SÁU
Khi Naomi rời Luân Đôn để sang Việt Nam làm phóng sự về việc Bắc Việt xua mười tám Sư Đoàn vào Nam, thì Joseph về ngụ tại căn nhà ở vùng West Sussex, cách Luân Đôn sáu mươi dặm về hướng Nam. Tại vùng đồi xanh thẳm của vùng South Downs này, Joseph cố gắng để viết cho xong cuốn sách của mình, nhưng ngày lại qua ngày, anh luôn luôn bị chi phối bởi các tin tức từ Sài Gòn đưa tới.
Sau khi Naomi rời khỏi đây bốn mươi tám tiếng đồng hồ thì quân Cộng Sản đã vào tới Qui Nhơn, Nha Trang và Đà Lạt mà chỉ gặp sự chống cự thật yếu ớt của quân Chính Phủ lúc đó đang sa sút tinh thần thật trầm trọng, và cứ mỗi lần nghe đài phát thanh loan báo các thành phố lần lượt rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt thì đầu óc của Joseph càng bị rơi vào những kỷ niệm của ngày cũ. Anh nhớ đến cuộc hành trình vô vọng với Lan bên cạnh mình trên chiếc xe Jeep của OSS hồi 1945, chạy liên tục ra mạn Bắc trên con đường cái quan ngày xưa để băng qua các vùng biển trắng xóa tuyệt vời của Nha Trang và Qui Nhơn.
Sự thất thủ của Đà Lạt vào ngày hai tháng tư càng làm cho Joseph bàng hoàng, chua chát khi nghĩ tới niềm vui của anh cùng Lan đã chia sẻ tại khách sạn Lang Biang Palace hồi 1954. Từ đó, ký ức hành hạ đưa Joseph nhớ tới cái chết uẩn ức của Lan trước mặt mình tại Sài Gòn cách sau đó vài tuần. Các kỷ niệm đau buồn này đẩy đưa, khiến Joseph nghĩ ngợi đến điều quái gở. Anh vụt lo sợ cho sự an toàn của Naomi trong lúc này hơn bao giờ hết để từ đó anh hồi hộp trông ngóng điện thoại vợ. Tuần lễ đầu tiên Naomi có gọi điện thoại cho anh một hai lần từ khách sạn Contiental Palace, nhưng tất cả những lần gọi này, Naomi chỉ đề cập đến các điều trễ nải, thêm vào đó đường dây viễn liên bị quá nhiều giao thoa nên Naomi chỉ nói rất ít đến những cuộc giao tranh mà nàng chứng kiến. Cuối cùng, Naomi cho biết là nàng vẫn bình yên và để trấn an chồng, Naomi đã hứa sẽ không dấn thân vào các vùng nguy hiểm, nhưng thời gian lần lượt trôi qua, các cuộc điện đàm đầy trắc trở này thay vì có làm cho Joseph đỡ lo đi phần nào, thì ngược lại, chúng lại đẩy đưa anh vào tình cảnh lúc nào cũng bất an thêm hơn.
Hết tuần lễ đầu tháng Tư thì Cộng sản bắt đầu siết chặt vòng vây quân sự chung quanh Sài Gòn. Non một trăm ngàn quân chính phủ phải đương đầu với khoảng ba trăm ngàn quân chính quy Bắc Việt hiện đang chĩa mũi dùi tấn công vào Thủ Đô với khoảng cách trong vòng bốn mươi dặm tại Xuân Lộc. Bây giờ thì hy vọng của Joseph chỉ còn đặt vào một lẽ là Hà Nội có thể nói chuyện rồi để cho binh sĩ của họ xuất hiện giữa Sài Gòn như là một đoàn quân giải phóng, thay vì tấn chiếm Thủ Đô này bằng quân sự. Joseph cũng hồi hộp theo dõi các báo cáo từ Hoa Thịnh Đốn cho biết Tổng Thống Ford của Hoa Kỳ đang làm áp lực với Quốc Hội để xin thêm một liều thuốc ba trăm năm chục triệu Mỹ kim viện trợ để cứu Sài Gòn, nhưng ngày qua ngày, các nhà Lập Pháp tại Điện Capitol vẫn cương quyết bảo vệ quyền hành của họ trước cơn bạo động Tổng Thống Chế của Richard Nixon còn để lại.
Hàng loạt tin tức về các diễn biến dồn dập như thế này được phát thanh trên các làn sóng ngắn, và cứ mỗi giờ qua thì cục diện lại có đổi thay, nên Joseph phải bỏ công theo dõi thường xuyên. Anh không còn tâm trí đâu để nghĩ tới việc viết lách, dù anh đang ở một nơi vô cùng yên tĩnh tại miền Nam nước Anh này. Mỗi buổi sáng Joseph phải dậy thật sớm, lái xe đến một thị trấn thật xưa Chichater để mua thêm báo, được đưa đến đây bằng đường xe lửa. Suốt ngày Joseph bồn chồn đi tới, đi lui chung quanh các đồng cỏ và vườn tược chung quanh nhà để chờ đón nghe tin tức trên đài phát thanh, đồng thời để chờ điện thoại của Naomi, và sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức thì Joseph đã biết mọi việc đã đến hồi kết thúc. Anh đã bỏ nhiều thì giờ thẫn thờ ngoài đồng hơn với các khu đồng cỏ đã chớm bông nẩy lộc. Gương mặt sạm nắng của Joseph giờ lại hằn thêm nhiều nỗi lo âu, hai bờ vai cong xuống rõ ràng vì những diễn biến đang xảy ra và đang hành hạ anh độc hại trước cảnh huống bó tay của mình.
Cùng thời gian với bồn chồn mà Joseph phải chịu đựng tại nước Anh này thì cách đây nhiều ngàn dặm, tại Hà Nội, người anh trai của cô gái mà cách đây bốn mươi năm đã từng làm cho tinh thần Joseph dính vào Việt Nam, cũng đang sống trong cảnh bồn chồn, lo sợ như Joseph. Ngay lúc Joseph tản bộ hàng ngày chung quanh các đồng cỏ tại vùng South Downs thì Trần Văn Kim cũng đang bất ổn bước tới, bước lui trên sàn nhà tại một căn phòng làm việc tồi tàn được dành riêng cho cán bộ Trung Ương Cục Đảng Lao Động. Nỗi lo sợ của Trần Văn Kim mặc dù cũng do diễn biến đang xảy ra tạo nên, nhưng khác hơn Joseph, là lúc này Kim còn có mọi lo sợ về sự an nguy cho chính mình.
Thực tế thì Trần Văn Kim đã nhận thức được sự nghiệp của mình và ngay cả mạng sống của mình nữa hiện đang bị đe dọa càng lúc càng nhiều. Các cuộc họp và các cuộc hội thảo liên tục ngày đêm xảy ra khi cuộc khởi quân mang danh hiệu Hồ Chí Minh thành công hồi đầu tháng ba, và mới đây hồi đầu tháng này, đã làm cho Kim vô cùng mệt mỏi. Thật sự thì thoạt tiên Kim đã chán nản khi phải theo dõi các dấu hiệu đầy lo ngại này. Kim đã tham dự hầu hết các cuộc bàn cãi thời sự này, và với kinh nghiệm lâu dài mà anh đã từng học được với một người già dặn như Hồ Chí Minh, người đã nằm xuống hồi tháng 9 năm 1969, Kim đã cẩn thận không dốc lòng vào bất cứ quan điểm nào của một trong hai phe đang chia rẽ trầm trọng trong Cục Bộ của Đảng hết cả.
Một nhóm hiện đang muốn tung hết mọi nỗ lực, bất chấp mọi hiểm nguy để cố chiếm cho bằng được Sài Gòn, trong khi đó một nhóm khác biện hộ cho quan điểm của họ, là phải hết sức thận trọng và quyết tâm hạn chế tiềm lực của Đảng. Trần Văn Kim đã thấy hai nhóm đưa ra hai quan điểm khác nhau như vậy nên anh đã phải dàn xếp để hoan nghênh hoặc phê bình hai phe đồng đều với nhau và khi tin rằng mình đã chọn một thái độ rất khôn ngoan, Kim đã quên hẳn đi việc từ lâu nay mình đã không còn được mời đến dự các phiên họp, và cũng không được mời phát biểu ý kiến gì cho các diễn biến xảy ra mấy lúc gần đây.
Sau cuộc chiến thắng của quân Khơ Me Đỏ tại Cam Bốt và sự từ chức của Nguyễn Văn Thiệu thì nhịp độ của các buổi họp càng gia tăng thật nhiều. Các dãy hành lang tại Bộ Chỉ Huy Trung Ương Đảng, ngày cũng như đêm, lúc nào cũng đông đảo các cán bộ cao cấp vội vàng tới lui, trên tay người nào cũng đầy ắp các giấy tờ tối mật. Trong khi đó các chương trình họp ấn định cho Kim càng lúc càng sa sút rõ rệt, và lúc đầu, Kim nghe sợ sệt bao trùm. Anh hoàn toàn bị bỏ rơi bên ngoài các cuộc họp cao cấp, bàn về các chính sách cho tương lai miền Nam, và như vậy thì chỉ có một vấn đề sẽ xảy ra.
Bị bỏ rơi trong phòng một mình nhiều giờ, Trần Văn Kim bắt đầu lục lạo hết trí nhớ để tìm xem mình có vi phạm điều gì mà mình không biết hay không. Sự liên hệ của Kim và Hồ Chí Minh riêng rẽ và lâu dài, tình thắm thiết giữa hai người đã kéo dài suốt hơn ba mươi năm đã làm cho anh nghĩ là anh xứng đáng một chức vị ngang hàng với Hồ Chí Minh hơn ai hết trong Cục Bộ Đảng. Sau ngày Hồ Chí Minh chết thì địa vị và ảnh hưởng của Kim cũng bắt đầu càng ngày càng giảm dần đi, nhưng Kim lúc nào cũng tin tưởng rằng với uy tín và sự hiểu biết sâu rộng về các công việc trong Đảng mà mình có được sau ba mươi năm bên cạnh Chủ Tịch chắc chắn việc này sẽ bảo đảm được địa vị của mình. Trần Văn Kim cũng biết là trong thời gian mà anh sát cánh bên Hồ Chí Minh cũng có gây ra nhiều đố kỵ, giữa những người trong Trung Ương Đảng Bộ, đặc biệt là Tướng Võ Nguyên Giáp. Vào những năm cuối cùng của cuộc đời Hồ Chí Minh, Giáp đã đối xử với Kim thật lạnh nhạt.
Bây giờ là thời gian cuối của tháng Tư 1975, Kim bước đi, bước lại trong phòng này và đưa đến kết luận rằng tất cả mọi đe dọa trực tiếp tới mình chắc chắn đều đến từ Bộ Quốc Phòng, nơi mà người ta đã kiểm soát toàn thể cuộc công kích chiến lược này. Trần Văn Kim cũng tự dọ hỏi với một hoặc hai người có chân trong bộ phận điều khiển Đảng trước kia từng là bạn thân với anh, để cố khám phá ra xem mình có dính líu gì đến những người khác trong loạt thanh trừng lớn lao này không, nhưng tất cả đều tỏ ra hời hợt, lạnh lùng với Kim. Họ chỉ xác định cho Kim về những điều mà anh đã biết trước mà thôi. Kim bỗng dưng là một người bỏ ngoài lề, cô đơn và không làm sao giải thích được.
Suốt ngày chỉ có ăn rồi ngủ, mãi đến sáng thứ ba 21 tháng 4 thì chuyện gì phải đến lại đến, khi Kim được mời lên Phòng Kiểm Soát của Đảng. Nơi đây người ta chuyên lo về vấn đề kỷ luật nội bộ. Một người cán bộ, mặt nhỏ, lúc Hồ Chí Minh còn sống, lúc nào y cũng tỏ ra trọng vọng Kim thật lực, nhưng lúc này y không buồn đứng lên nhìn Kim từ bên ngoài bước vào. Y cũng không buồn mời Kim ngồi nữa, y chỉ thị cho Kim bằng một giọng nói khô khan mà không cần ngẩng đầu lên:
— Các đồng chí Trung Ương Đảng Bộ đảng Lao động vĩ đại và vinh quang đã chỉ thị cho tôi trình cho đồng chí hiểu qua một vài vấn đề. Như đồng chí đã biết, Đảng ta đang trên đà tiến tới một cuộc chiến thắng lịch sử, và sẽ đưa các anh em miền Nam của chúng ta lần đầu tiên gom về một mối. Đây là một giai đoạn mà kỷ luật được đòi hỏi phải đặt lên hàng đầu đối với tất cả các đồng chí cán bộ ở mọi tầng giai cấp. Hiện có nhiều khó khăn và nguy hiểm đang cản đường chúng ta. Vấn đề làm thay đổi lối sống tư bản của nhân dân miền Nam và việc đưa họ vào khuôn khổ kỷ luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta không phải là một việc làm dễ làm. Toàn thể Đảng đồng lòng quyết định, rằng hễ bất cứ ai không hoàn toàn dốc lòng với chính nghĩa thì sẽ không thể nào dung dưỡng được ở cấp cao trong Đảng ta lúc này. Ngoài ra, mọi người cũng đều đồng ý, là bất cứ ai có ý phản bội lại các mục tiêu của chúng ta tại miền Nam với lý do liên hệ cá nhân sẽ không được tín nhiệm nữa và phải được khai trừ ra khỏi Đảng tức thì.
Trần Văn Kim chăm chú nhìn vào khuôn mặt của tên cán bộ đang cúi đầu đọc các điều mà y vừa nói trên một trang giấy đánh máy sẵn ở trước mặt với một giọng trầm trầm. Trần Vân Kim đã biết người ta cho mời anh đến đây để anh tự kết án mình, nhưng Kim không hiểu tại sao vấn đề lại xảy ra như hiện tại.
— Tôi đã dốc hết cuộc đời mình cho Đảng.
Trần Văn Kim nói với giọng đầy tức tưởi.
— Vậy tôi bị kết án về tội gì?
Gã cán bộ không đáp lời Kim, y đưa tay đẩy tờ báo cáo đánh máy trên đó có ghim kèm theo hai bức ảnh qua bên kia bàn. Trần Văn Kim đưa tay cầm lấy tờ giấy đánh máy lên. Thoạt tiên bức ảnh kèm theo bản báo cáo, chụp một khu chung cư tại Paris, ở góc đường Leopold II và đường La Fontaine không làm bận tâm gì đến Kim hết cả. Ở bức ảnh thứ hai, Kim nhận ra mình bị chụp hình từ phía đàng sau lưng khi bước vào một căn nhà và có anh mình là Trần Văn Tâm tiếp đón. Tim trong lồng ngực Kim đập mạnh liên hồi, anh cúi đầu đọc bản cáo trạng của người điệp viên mô tả anh bị theo dõi như thế nào tới khu Arrondissment 16. Kim bỏ tờ báo cáo xuống bàn nói với giọng nhỏ vừa đủ nghe.
— Đây không có nghĩa gì ngoài một cuộc gặp gỡ cá nhân mà thôi. Chúng tôi đã không đá động gì về chính trị hết cả.
Người cán bộ ngẩng đầu lên nhìn vào mặt Kim:
— Người ta đã quyết định đưa đồng chí đi trình diện Trung Tâm Thẩm vấn của Đảng ta ở Phúc Yên lúc bốn giờ chiều hôm nay để cứu xét thêm nội vụ này. Đồng chí sẽ được cấp xe đi Phúc Yên, nhưng sẽ không có tài xế, và đồng chí phải tự lái xe một mình. Đồng chí được khuyến cáo nên dùng con đường hướng Bắc. Có vậy thôi.
Trần Văn Kim về lại văn phòng của mình, anh lặng lẽ đi qua các dãy hành lang mờ mờ sáng, không khác gì một người đang cơn mộng du. Kim không biết có phải mình bị đào thải vì bằng chứng vừa rồi hay không. Cũng có thể đây chỉ là một cái cớ mà người ta dùng để che đậy mưu đồ trả thù riêng tư, để thỏa mãn sự đố kỵ về tiếng tăm mà mình đã tạo dựng được trong quá khứ. Kim từng biết bằng kinh nghiệm bản thân, là các sự đố kỵ lẫn nhau giữa các thành phần cao cấp trong đảng thường ăn sâu vào những thù nghịch riêng tư. Kim lầm bầm nguyền rủa sự ngu muội của mình đã để cho kẻ thù có đủ ưu thế hèn hạ để kết án mình.
Về tới phòng, Kim ngồi thừ trước bàn viết suốt nửa tiếng đồng hồ, anh đưa mắt nhìn vào chiếc hộp gỗ đựng hồ sơ trống trơn trên mặt bàn một lúc, rồi như lấy lại được bình tĩnh. Kim đưa mắt nhìn vội vào đồng hồ tay. Bây giờ đã gần hai giờ trưa, Kim không đắn đo gì nữa, anh kéo ngăn bàn viết, lôi ra hai tờ giấy trắng rồi cặm cụi viết thật nhanh. Sau khi viết đầy hai trang giấy với nét chữ thật nhỏ, Kim xếp bỏ vào phong bì, dán lại cẩn thận rồi dùng điện thoại gọi một người phụ tá đến gặp mình. Kim ra lệnh cho người phụ tá:
— Đồng chí hãy cầm cái thơ này đến giao cho cháu gái tôi là Trinh ở xưởng đúc đạn. Đồng chí phải đích tay đưa cho nó và không được làm hư chuyện. Nói với cháu tôi đây là việc vô cùng cấp bách.
— Thưa đồng chí Kim, vâng.
Người phụ tá đáp lời một cách hồi hộp rồi quay người bước đi, nhưng khi ra tới cửa phòng, anh ta dừng chân quay lại, đưa mắt nhìn cấp chỉ huy của mình với cặp mắt đầy nghi vấn.
— Có chuyện gì không? Thưa đồng chí. Xem chừng như đồng chí không được khỏe?
Trần Văn Kim đưa mắt nhìn người phụ tá với nỗi lòng đầy thất vọng.
— Đồng chí hãy đi cho nhanh lên, và khi trao thơ cho cháu tôi xong rồi thì đồng chí đừng trở về đây nữa. Hãy đi đến một nơi nào đó mà người ta không tìm ra được đồng chí.
Gương mặt người phụ tá bỗng trở nên nhợt nhạt.
— Tại sao vậy, thưa đồng chí Kim? Tại sao vậy?
— Bởi vì tôi được lệnh phải đi Phúc Yên để cho người ta thẩm vấn. Bây giờ đồng chí hãy nhanh, lên kẻo trễ mất.
Nửa tiếng đồng hồ sau, Trần Văn Kim rời khỏi văn phòng của mình bước xuống khu công xa đặt bên sau Bộ Chỉ Huy và bước lên ngồi sau tay lái một chiếc Moskwa do Nga Xô chế tạo và đã được một người thợ máy chuyên nghiệp chăm sóc, đem để sẵn trước xưởng từ lúc nào. Trần Văn Kim cẩn thận cho xe chạy qua thành phố, qua cầu sông Hồng, thẳng đường đi Phúc Yên, cách Hà Nội khoảng bốn mươi cây số về hướng Tây Bắc, bên triền thung lũng sông Hồng. Khi xe đi ngang hồ Hoàn Kiếm, Trần Văn Kim chợt thoáng nghĩ không biết rồi đây mình có dịp nào để nhìn lại ngôi chùa sóng đôi bên chòm đảo nhỏ ngoài kia nữa không.
Kịp ngay lúc này Kim lại chợt thấy trên kiếng chiếu hậu, bóng dáng một chiếc Moskwa khác đang theo sau, trên xe còn có ba nhân viên an ninh mặc thường phục theo dõi mình một cách công khai. Dọc theo hai bên đường, gió thổi lồng lộng. Kim cho xe từ từ leo dốc lên cao, trèo lên triền thung lũng. Chiếc xe chở nhân viên an ninh vẫn theo sau với một khoảng cách vừa đủ không cần phải giấu giếm. Hai bàn tay trên tay lái của Kim run lên. Kim chăm chú theo dõi chiếc xe đàng sau mình qua kiếng chiếu hậu, anh không biết hiện chiếc xe của mình, dầu thủy động lực của thắng đang bị chảy hết ra ngoài vì đã được bàn tay khéo léo của người thợ sửa xe đục thủng thật tinh vi và hiện tại hệ thống thắng của chiếc xe không còn cơ hành đúng nữa.
Đường lên dốc để qua khỏi con đèo đầu tiên bên ngoài thành phố quá dài, nên Kim đã không bận tâm đến việc cho chiếc xe của mình chạy chậm lại và cho đến khi chiếc xe trèo lên đến đỉnh đèo và bắt dầu đổ dốc, Kim vẫn để chiếc xe đổ dốc với một vận tốc khá mau. Đến lúc xe phải băng mình vào một khúc quanh thật gắt, Kim mới đưa chân đạp nhẹ lên bàn đạp thắng để kềm lại tốc độ chiếc xe đang trên đà chạy nhanh, hầu đem thăng bằng cho chiếc Moskwa để rẽ vào khúc quanh trước mặt. Trần Văn Kim chợt kinh hoàng khám phá ra bàn đạp thắng không còn một chút lực nào nữa cả, bàn đạp thắng rơi thẳng xuống sàn xe và nằm yên đó bất động. Chiếc xe vẫn ào ào trườn tới với tốc độ thật nhanh, băng thẳng ra lớp hàng rào dọc bên đường, rõ ràng người ta mới cho dở bỏ đi lớp hàng rào này mới cách đây không lâu. Ngay trước khi chiếc Moskwa lao đầu ra khỏi lề đường, Trần Văn Kim vụt nhớ lại những lời nói cuối cùng của cha mình từng nói với anh vào một đêm cách đây lâu lắm rồi tại Sài Gòn, khi anh giận dữ ném tờ giấy bạc mười đồng nhàu nát vào mặt cha mình.
“Kim à, cuối cùng, nếu như chủ nghĩa Bôn Sơ Vích có thành công được, thì con sẽ đem đến sự hủy diệt cho xứ sở của con, cho gia đình con, và cho chính ngay bản thân của con nữa.”
Chiếc xe lao vút ra khỏi mặt đường, rơi vào khoảng trống không và xoáy tròn như một con vụ trước khi rơi thẳng xuống ghềnh đá và phát nổ đồng thời tiếp tục rơi sâu xuống bên dưới, làm văng tung tóe các mảnh vụn của chiếc xe.
Lửa bắt đầu phựt cháy lan tràn trước khi chiếc Moskwa rơi đùng xuống mặt nước của dòng sông bên dưới. Nước sông Hồng lặng lẽ nuốt gọn chiếc xe tan nát và dập tắt ngọn lửa hung tàn.
Ba ngày sau, tại căn nhà vùng South Downs, Joseph thức giấc vào lúc ba giờ sáng, sau cơn thiếp vì không ngủ được, để trả lời điện thoại. Khi đặt ống nghe vào tai mình, Joseph nhận ra giọng nói đầy nôn nóng của Naomi bên kia đầu dây, nhưng anh không hiểu vợ mình muốn nói gì vì đường dây điện thoại bị giao thoa quá nhiều.
— Anh ơi! Đã có một cuộc thanh trừng… tại Trung Ương Cục Đảng Lao Động…
Naomi nói thật chậm từng chữ một vì đường dây quá xấu.
— Một nhà báo Pháp tại Hà Nội đã nhận được tin này từ một nguồn tin khá bất thường.
Joseph dụi mắt, ngồi thẳng lại trên giường, anh thét lớn vào ống điện thoại.
— Tin quan trọng lắm đó, nhưng tại sao lại đánh thức anh vào giờ này để nói chuyện đó?
— Joseph, anh hãy nghe em đây. Quan trọng lắm. Chính Trần Văn Kim bị thanh trừng. Có lẽ y đã chết rồi. Một người phóng viên Pháp tại Hà Nội cho biết là anh ta nhận được tin này từ một cô gái người Việt Nam. Cô gái đó đã bấn loạn đến văn phòng của anh ta để trao tận tay tin tức này, đồng thời nhờ anh ta tìm cách liên lạc với anh đó. Nó nói nó tên là Trinh. Trinh cho biết là nó sẽ vào Sài Gòn trong vòng ba ngày tới đây và còn cho biết là nó đang cần anh giúp đỡ.
Joseph ngồi thẳng lên, trong khi tiếng nói của Naomi như xoáy vào đầu óc của mình.
— Trinh? Em nói tên của nó là Trinh phải không? Con của Tuyết phải không?
— Vâng!
Naomi hét to:
— Có lẽ vậy. Bây giờ anh muốn em làm gì? Em sẽ làm tất cả những gì anh muốn.
Bàn tay của Joseph nắm chặt lấy ống điện thoại.
— Em đừng làm gì hết, không phải làm gì hết.
Naomi hỏi vội, giọng đầy bối rối:
— Tại sao không? Tại sao không làm gì hết?
Joseph nói lớn:
— Bởi vì anh sẽ qua Sài Gòn ngay.
Joseph nói xong đặt mạnh ống điện thoại xuống, thay vội vã áo quần rồi chạy nhanh vào phòng làm việc, nơi anh để giấy thông hành. Joseph không kịp lấy áo quần, cũng không kịp tắt đèn trong nhà, chạy vội ra nhà xe.
Mười phút sau khi điện đàm với Naomi, Joseph cho xe chạy thật nhanh trên con đường vùng quê Sussex về Luân Đôn để đáp chuyến bay sớm nhứt đi Viễn Đông.
Bốn tiếng đồng hồ sau đó, Joseph đã có mặt trên phi cơ rời phi trường Hearthrow khi bình minh ở đây bắt đầu ló dạng, Joseph lại đặt chân vào một cuộc hành trình đến thành phố Sài Gòn, một thành phố chỉ còn có vỏn vẹn có năm ngày nữa để sống mà thôi.