nàng rung động một lúc, trong khi đó Joseph cũng lặng lẽ khóc thầm. Anh choàng tay qua ôm lấy con. Bên ngoài, trận đánh càng lúc càng tiến dần về phía hai người.
Trong lúc đang ôm Tuyết trong vòng tay, Joseph chợt thấy khuôn mặt kinh hoàng của Chương và Trinh đang bồn chồn lén nhìn qua kẽ màn ngăn giữa con đò. Joseph vụt bỏ tay ôm con hỏi nhỏ:
— Con định thế nào hở Tuyết? Khu vực này sẽ lọt vào tay Quân đội Hoa Kỳ trong vòng vài giờ tới đây. Con hãy cho ba cái cơ hội và ở lại với ba không? Ba sẽ đưa con về Hoa Kỳ, ba hứa với con như vậy.
Joseph nhìn về hai đứa nhỏ bên sau tấm màn mỉm cười:
— Ba sẽ đưa hết các con đi.
Tuyết rút tay, ngồi thẳng lên, hai tay ôm choàng lấy thân mình như cố tạo cho mình có thêm tiềm lực để giải quyết vấn đề. Sau một lúc im lặng, Tuyết lắc đầu quyết định:
— Con phải ở lại đây. Việt Nam là cha mẹ thật của con. Chúng con sẽ cùng nhau ra Bắc. Cậu Kim đã từng nghe về những thành quả mà con đã thực hiện được cho mặt trận.
Nói tới đây Tuyết đưa mắt nhìn vội vào Joseph một thoáng rồi tiếp:
— Cậu Kim đang giữ một chức vụ cao cấp trong Bộ Chính Trị của Đảng Lao Động, lại là một đồng chí thân tín của Hồ Chí Minh. Cậu ấy đã từng hứa sẽ tìm cho con một căn nhà gần cậu ấy ở Hà Nội.
Tuyết quay người lại đuổi các con mình lui về bên sau khoang đò rồi đứng lên, lặng lẽ bước theo. Joseph nghe có tiếng động và nghe Tuyết thì thầm ra lệnh cho các con mình thu dọn các vật dụng của mình. Một chập sau, Trinh từ bên sau khoang đò vụt chạy qua chỗ Joseph đang nằm, đến gần bên anh. Con bé đưa cặp mắt nhìn vội anh với vẻ buồn bã rồi đưa tay đặt lên vết thương của anh bằng một ngón tay:
— Con chúc ông ngoại mau lành bệnh.
Trinh thì thầm với một chút e thẹn. Nó hít một hơi thở dài như muốn nói thêm điều gì, nhưng lúc đó tiếng gọi cấp bách của Tuyết bên kia bức màn làm con bé giật mình, sự sợ hãi tràn lên ánh mắt. Trinh đưa mắt nhìn vội về phía cửa màn, chừng biết chắc không có mẹ nó đứng đó, con bé khom người xuống sát bên Joseph, thì thầm vào tai anh:
— Thưa ông ngoại con đi.
Trinh đặt nhẹ một nụ hôn lên gò má lổm chổm râu của Joseph, rồi chạy mau về phía bên kia đò với mẹ.
Joseph nằm nguyên một chỗ, đau đớn chờ mẹ con Tuyết trở qua để từ giã mình, nhưng đến khi anh nghe con đò tròng trành giao động mấy lần, anh mới biết là con mình đã cân nhắc kỹ lưỡng, chọn cách tránh đi cảnh chia tay đầy đau khổ của hai người. Joseph nghe đau đớn bùng lên cực điểm, anh thu hết tàn lực cất tiếng gọi lớn tên con mình, đồng thời vùng dậy bò qua bên kia khoang đò và tiếp tục bò ra tận mũi đò.
Tiếng súng cối và súng tay bây giờ đã quá gần. Tuyết vội vàng dẫn con đi về hướng Tây, dọc theo dòng sông, cách Joseph không hơn năm mươi thước. Với khoảng cách đó, Joseph thấy vóc dáng con mình đã hoàn toàn xa lạ. Hai ống quần của Tuyết phần phật ngược chiều gió với bước đi nhanh của nàng đang gắng gượng cố giữ thăng bằng thân người với đôi giống trên vai quày quả các thực dụng đơn giản của nàng gồm lò, siêu, soong chảo trong đó khi hai đứa con với bọc đựng áo quần trên tay, tay nắm chéo áo mẹ, vừa đi, vừa chạy giữa tiếng đạn đinh tai nhức óc bao phủ cả màn đêm đang ập xuống.
Mặc dù Joseph không rời mắt nhìn theo Tuyết và các con của nàng, nhưng cả ba người không ai quay lại hết cả. Chỉ có Trinh một lần vừa rảo bước chạy vừa quay đầu nhìn lại phía sau. Joseph cố đưa cánh tay không bị thương lên vẫy chào. Đứa bé ngước đầu lên nhìn mẹ mình, miệng líu lo vừa nói vừa đưa tay chỉ về phía Joseph. Trinh vấp người về phía trước một chút và cùng lúc đó Joseph thấy Tuyết giật mạnh lấy tay con với cử chỉ giận dữ và cất tiếng la rầy con. Bóng dáng của ba người dần khuất vào bóng đêm.
Joseph quỵ xuống sàn đò. Một cơn đau quặn thắt ruột vụt trào lên, báo hiệu cho anh biết rồi đây sẽ không bao giờ mình có thể gặp lại con nữa.
Nửa giờ sau, một Trung Đội Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tiến sau các chiến xa tìm thấy Joseph quỳ gục trước sàn đò. Anh phải bò vào bên trong để lấy chiếc áo dính đầy máu vẩy nhè nhẹ lên khỏi đầu để người ta không bắn mình. Một người Trung sĩ da đen, miệng đang ngậm một điếu sì gà tắt ngấm từ lúc nào, tiến tới, ghìm khẩu M16, chĩa vào người Joseph cho đến khi ông ta biết chắc người nằm đó không có vũ khí và không phải là địch quân, chừng đó người lính da màu mới tỏ sự ngạc nhiên của mình.
— Chúa ơi! Có thể nào một người Hoa Kỳ trốn trong chiếc đò nhỏ xíu này với vết thương trên người như vậy cả tuần lễ hay sao?
Người Trung sĩ mỉm cười, không tin tưởng được với cảnh tình trước mặt khi anh ta dìu Joseph lên bờ rồi bò vào bên trong đó khám xét một lúc rồi trở ra ngoài, hỉnh mũi.
— Chắc ông mừng được rời khỏi nơi này lắm phải không? Trong đó hôi hám quá chừng phải không ông?
Joseph đưa mắt nhìn người Hạ Sĩ Quan da màu mà không đáp lời.
Chung quanh đây trời vẫn còn đủ sáng để anh thấy lần đầu tiên là chiếc đò mà anh đã nằm trong đó suốt tuần lễ nay đang đậu cách nơi mà anh và Lan đã trải qua một đêm tuyệt vời trên dòng sông này cách đây ba mươi hai năm về trước không hơn một trăm thước.