← Quay lại trang sách

CHIẾN THẮNG VÀ CHIẾN BẠI 1972 - 1975

Richard Nixon tái đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ hai vào năm 1968 phần lớn nhờ vào cuộc vận động bầu cử, trong đó Nixon hứa sẽ chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và sẽ mang lại nền Hòa Bình cho xứ sở này. Sự hứa hẹn đó đã thu hút được toàn thể dân chúng Hoa Kỳ trong lúc họ còn đang bàng hoàng về nhịp độ tấn công của Cộng sản trong kỳ Tết Mậu Thân hồi tháng Hai vừa qua. Cuộc tấn công này của Cộng Sản thực sự đã phá tan cái huyền thoại mà từ trước đến nay mọi người đều vẫn cho rằng cuộc chiến tranh tại đó đang trên đà thắng lợi nghiêng về phía Hoa Kỳ và khiến cho các chính sách của Tổng Thống Johnson tại Việt Nam bị lụn bại và ảnh hưởng đến nỗi ông phải quyết định không tái ứng cử.

Trong suốt bốn năm tiền nhiệm của Tổng Thống Nixon, ông đã áp dụng những điều hứa hẹn của mình một cách mơ hồ khiến cho cuộc chiến tranh tại Việt Nam và Đông Dương càng ngày càng lan rộng và gia tăng thêm lên. Nixon đã ra lệnh cho tấn công vào Cao Miên và Ai Lao, cho dội bom tại hai quốc gia này một thời gian khá lâu. Ông lại cho tái oanh tạc vào lãnh thổ Bắc Việt mà trước đó Tổng Thống Johnson đã cho đình chỉ, đồng thời cho phong tỏa hải cảng Hải Phòng bằng cách thiết lập một hàng rào thủy lôi chung quanh vùng biển này để ngăn chận sự tiếp tế bằng đường biển của Nga Xô, viện trợ cho Bắc Việt.

Để trấn an dư luận quần chúng trong nước trong khi cho leo thang cuộc chiến tranh này với chiều hướng mới, Richard Nixon giảm bớt sự can thiệp trực tiếp vào Việt Nam bằng cách cho rút dần binh sĩ Hoa Kỳ khỏi quốc gia này đồng thời cho tăng cường tiếp tế võ trang và huấn luyện thật hùng hậu cho Quân Đội miền Nam. Một chính sách mà ông Nixon gọi là “Chương trình Việt Nam Hóa”. Với dự tính vừa làm vừa lòng cả nhóm Bồ Câu lẫn Diều Hâu cùng một lúc, chính sách của ông Nixon đã xoa dịu được cơn thịnh nộ của các nhóm người chống chiến tranh gồm các sinh viên, thanh niên sợ bị gọi nhập ngũ để sau đó sẽ bị gửi qua Việt Nam nếu như cuộc chiến tranh ở dó cứ tiếp diễn và sự đình chỉ gọi nhập ngũ hết hạn.

Tính đến tháng 3 năm 1969 thì Hoa Kỳ có 540 ngàn quân chiến dấu tại Việt Nam, nhưng đến năm 1972 thì Hoa Kỳ chỉ con lại hai mươi bảy ngàn quân chiến đấu và các cố vấn của họ tại đó mà thôi. Chính sách Việt Nam Hóa đã đưa Quân Đội của Nguyễn Văn Thiệu lên đến trên một triệu người và số lượng tài chánh và quân dụng đổ vào Sài Gòn cũng tăng lên cao. Nhưng những việc này vẫn không giải quyết được các trở ngại về xã hội và chính trị từ lâu từng làm cho miền Nam Việt nam lúc nào cũng dễ dàng bị Cộng Sản xâm chiếm. Sự bành trướng hùng hậu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã được dân chúng ở đó coi như là một lực lượng tăng cường để chính phủ Sài Gòn dễ dàng thi hành chính sách khủng bố và đàn áp dân chúng trong khi một mặt khác số lượng viện trợ khổng lồ của Hoa Kỳ chỉ đưa tới việc tham nhũng càng lúc càng bành trướng sâu rộng trong các giới cầm đầu Quân Đội mà thôi.

Hai cuộc tấn câng vào Cao Miên và Ai Lao năm 1970 và 1971 được dự trù dể dập tan các căn cứ tiếp tế của Cộng Sản đã không mang lại thành quả mong muốn. Các cuộc oanh kích tàn khốc vào hai quốc gia láng giềng này của Việt Nam lại đưa tới những kết quả bi thảm khác là làm chết một số lượng không được xác định là bao nhiêu dân quê và gây nên cho cả triệu người phải bỏ nhà cửa chạy giặc và càng làm cho sự sụp đổ càng mau chóng hơn đã đến vào 1975. Mặc dù Tổng thống Nixon có cho rút dần quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam từng giai đoạn một, nhưng đã có tới hai chục ngàn binh sĩ Hoa Kỳ thiệt mạng trong thời gian ông làm Tổng Tư Lệnh và trong hai năm đầu tiên ngồi tại Tòa Bạch Ốc, Nixon đã ra lệnh cho oanh tạc một số lượng bom lớn hơn cả số lượng bom mà Hoa Kỳ đã sử dụng tại Âu Châu và Thái Bình Dương trong kỳ đệ nhị thế chiến vừa qua. Đến tháng 5 năm 1972 thì mỗi ngày Hoa Kỳ đã sử dụng khoảng ba ngàn tấn bom tại Đông Dương, tương đương với hai chục triệu mỹ kim, và chiến tranh vẫn tiếp diễn trong khi tại đây binh sĩ Hoa Kỳ bắt đầu chỉ chiến đấu cho có chừng. Binh lính bắt đầu nghiện ngập. Sĩ Quan bị binh sĩ giết bằng lựu đạn. Thái độ của binh sĩ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc bấy giờ đi đôi với sự tỉnh ngộ từ các cuộc đấu tranh tại quê nhà cùng với hai diễn biến được bi thảm hóa hơn bao giờ hết.

Sự kiện thứ nhứt là sự tiết lộ hồi tháng 11 năm 1969, cho biết tại làng Mỹ Lai, binh sĩ Hoa Kỳ, một năm trước khi sự kiện này được phanh phui ra, đã sát hại trên ba trăm thường dân vô tội. Sự kiện thứ hai là một cuốn sách được xuất bản vào mùa hè năm 1971, trình bày các tài liệu tối mật trong cuốn sách nhan đề là “The Pentagon Paper”. Cuốn sách này mô tả sự nghiên cứu của chính quyền Hoa Kỳ để quốc gia này can thiệp vào Việt Nam từ năm 1954 đến 1968. Cuốn sách đưa ra một sự kiện vô cùng bi thảm, trong đó cho thấy Tổng Thống John F. Kennedy đã can thiệp vào âm mưu lật đổ ông Ngô Đĩnh Diệm và giải pháp Vịnh Bắc Việt với các dữ kiện mơ hồ được đưa ra cho thấy có sự dàn xếp trước để cho Cộng Sản Bắc Việt tấn công vào các lôi đỉnh Hoa Kỳ hồi năm 1964 để Tổng Thống Johnson có cớ đưa Hoa Kỳ tham dự vào cuộc chiến tranh tại Việt Nam mà không phải đưa ra một hình thức tuyên chiến nào theo thông lệ. Trên hết mọi vấn đề thì cuốn “The Pentagon Papers” còn là một cuốn sách liệt kê từng giai đoạn trong đó cho thấy Tổng Thống Kennedy và Johnson đã cố tình đánh lừa dân chúng Hoa Kỳ như thế nào về vấn đề Việt Nam, và họ đã cố tình kéo dài cuộc hòa đàm tại Paris, bắt đầu từ tháng 5 năm 1968 để thu hút sự chú ý của quần chúng Hoa Kỳ như thế nào. Với dụng tâm, cuộc hòa đàm đã kéo dài tới năm năm chỉ vì hai phe cứ mãi lợi dụng cuộc gặp gỡ này để tuyên truyền cho phía mình mà thôi, nhưng cả hai lúc nào cũng đều nhắm vào một vấn đề là ai sẽ lãnh đạo Sài Gòn.

Cuộc đàm phán khởi đầu chỉ có Bắc Việt và Hoa Kỳ, sau này lại kéo thêm đại diện của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhưng rồi trở ngại lại xảy ra. Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng cương quyết đòi cho được Hoa Kỳ phải toàn bộ rút quân ra khỏi Việt Nam và phải để cho Mặt Trận Giải Phóng có được đại diện của họ trong Nội Các miền Nam. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại từ chối thể chế Trung lập.

Trong khi cuộc hòa đàm tại Paris tiếp tục tiến hành mà không có được kết quả gì thì cuộc chiến tranh tại Việt Nam vẫn tiếp diễn xảy ra, và mùa Xuân 1972, Tướng Võ Nguyên Giáp đưa ba mươi Sư Đoàn thiện chiến của mình, có pháo binh và chiến xa yểm trợ tấn công miền Nam. Để đối phó cuộc tấn công này, Tổng Thống Richard Nixon lần đầu tiên kể từ năm 1968 cho tới nay lại ra lệnh cho các pháo đài bay B52 dội bom vào các khu vực chung quanh Hà Nội và Hải Phòng. Ngoài ra Tổng Thống Nixon còn ra lệnh cho gài mìn phong tỏa lại vịnh Bắc Việt. Cuộc tấn công vào miền Nam của Cộng Sản không đưa tới kết quả mà họ mong muốn và cuộc tái oanh kích cũng như phong tỏa vịnh Bắc Việt đã làm cho giới lãnh đạo Hà Nội phải thay đổi yêu sách của họ tại bàn hội nghị.

Đầu tháng 10 năm 1972, Hà Nội bỏ việc kỳ kèo phải để cho Mặt Trận Giải Phóng tham gia vào Chính Phủ Trung Lập tại Sài Gòn lúc bấy giờ, thay vào đó để đạt được thỏa hiệp ngưng bắn, Hà Nội đề nghị chịu đề cho chính phủ Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục tại vị trong khi đó đề nghị thành lập một Ủy Ban Hỗn Hợp Liên Hiệp Quốc Gia để cùng bàn về vấn đề của miền Nam. Vì ngày bầu cử Tổng Thống tại Hoa Kỳ đã gần kề nên Tiến Sĩ Henry Kissinger và Tổng Thống Nixon vội vàng chấp thuận đề nghị này của Cộng sản, nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại tố cáo đề nghị mới này là một hình thức Trung Lập ngụy tạo và từ chối không chịu hợp tác.

Mặc dù có sự trái ngược như vậy nhưng Hoa Kỳ vẫn cho ngưng oanh tạc Bắc Việt để đáp ứng với thiện chí của Hà Nội và Tiến Sĩ Kissinger hí hửng tuyên bố trong một cuộc họp báo tại Hoa Thịnh Đốn hôm 26 tháng 10, cho biết là Hòa Bình đã nằm trong tầm tay.

Hai tuần lễ sau đó, với làn sóng lạc quan về một nền hòa bình sẽ có được, Tổng Thống Nixon được tái đắc cử với một tổng số phiếu tối đa, nhưng đến khi cuộc hòa đàm tại Paris được tái nhóm ngay saư khi cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ hoàn tất thì người ta lại bị đưa vào cái vòng khó hiểu trước những đề nghị mà hai bên đã đưa ra, nhưng lại không biết nên áp dụng theo phương cách nào. Tổng Thống Richard Nixon bị chỉ trích là đã lợi dụng cuộc hòa đàm này để hốt phiếu và khi các phái đoàn đại diện gặp nhau một lần nữa vào tháng mười một tại một ngôi biệt thự vô danh bên ngoài vùng ngoại ô Paris, nơi mà họ từng gặp nhau nhiều lần trong nhiều năm qua thì bên ngoài đường phố giá lạnh, các ký giả, phóng viên, nhiếp ảnh, ai nấy đều mang cái tâm trạng chờ đợi không khác gì các phái đoàn bên trong. Họ dự đoán là cuộc hội họp rồi đây sẽ đưa tới một nền hòa bình thật sự, và không còn bao lâu nữa sẽ đến lễ Giáng Sinh, nhưng đám người hiện đang có mặt để theo dõi cuộc họp này, ai nấy đều linh cảm rằng rằng rồi đây sẽ có một cuộc tàn phá kinh hồn diễn ra trước khi lực lượng Hoa Kỳ chịu cúi đầu ra đi vĩnh viễn khỏi Việt Nam.