BỐN
Toàn thể đại sảnh của khách sạn Majestic trên đại lộ Kléber bỗng dưng bao trùm một bầu không khí im lặng khác thường. Đó đây lúc này chỉ còn có tiếng xào xạc của giấy tờ được chế tạo bằng nguyên liệu tốt và tiếng mưa tuyết đập nhẹ vào cửa sổ mà thôi. Trên chiếc bàn lớn làm bằng một loại gỗ tốt ở giữa căn phòng, tiến sĩ Kissinger và Lê Đức Thọ đang ngồi đâu mặt với nhau, bên cạnh họ, những người phụ tá liên hệ đang im lặng một cách nghiêm trang, đứng chờ để trao cho hai người từng tập giấy dầy độ sáu bảy chục trang, in nội dung của thỏa hiệp ngưng bắn. Những người phụ tá giở từng tập giấy để hai trưởng phái đoàn ký vào bản ghi các điều lệ căn bản mà họ đã từng bỏ công thảo luận ròng rã suốt bốn năm qua.
Bây giờ là một giờ thiếu mười lăm, chiều ngày thứ Ba, 23 tháng giêng năm 1973. Tai Trung Tâm Ngoại giao International Conference Center ở Quai D’Orsay, được trang hoàng với các khung cửa kính màu vàng nhạt, các màn cửa bằng tơ có nhiều phủ, người ta được biết cuộc chiến tranh mà mười năm qua đã đẩy đưa Hoa Kỳ phải chiến đấu tại các vùng rừng núi xa xăm cũng như tại các vùng đồng ruộng sình lầy khắp miền Nam bây giờ đang âm thầm đi vào giai đoạn kết thúc
Một số đông ký giả, phóng viên truyền thanh, truyền hình trên thế giới được mời đến đây để quan sát và chứng kiến buổi lễ ngày hôm nay. Khi một người sĩ quan Pháp từ bên ngoài bước vào ra hiệu cho đám phóng viên, ký giả có thể bắt đầu làm việc, thì các máy quay phim, máy ảnh thi nhau chụp và thu hình những cảnh đặc biệt ngày hôm nay. Ngồi bên cạnh Lê Đức Thọ lúc này, Trần Văn Kim đưa mắt dáo dác nhìn vào đám ký giả, phóng viên tìm kiếm, và khi tìm ra được Joseph Sherman giữa đám người đang bận rộn chung quanh đây, hai người cùng nhìn nhau một thoáng. Trần Văn Kim khẽ gật đầu chào Joseph cho có lệ rồi cúi đầu xuống đống giấy tờ trước mặt mình…
Lúc hai trưởng phái đoàn ký tên xong vào những bản văn kiện chính thức thì những người phụ tá cho xếp lại các tập giấy rồi bước vòng ra bên sau bàn đối diện theo cung cách tiếp tân để trao đổi chữ ký. Khi mọi việc đâu đó xong xuôi thì Kissinger và Lê Đức Thọ cùng thay phiên nhau phát biểu một vài lời về sự mong ước của họ cho nền Hòa bình sắp tới, đồng thời đề cập đến tính cách lịch sử của giờ phút nghiêm trọng này. Lời nói của hai người được thông dịch lại cho toàn thể báo chí ngoại quốc hiện đang có mặt tại đây, sau đó hai người cùng đứng lên, bước ra bên ngoài khách sạn đang lất phất mưa tuyết để cho báo chí chụp những bức hình đánh dấu ngày đặc biệt này. Bên ngoài trời đục ngầu mây mưa, lề đường sũng nước, các nhiếp ảnh viên, chuyên viên thu hình phải dùng đèn để chụp và thu hình khi hai phái đoàn cùng đứng chung lại với nhau vỗ tay, miệng tươi cười cứ như họ là bạn bè thân thiết từ lâu.
Tại hành lang dẫn ra đường, nhân viện của hai phái đoàn cùng các ký giả bắt đầu chụm lại trò chuyện ồn ào trong khi đó một số người chuẩn bị lại nón và áo choàng để ra về. Giữa cảnh náo nhiệt tại nơi này, Joseph bỗng nghe có người chạm tay vào cùi chỏ mình, anh ngẩng đầu lên và bắt gặp Trần Văn Kim đã đến bên cạnh anh từ lúc nào. Kim mói thật nhỏ.
— Monsieur Sherman, có thể nào chúng ta gặp nhau một chút trước khi ông rời Paris không?
Joseph nhún vai với vẻ nghi ngờ:
— Liệu bây giờ đã quá trễ để tiết lộ về các âm mưu phá bĩnh của các chuyên viên hòa đàm quỷ quyệt Hoa Kỳ rồi không?
— Lần này tôi chỉ muốn nói với Monsieur về chuyện cá nhân mà thôi.
Trần Văn Kim đáp lời bằng một giọng ôn tồn khác lạ khiến Joseph thay đổi thái độ dịu dàng hơn.
— Vậy chúng ta có thể gặp nhau để uống tí rượu trên lầu khách sạn mà tôi đang cư ngụ vào chiều hôm nay được không? Tôi đang ở tại khách sạn Internationale.
Trần Văn Kim lắc đầu vội vã.
— Tôi phải gặp Monsieur riêng mới được. Tôi sẽ đến phòng ông vào sáu giờ chiều nay.
Nói xong Trần Văn Kim quày quả bước đi, không kịp cho Joseph trả lời. Phút chốc, Kim mất hút vào đám đông. Joseph ở lại dùng cơm trưa chung với ban tham mưu của Tiến sĩ Kissinger và chính những người trong ban tham mưu này đã tiết lộ cho Joseph biết các điều căn bản của hơn hai mươi điều lệ mới khác được liệt kê thêm vào bản thỏa hiệp sau cùng.
Đến xế trưa thì Joseph về phòng, ngồi trước bàn làm việc của mình, anh cho tra giấy vào bàn máy chữ để chuẩn bị đánh bài bình luận cuối cùng về vấn đề ngày hôm nay cho tờ Times. Suốt một tiếng đồng hồ qua, Joseph đã cố gắng viết lên lời giải thích sự khác biệt giữa bản hiệp định vừa được ký kết với bản thỏa hiệp sơ khởi từng được đưa ra trước khi có cuộc không tập vô tiền khoáng hậu bắt đầu từ trước lễ Giáng Sinh vừa qua tại Hà Nội và Hải Phòng. Joseph cố nhớ lại những điều mà các nhân viên tham mưu của Kissinger đã nói với mình trong buổi cơm trưa vừa qua. Một trong những điều mà Joseph biết được thì sự định nghĩa về vùng phi quân sự có rất nhiều thay đổi. Hoa Kỳ được tiếp tục viện trợ quân sự cho Sài Gòn với những định nghĩa rõ ràng. Một vài điều khoản quá khích được bớt đi để thay thế vào đó những điều lệ khác ôn hòa hơn. Đó là những điều mà ban tham mưu của phái đoàn Hoa Kỳ đã nói với Joseph, nhưng đối với người ký giả có tuổi này thì tất cả chỉ là xảo thuật mà thôi.
Theo Joseph được biết, thì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bị ép buộc phải thỏa thuận để đồng ý với bản thỏa hiệp này. Trên thực tế ông Thiệu không đồng ý chút nào, nhưng Hoa Kỳ đã hăm doạ sẽ cúp hết viện trợ trong tương lai và sẽ để cho Hà Nội thẳng tay với Sài Gòn nếu như ông Thiệu từ chối không chấp nhận thỏa ước này. Có một điều không một ai có thể giải thích được, tại sao Hoa Kỳ phải dội bom tàn khốc vào hồi trước Giáng Sinh tại Bắc Việt.
Trong dịp lễ Giáng Sinh vừa qua, Joseph đã hưởng một mùa lễ buồn tẻ tại một ngôi nhà vùng thôn quê, mãi tận West Dussex Downs, nơi mà anh đang sống với vợ là Naomi Lewis từ năm 1968 đến nay. Suốt trong thời gian lễ, Joseph mãi nằm nghe tin tức của các đài phát thanh, loan tin về các cuộc tàn phá của B52 tại Bắc Việt. Các cơ sở tại các hải cảng, đường sá, cầu cống, cắc kho tàng và hãng xưởng đều bị tàn phá một cách chính xác khiến cho khả năng gây chiến của Hà Nội bị tbiệt hại vô cùng trầm trọng. Cũng cùng lúc đó, tin tức còn cho biết toàn thể thế giới cực lực kết án, chỉ trích cuộc dội bom tàn khốc này của Hoa Kỳ.
Tính ra đã có hơn chín mươi lăm ngàn tấn chất nổ thả xuống Đông Dương trong thời gian của cuộc dội bom. Số lượng bom đạn sử dụng này nhiều hơn cả số lượng mà Đức Quốc Xã đã thả xuống Anh Quốc hồi kỳ đệ nhị thế chiến vừa qua và nhiều nhà báo Tây Phương đã cực lực kết án cuộc dội bom này là một hành động cực kỳ tàn bạo và dã man chưa từng thấy…
Sau cùng thì cuộc không tập được đình chỉ vào ngày 30 tháng 12, và Tòa Bạch ốc đã hứa với Hà Nội là Hoa Kỳ sẽ không dội bom nữa, nếu một khi Bắc Việt chịu ngồi lại bàn hội nghị tại Paris nghiêm chỉnh. Ngày 8 tháng giêng năm 1973, tiến sĩ Kissinger trở lại Pháp và lần đầu tiên, viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đã gặp lại một Lê Đức Thọ hoàn toàn khác hẳn với các lần trước. Lê Đức Thọ đã sốt sắng đi đến giải pháp để lo cho xong cuộc thảo luận. Thái độ của viên trưởng đoàn Bắc Việt không còn châm chọc, phá bĩnh như những lần vào đầu tháng mười hai vừa qua và các chi tiết về cuộc ngưng bắn được giải quyết trong vòng chỉ có một tuần lễ.
Joseph được biết là vào những ngày đầu tiên của năm 1973, tại Hoa Kỳ người ta đã bắt đầu công khai công nhận là cuộc chiến tranh này là một lỗi lầm lớn nhứt mà quốc gia này mắc phải. Có khoảng năm mươi bảy ngàn người Hoa Kỳ bị thiệt mạng trong trận chiến tranh này và một trăm bốn mươi sáu tỷ mỹ kim đã tiêu phí vào cuộc xung đột khiến nhân dân Hoa Kỳ bị phân tán hơn bao giờ hết kể từ khi có cuộc nội chiến tại quốc gia của họ, nhưng bây giờ, ngồi một mình trong phòng khách sạn giữa một chiều đông giá lạnh, Joseph cảm thấy khó khăn vô cùng trong việc khai đầu cho bài báo mà anh phải viết cho số phát hành ngày mai. Joseph đã trải qua mấy giờ liền, cố vật lộn với trí óc để tìm ý cho bài báo, nhưng thời gian trôi qua đã lâu, tờ giấy trên bàn máy đánh chữ vẫn chưa có được một dòng nào, cho đến khi bên ngoài có tiếng người gõ cửa. Từ bên ngoài, Trần Văn Kim không bận tâm đến việc chào hỏi, bước vội vào bên trong. Kim cầm trên tay một phong bì màu vàng đưa về phía Joseph, anh cầm lấy hững hờ.
— Cái gì đây?
Trần Văn Kim đáp ngắn ngủn, không nhìn lên.
— Hình.
— Hình của ai?
— Con gái của ông, Tuyết.
Toàn thể căn phòng vụt yên lặng hoàn toàn. Joseph chau mày ngơ ngác rồi đưa tay mở chiếc phong bì trong khi Trần Văn Kim nhỏ nhẹ cất tiếng.
— Tôi muốn nói cho Monsieur biết là con gái của ông đã chết. Nó chết trong trận dội bom hồi lễ Giáng Sinh vừa qua.
Joseph dừng tay trên chiếc phong bì chưa kịp mở, đứng sững giữa phòng một lúc rồi quăng chiếc phong bì lên bàn đoạn ngồi phịch xuống ghế, quay lưng về Kim. Thỉnh thoảng Joseph đưa tay bóp chặt lên mang tai như cố đè bớt cơn đau đớn đang hoành hành mình. Kim vẫn đứng yên trước cửa phòng, áo choàng vẫn còn để nguyên cúc cài, gương mặt Kim không tỏ một thái độ nào khác lạ.
— Tuyết chết như thế nào?
— Thật ra thì một phần lớn dân chúng ở Khâm Thiên đã được di tản khỏi thành phố, nhưng hầu hết những vùng phụ cận tại đó đã bị cuộc dội bom vào đêm cuối cùng tàn sát gần hết, không còn một người nào sống sót.
Joseph buồn bã nói:
— Tôi muốn hỏi Tuyết và gia đình của nó. Cả ba mẹ con nó đều chết hết cả phải không?
— Chương và Tuyết đã chết. Còn Trinh, nhờ trốn ở một hầm núp khác nên nó còn sống.
Joseph đưa hai tay ôm lấy đầu, mắt nhìn thẳng vào khoảng trống trước mặt. Một lúc sau anh quay đầu nhìn lại chiếc phong bì trên bàn. Joseph đưa tay cầm lên mở ra, trải những tấm hình lên mặt bàn. Anh nhận ra một tấm hình của Tuyết do chính tay anh chụp lấy cho Tuyết trước cửa trường Marie Curie ở Sài Gòn. Lúc đó Tuyết mới mười sáu tuổi. Tuyết mặc một chiếc áo dài màu nhạt, trên mặt nàng phảng phất buồn, nhưng gương mặt trẻ trung đó thật đẹp. Một tấm hình khác có lẽ chụp lúc đám cưới của nàng, cho thấy Tuyết đang mỉm cười, choàng tay qua một người thanh niên Việt Nam có đôi mắt thật dữ dằn, lúng túng trong bộ âu phục hơi rộng. Một bức hình khác Tuyết đang chụp chung với Lan, cả hai đều mặc áo dài thật đẹp, dù ai xa lạ nhìn vào bức hình này cũng biết được đây là hai mẹ con, nhưng tấm hình cho thấy hai người không đứng sát bên nhau, cũng không nắm tay nhau và cũng không nhìn nhau. Một số hình khác chụp Tuyết đứng chung với các con của nàng. Tấm hình cuối cùng là hình của Chương và Trinh. Cả hai đều lớn hơn hồi Joseph thấy chúng ở Huế, điều này cho biết là ảnh được chụp mấy lúc gần đây.
Trong đống hình có một mảnh giấy viết nguệch ngoạc bằng tiếng Pháp và bên dưới có ký tên Trinh. Joseph chợt nghe nghẹn ngào tràn lên cổ khi đọc những dòng chữ đó.
“Con biết là mẹ của con muốn ông giữ các tấm hình này. Mẹ con rất ít khi nói chuyện về ông, nhưng con đã nhiều lần bắt mẹ con nói cho con biết về ông, sau lần con gặp ông ở Huế. Con nghĩ rằng mẹ con không thích nói về vấn đề này lắm, vì mỗi lần nói tới thì mẹ con đều khóc. Có một lần mẹ con nói cho con biết, là ông sẽ không bao giờ thấy được những tấm hình này, nhưng con nghĩ rằng ông Kim của con sẽ biết cách đưa những tấm hình này đến cho ông. Con mong là ông sẽ không phiền trách chi con vì con muốn xin ông được giữ một bức ảnh mà ông chụp chung với mẹ con ở trước trường của mẹ tại Sài Gòn ngày xưa. Kính chào ông. — Trinh”
Joseph thả rơi tờ giấy xuống mặt bàn, hai tay ôm chặt lấy đầu. Anh ngồi như vậy thật lâu, không quan tâm đến sự có mặt của Trần Văn Kim.
— Trinh nó nhất quyết nài nỉ tôi trao lại cho Monsieur, bằng không tôi đã không đến gặp ông làm gì.
Joseph ngẩng đầu lên nhìn Kim và một lần nữa, anh thấy Trần Văn Kim vẫn e dè, giọng nói của Kim như cố che giấu điều gì như lần nói chuyện với Joseph trên đường Kléber hồi trưa, anh quay người về phía Kim.
— Vậy rồi đây Trinh sẽ ra sao?
— Đảng sẽ lo cho nó.
Sự đối đáp quá nhanh của Trần Văn Kim vang động khắp căn phòng và dường như Kim cũng chợt nhận ra lời nói của mình có vẻ không ổn, anh chần chừ bước đến gần bên Joseph thêm một chút rồi nói tiếp.
— Dĩ nhiên tôi cũng đứng ra lo cho nó nữa. Tuyết nó không phải chỉ là con của ông mà thôi, nó còn là con gái của em tôi nữa.
— Anh có kề cận nó thường không?
Joseph cất giọng hỏi đầy vẻ ngạc nhiên và Kim đáp:
— Tuyết nó biết rõ tình cảnh hai dòng máu trong người của nó khi nó tới Hà Nội, và tôi nghĩ điều này đã làm nó và tôi không được gần gũi nhau cho lắm, tuy nhiên tôi cũng đã cố gắng giúp đỡ nó mà nó không biết. Như Monsieur đã biết qua lá thơ của con Trinh, Trinh nó không như mẹ nó, nó nhận tôi là ông cậu của nó.
Joseph gật đầu buồn bã.
— Nếu Lan chịu giữ lời lấy tôi thì tôi với anh đã là anh em rồi Kim à.
Trần Văn Kim chau mày ngạc nhiên.
— Có lần Tuyết có nói cho tôi biết là ông đã có lần hỏi cưới em gái tôi, nhưng nó không nói cho tôi biết ý của mẹ nó như thế nào.
Joseph cúi gằm xuống mặt bàn.
— Lần đầu tiên tôi ngỏ ý với Lan thì Lan đã bằng lòng, nhưng sau cùng vì chữ hiếu đối với cha quá nặng, trong khi đó tôi lại ngỏ lời với Lan cùng một lúc khi anh có chuyện xích mích với cha của anh, và sau khi anh bỏ nhà ra đi thì Lan thay đổi ý của nàng. Lan cho biết là cha mình đang cần sự hiếu thảo của nàng lúc đó hơn bao giờ hết.
Trần Văn Kim cúi đầu yên lặng, vì thế sự im lặng ngột ngạt càng kéo dài thêm ra. Sau cùng, Joseph cất tiếng nhỏ nhẹ.
— Tôi có cảm tưởng như anh vẫn còn tứ cố vô thân, phải không Kim?
— Vâng, tôi vẫn chưa lập gia đình lần nào. Tôi quyết định noi gương vị Chủ Tịch quá cố của mình để dồn hết cuộc đời cho Cách Mạng.
Trần Văn Kim nói với một giọng đầy vẻ khinh thường, nhưng Joseph có thể thấy một thoáng bối rối vụt lên qua thái độ của người đàn ông đứng đó.
— Chỉ vì vậy thôi sao?
Trần Văn Kim vẫn cúi đầu nhìn xuống sàn nhà.
— Có lẽ vì lần gây lộn với cha tôi ngày xưa cũng đã ảnh hưởng ít nhiều đến quyết định này của tôi nữa. Có lẽ vì lần gây lộn đó đã khiến tôi trở nên bi quan trước mọi tập tục cổ truyền về gia đình tại Việt Nam, và sau cùng thì quyết định của tôi có lẽ cũng không mấy gì khôn ngoan cho lắm.
Joseph thấy rõ là Trần Văn Kim nhìn nhận các lỗi lầm của mình không được trôi chảy dễ dàng gì, cho nên anh bỗng nghe lòng mình rộn lên một cảm tình đau đớn và cảm thấy tội nghiệp cho người đàn ông chai đá trước mặt.
— Thật là mỉa mai vô cùng phải không Kim? Chúng ta không ngờ lại có dịp nói chuyện như thế này tại Paris vào một ngày như ngày hôm nay. Đã hơn bốn mươi năm qua, kể từ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, với từng thời gian đó đã qua, cả hai chúng ta cũng đã phải chịu nhiều đau khổ vì cuộc chiến tranh ở đó. Cha mẹ của anh, em gái của anh, và cháu của anh bây giờ đã chết, anh thì đã từ bỏ gia đình lâu lắm rồi. Còn tôi, tôi mất một đứa con trai, mất một đứa em, và mất một đứa con gái, nhưng rồi để làm gì?
— Để cho Tự Do. Nhân dân Việt Nam lúc nào cũng quyết tâm để được Tự Do.
Trần Văn Kim nói lên những điều giả dối này một cách buồn rầu, anh đưa tay mở nút áo choàng rồi tự ngồi xuống một chiếc ghế gần đó trước khi nói tiếp.
— Sự xung đột giữa những người thân Pháp và những người yêu nước chân thành của chúng tôi lúc nào cũng không làm sao có thể tránh khỏi được. Không còn cách nào để anh em cùng một nhà khỏi bôi mặt đánh nhau tại Việt Nam. Hoa Kỳ đáng lẽ phải biết rõ điều đó để không nhúng tay vào ngay từ đầu, và như vậy ít nhứt ông cũng không bị dính líu vào thảm trạng này.
Joseph ngồi yên, mắt nhìn vào tờ giấy vẫn chưa có chữ nào trên bàn máy chữ, chừng quay qua nhìn Kim một lần nữa, Joseph vụt lóe lên một ý nghĩ.
— Kim, có lẽ suốt cuộc đời anh, anh chưa bao giờ hiểu, anh không hiểu là người Hoa Kỳ chúng tôi đến Việt Nam với một ý định caọ cả của riêng mình. Chúng tôi đã lo sợ, nếu như chúng tôi không hành động thì chủ nghĩa Cộng Sản sẽ lan tràn và sẽ làm thay đổi bộ mặt của thế giới này không làm sao ngờ trước được. Trở ngại là chúng tôi cứ mãi đeo đuổi một cuộc chiến tranh mà chúng tôi biết mình đã sai lầm từ trước và chúng tôi đã không hiểu rõ được cái thực chất đầy phức tạp của cuộc chiến tranh tại quê hương của anh, và trong lúc túng thế, chúng tôi đã cho áp dụng các phương pháp gây tàn phá kinh khủng, đến nỗi việc này đã phản bội hẳn lại hết tất cả những nguyên tắc căn bản chính yếu của chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi đã cố gắng làm sao thắng cho bằng được cuộc chiến tranh này để thỏa mãn sự kiêu căng của xứ sở mình. Đó là lý do tại sao chiến tranh đã làm tan nát đất nước của chúng tôi.
Trần Văn Kim gật đầu.
— Lỗi lầm nào cũng làm cho người chủ xướng bị nhiều thiệt thòi, và Hoa Kỳ đã trả giá cho sự lầm lẫn của mình.
Joseph quyết định im lặng và không trả lời một lúc lâu.
— Kim, anh không bao giờ thấy hối tiếc về việc anh đã làm hồi năm 1936 hay sao? Anh không bao giờ hối hận vì đã ngoảnh mặt đi với cha anh và đã làm tan nát hết gia đình anh sao?
— Chuyện này thường làm cho tôi rất đau buồn. Tôi biết là tôi rất đau khổ trước cái chết của cha mẹ tôi và em gái tôi. Tôi biết, tôi đã phải trả một giá rất đắt cho các điều tin tưởng về chính trị của tôi, nhưng lúc nào tôi cũng biết là điều mình dấn thân vào nặng hơn các liên hệ gia đình của mình.
— Có khi nào những cảnh tàn phá kinh hoàng vừa qua làm cho anh phải suy nghĩ lại không? Có khi nào anh tự hỏi, liệu mình có chọn đúng đường đi hay không?
Trần Văn Kim im lặng một lúc lâu trước khi lắc đầu nhè nhẹ.
— Bây giờ thì tôi đã thấy rõ là không còn cách nào để làm cho cha tôi nhìn thấy được những gì tôi đã làm. Cha tôi đã không còn thể nào hiểu được là lịch sử đang làm đổi thay thế giới. Cha tôi đã tưởng rằng những đất đai, ruộng vườn mà người Pháp đã bất công đem chia cho ông ấy, và ông ấy có thể giữ mãi cho mình. Sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam có làm cho dòng lịch sử ngưng lại đôi chút và kéo dài thêm các hy vọng hão huyền đó của cha tôi, nhưng thỏa hiệp hôm nay đã đem dòng lịch sử chuyển mình trở lại. Rồi đây tất cả các đất đai, vườn tược của anh Tâm tôi sẽ bị tước đoạt, cuối cùng, anh ấy cũng phải nhìn nhận là anh ấy và cha tôi đã chọn lầm chính nghĩa.
Kim ngừng nói và khẽ thở dài.
— Cha tôi đã nói với tôi hôm cuối cùng, là lý thuyết Mác Xít sẽ làm tan vỡ gia đình và quê hương của chúng tôi, nhưng cha tôi đã sai khi nói về quê hương của mình. Những chuyện đang xảy ra tại Paris ngày hôm nay đã hơn lúc nào hết chứng minh là từ năm 1936 tôi đã chọn đúng đường đi cho mình. Sự hy sinh của tôi đã có giá trị.
— Nhưng anh vẫn là một người cô đơn phải không Kim? Tôi thấy như vậy mà!
Trần Văn Kim nhìn vội lên mắt Joseph, miệng anh mím chặt đầy bối rối.
— Vâng, tôi không chối cãi điều đó, cho nên đó là lý do tại sao tôi sẽ vui lòng làm được gì cho Trinh thì tôi sẽ làm. Một đôi khi nhờ có Trinh, tôi có được cái cảm tưởng mình gặp lại em gái của mình, lúc nó còn là một đứa bé khi nó và anh Tâm tôi, chúng tôi cùng vui vẻ bên nhau, kỷ niệm này thật vừa tuyệt vời, vừa thật đau khổ.
— Nhưng con người chúng ta càng về già thì các kỷ niệm của họ sẽ càng vô cùng quan trọng nếu như họ không còn có gì khác ở trên đời này nữa.
Joseph đứng lên, đến bên cạnh cửa sổ đưa mắt nhìn ra ngoài đêm tối. Mưa bây giờ đã trở thành tuyết. Từng cụm tuyết lớn đang lặng lẽ xoáy mình rơi xuống đất lấp lánh qua ánh sáng nhạt nhòa từ bên trong vườn Tuileries chiếu lại. Khung cảnh ảm đạm bên ngoài bỗng dưng thôi thúc nỗi sầu trong lòng Joseph, anh cất giọng đầy thối chí.
— Ở nhà, quân đội chúng tôi rất hãnh diện về cuộc dội bom hồi lễ Giáng Sinh vừa qua… Chỉ làm thiệt mạng hơn một ngàn rưỡi sinh linh, trong khi đó các mục tiêu chiến lược tại hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng hầu như bị tiêu hủy hoàn toàn, cho nên ai nấy đều hân hoan, nhưng có khi chỉ cần một người chết thôi thì cũng đã quá nhiều, một khi người đó là con gái mình.
Joseph vẫn nhìn vào các bông tuyết đang rơi bên ngoài.
— Cuộc dội bom đó là một hình thức tra khảo của chúng tôi. Các anh đã cố thu thập các tin tức bằng cách đánh đập tàn nhẫn tù binh của chúng tôi để họ thú tội cho các anh thực hiện các âm mưu tuyên truyền của mình, mặc dù ai cũng biết tất cả đều không có nghĩa lý gì, bởi vì hồi tháng mười hai vừa qua, Lê Đức Thọ đã không chịu nói ra những gì mà chúng tôi muốn ông ta nói, và chúng tôi đã cho thực hiện một cuộc không tập lớn nhứt lịch sử. Chúng tôi đã siết mạnh sợi dây đeo cổ, cho đến khi Lê Đức Thọ chịu trở lại đường Kléber báo cáo và ký vào bản thỏa hiệp hầu khỏi bị ăn thêm bom và cả hai chúng ta đều biết rằng, khi nào các anh phục hồi lại được thì các anh sẽ tiến chiếm miền Nam như thường theo ý đồ của các anh từ trước tới giờ.
Trần Văn Kim đứng lên, gương mặt anh thản nhiên, đưa tay gài lại nút áo choàng.
— Ông đã nói đúng, Monsieur Sherman. Chúng tôi sẽ không thể ngưng lại được cho đến khi nào chúng tôi đạt được mục tiêu của mình. Sẽ có một ngày đất nước của chúng tôi được thống nhứt. Chúng tôi không phải chỉ đem thân xác chúng tôi ra tranh đấu để chỉ đạt tới thỏa hiệp mà thôi.
Từ bên cửa sổ, Joseph bước đến bên cạnh Kim chìa tay ra. Kim khựng người đưa mắt nhìn xuống bàn tay của Joseph đầy ngạc nhiên.
— Chúng ta không thể nào mãi giả đò lúc nào chúng ta cũng là bạn với nhau được, nhưng thực sự thì chúng ta đã biết nhau gần nửa thế kỷ nay rồi và hôm nay phải là một ngày dành cho sự hòa giải. Tôi xin cám ơn anh đã mang giùm những tấm hình này đến tôi. Kim, tôi cũng xin cám ơn anh đã nói cho tôi biết về tin tức của Tuyết. Lẽ ra tôi phải biết từ trước.
Hai người siết chắt tay nhau xong thì Trần Văn Kim bước ra cửa. Joseph đi trước dẫn đường nhưng anh ngần ngừ trước cửa và không mở cửa vội.
Một thoáng nhăn hằn lên khuôn mặt của Joseph.
— Xin anh hãy cho tôi biết một việc nữa Kim, anh đã có đến thăm anh Tâm của anh khi cả hai cùng đều có mặt ở Paris này chưa?
Ánh mắt Kim thoáng một chút thủ thế đoạn cúi đầu nhìn xuống đôi găng của mình trên tay.
— Tôi có đến thăm anh ấy một chút tại địa chỉ mà Monsieur cho tôi, nhưng rồi chúng tôi phải đau đớn xa nhau ngay.
Trần Văn Kim cúi mặt nhìn xuống mũi giày của mình, không nói gì thêm một lúc lâu mới nhìn lên.
— Việc này không có ai biết cả ngoài Monsieur, vậy xin Monsieur đừng nói lại với ai hết cho.
— Tôi sẽ không nói với ai đâu.
Nói xong Joseph đưa tay mở cửa, đứng nép qua một bên.
— Trước khi anh ra về, tôi còn phải cám ơn anh một điều nữa.
— Chuyện gì vậy?
— Trước khi anh đến đây, quả tình tôi không biết phải viết gì cho bài báo ngày mai của tôi hết cả. Bây giờ thì tôi biết tôi phải viết những gì. Tôi sẽ viết về những điều mà anh vừa cho tôi biết và sự đau buồn của chính mình nữa.
Đôi mắt Kim mở to kinh ngạc.
— Ông sẽ viết về cái chết của con gái ông?
Joseph không chần chừ gật đầu.
— Vâng, tôi sẽ viết về sự liên hệ của chính tôi với Việt Nam từ nhiều năm qua.
Trần Văn Kim chậm rãi nói.
— Vậy chắc phải là một bài báo đáng quan tâm. Thôi tôi xin chào ông.
Trần Văn Kim bắt lấy tay Joseph một lần nữa, rồi bước vội ra khỏi phòng.
Khi người khách rời khỏi phòng, Joseph đã tỉ mỉ kể lại sự liên hệ của gia đình mình với Việt Nam, bắt đầu bằng cái chết của Chuck Sherman vào những năm 1920 trong chuyến đi săn và kết thúc ngắn với cái chết của Tuyết vì bom oanh tạc của Hoa Kỳ hồi dịp Giáng Sinh. Trong bài báo này, Joseph cũng đưa ra cho độc giả thấy làm thế nào các diễn biến xảy ra tại Việt Nam đã ảnh hưởng đến đời sống của chính mình, rồi đứng lên đi qua, đi lại trong phòng, suy nghĩ một lúc lâu trước khi anh ngồi lại trước bàn máy chữ, đánh phần kết của bài báo.
— Nhìn lại suốt năm mươi năm qua, với các thảm cảnh cá nhân xảy ra từ một khu rừng rậm ở miền Nam Việt Nam ngày xưa cho đến ngay lúc này, tôi nhận thức được rằng sự lầm lẫn tai hại nhứt của gia đình tôi là ngay từ phút đầu, chúng tôi đã không chịu chấp nhận một cách cởi mở là cái chết của anh tôi có thể tránh được, nếu như tất cả mọi người trong gia đình chúng tôi biết tiên liệu. Gia đình chúng tôi đã không chịu nhìn thẳng vào thực tế, nên bên dưới sự thật thì sự tàn phá lúc nào cũng vẫn tiếp tục xảy ra ngay từ lúc đầu. Trên con đường đi tìm phương cách để bảo vệ danh dự cho Hoa Kỳ, các Tổng Thống của quốc gia này cũng như những nhà lãnh đạo trong nước chúng tôi đã rơi vào các lỗi lầm tương tự từ nhiều năm qua, và họ đã đưa các thảm trạng không tiên đoán đó lên đất nước chúng tôi. Chỉ trừ khi nào chúng tôi nhìn nhận được điều này và tránh không để bị rơi vào các lỗi lầm như vừa đề cập, thì những công dân Hoa Kỳ đã bỏ mình tại Việt Nam mới có ý nghĩa về sự hy sinh của họ.
Joseph kéo tờ giấy cuối cùng ra khỏi máy đánh chữ, đọc lại một lần nữa rồi đậy nắp máy lại. Anh đưa tay gom đống hình của Tuyết, vẫn còn để nguyên trên mặt bàn từ nãy giờ, cho vào cặp xách trước khi đem bài báo giao cho phòng viễn ấn tự bên dưới lầu khách sạn chuyển về tờ Times bên Luân Đôn rồi xách hành lý xuống đường đón taxi ra phi trường trở về Anh Quốc, Joseph đã không đón được xe ngay như ý muốn, anh tần ngần đứng bên vệ đường một lúc. Tuyết rơi phũ phàng xuống đôi bờ vai lệch lạc của người lữ khách.
Gương mặt Joseph hằn lên những vết thương đau, buồn khổ. vết thương trên vai mà anh bị trúng đạn hồi Tết Mậu Thân vừa qua bỗng thoáng lên cơn đau từng hồi. Joseph chợt nghe mình già hẳn đi. Các đóm tuyết trắng xóa rơi tới tấp xuống đầu và vai anh rồi đọng lại những nơi đó. Joseph bây giờ là một ông già sáu mươi ba tuổi.