← Quay lại trang sách

TÁM

Bây giờ là xế chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau khi Joseph nói chuyện với Trần Văn Tâm, Joseph lúc này đang quỳ bên cạnh chiếc ghế đẩu màu trắng trong phòng giam, nhìn lên khuôn mặt của người tù nhân ốm yếu. Làn da trên khuôn mặt cũng như khắp thân thể của Đào Văn Lạt đường như bị teo lại trước không khí quá lạnh lẽo của căn phòng mà Lạt phải chịu đựng quá lâu. Làn da đã lún xuống, ôm chặt lấy xương, nên trông vẻ mặt của Lạt không khác gì một chiếc đầu lâu. Mái tóc trên đầu Lạt trắng toát như màu trắng của toàn thể căn phòng này. Đôi mắt không còn tự nhiên, to hơn bình thường, nhưng vẫn còn sáng hoắc, lún sâu vào bên trong. Đào Văn Lạt vẫn ngồi chồm người về phía trước, hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy thân mình như lần Joseph đốn đây hồi năm 1968. Lạt vẫn mặc trên người bộ quần áo cũ kỹ, toàn thân chỉ còn chút đa thịt để đủ sống mà thôi.

Cũng như lần trước, Đào Văn Lạt ngồi trên ghế, đưa mắt nhìn vào khoảng trống không trên vách tường không động đậy, cũng không màng đến các diễn biến xảy ra chung quanh đây, rõ ràng Đào Văn Lạt quyết thi gan cùng sự đày ải này.

Joseph cất tiếng lặp lại lời nói của mình một lần nữa với Lạt:

— Anh Lạt, anh hãy nghe tôi nói. Cuộc chiến tranh này sắp sửa chấm dứt rồi. Tất cả các máy nghe lén chung quanh đây đã được tắt hết rồi, anh và tất cả các tù nhân chính trị sẽ được Tổng Thống Dương Văn Minh thả ra hết vào chiếu hôm nay. Lực lượng của anh chắc chắn sẽ toàn thắng trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ tới đây. Họ đã tới vòng đai Sài Gòn, nhưng anh phải giúp đỡ tôi trước khi họ tới đây…

Joseph ngồi phệch xuống đất, nhìn vào khuôn mặt chắt chiu của Đào Văn Lạt, nhưng người đối diện vẫn như không tỏ vẻ gì cho thấy y có nghe lời anh vừa nói, Lạt vẫn chăm chú nhìn về phía trước không chớp mắt. Joseph chợt nghe lo lắng khi nghĩ đến việc người ngồi bên cạnh mình bấy giờ không còn được bình thường nữa.

— Cháu của anh là Trần Văn Kim đã chết rồi.

Joseph chồm tới trước, cố gắng lay chuyển tình trạng của người ngồi trên ghế.

— Trần Văn Kim đã bị Trung Ương Đảng Bộ khai trừ không thương tiếc và bị chết vì tai nạn xe cách đây một tuần lễ, cho nên tôi phải nhờ anh giúp đỡ.

Joseph lôi trong túi áo ra tấm hình của Tuyết chụp hồi nàng còn trẻ, đưa ra trước mặt Đào Văn Lạt một lần nữa.

— Tôi đã yêu em gái của Kim, cháu gái của anh là Lan, hồi những năm 1930. Chúng tôi đã cũng có một đứa con gái. Nó là Tuyết, sau này lớn lên nó là Tuyết Lương, phục vụ dưới quyền của anh tại vừng đồng bằng Cửu Long. Có lẽ anh đã không biết là nó có liên hệ máu mủ với anh, nhưng anh hãy coi đây, nó đứng chụp chung với tôi bên ngoài cửa trường học của nó tại Sài Gòn.

Joseph đưa sát tấm hình gần mặt Lạt chờ đợi. Ngay lúc mới đến đây, Joseph đã đưa cho Đào Văn Lạt coi các tấm hình của anh chụp chung với Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, và nhắc lại lần gặp gỡ của anh với Lạt vào năm 1925 tại Huế, Joseph cũng nhắc lại lúc Lạt chống bè, đưa mình về hang Pắc Bó khi chiếc Warhawk của anh bị bắn rơi, nhưng Lạt vẫn không có phản ứng nào để cho thấy anh nhận biết lời nói của Joseph đã kể ra. Joseph tiếp tục nói thật chậm như người lớn nói chuyện với một đứa trẻ.

— Tuyết Lương bị chết trong một cuộc dội bom của Hoa Kỳ hồi lễ giáng sinh 1972. Tuyết còn một đứa con gái, hiện còn sống và anh là ông cậu cố của nó. Sau khi mẹ nó chết thì Kim lo cho nó, nhưng bây giờ Kim đã chết. Nó không còn ai quen thuộc ở ngoài Bắc hết cả. Nó kêu gọi tôi giúp đỡ nó. Nó muốn rời khỏi Việt Nam với tôi, nhưng tôi không tìm được nó ở đâu bây giờ. Kim đã dàn xếp để nó xâm nhập vô Sài Gòn với tư cách một cán bộ của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời, nhưng tôi cần biết tên của người Chỉ Huy Trưởng của Chính Phủ Lâm Thời để nhờ ông ta tìm nó, vậy anh có thể giúp tôi không?

Joseph nhìn gương mặt Đào Văn Lạt tìm tòi, sau khi nói hết chuyện của mình, nhưng người đàn ông trên ghế vẫn ngồi yên bất động, cứ như trong phòng này hiện chỉ có một mình ông ta mà thôi. Joseph đứng lên, bật một tiếng kêu đầy thất vọng, anh nhìn vào đồng hồ tay thấy đã hơn sáu giờ chiều.

Joseph đã quên hẳn là căn phòng này được thiết lập bằng tường có lót vật liệu chống tiếng động, nên lúc này Joseph cố lắng tiếng nghe ngóng các động cơ của những chiếc trực thăng từ Đệ Thất Hạm Đội đang chuẩn bị cho cuộc di tản đã bắt đầu vào giữa trưa hôm nay. Ngay trên đường từ khách sạn vội vã đến đây, Joseph đã thấy nhiều chiếc trực thăng Sea Stallion, Chinook và các chiếc Jelly Giant bay sát trên nóc nhà, chở hàng ngàn người Hoa Kỳ còn kẹt lại Sài Gòn. Hai địa điểm bốc người được thiết lập tại một sân quần vợt ở Tân Sơn Nhất và một nơi khác tại sân cỏ bên ngoài khuôn viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, và các chiếc trực thăng này đã hoạt động liên tục bay tới, bay lui từ hai địa điểm này ra bốn mươi chiếc hạm đang đậu ngoài khơi biển Nam Hải. Ngoài ra còn có nhiều chiếc trực thăng nhỏ, sơn màu trắng của cơ quan tình báo CIA, mang nhãn hiệu Air America, cũng bay lượn theo các phi cơ lớn để bốc một số người từ các nóc nhà rải rác trong thành phố. Đây là những người Việt Nam hoặc Hoa Kỳ sợ sẽ bị thiệt mạng hoặc sẽ bị bắt cầm tù nếu như họ bị lọt vào tay Cộng Sản vì họ có liên hệ mật thiết với Hoa Kỳ. Lúc bấy giờ thì tình hình đã cho thấy rõ ràng là một số người Việt Nam sẽ bị bỏ rơi và sự hỗn loạn đã bắt đầu xảy ra khắp thành phố. Nhớ tới tình cảnh này, Joseph bực dọc bước tới, bước lui trong phòng giam mà không biết phải làm gì.

Buổi chiều hôm trước, khi Tướng Minh tuyên thệ nhậm chức xong độ vài phút thì người ta thấy tình hình chính trị tại đây rõ ràng đang mang một sắc thái nhượng bộ cho Cộng Sản. Trước khi tất cả những khuôn mặt chính trị rời khỏi Dinh Độc Lập thì một số phi cơ của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa bị Cộng Sản tịch thu do phi công Bắc Việt điều khiển, bay đến bắn phá phi trường Tân Sơn Nhất, và chỉ trong vòng vài phút, họ đã phá tan hết lực lượng Không Quân đầy uy tín của Việt Nam Cộng Hòa. Cũng chính các phi cơ này sau đó bay ra dội bom xuống Trung Tâm Sài Gòn bằng cách cho phi cơ bay thật thấp bắn những tràng đại bác hạng nhẹ xuống bên dưới dể biến thành phố này đi vào hỗn loạn. Dưới đất, súng phòng không trong Dinh Độc Lập bắt đầu khai hỏa, sau đó thì bất cứ ai có vũ khí trong tay cũng bắt đầu nhả đạn loạn dã, tương chừng như Việt Cộng đang âm thầm mở các cuộc tấn công cuối cùng của họ vào thành phố này.

Đứng trước cảnh ồn ào của chiến tranh đang lan tràn khắp nơi, Naomi cùng Joseph và hàng trăm người khác phải tìm nơi ẩn núp bên dưới các bệ tượng đá của Vương Cung Thánh Đương. Lệnh giới nghiêm 24 trên 24 được ban bố và vợ chồng Joseph bị kẹt lại tại chỗ cho tới chiều tối. Khi rời được khỏi nơi này, họ khám phá ra là đại diện Cọng Sản tại căn cứ Davis ở Tân Sơn Nhất mới đưa ra các đòi hỏi mới mà những đòi hỏi này rõ ràng là hồi chuông báo tử cho Sài Gòn. Cộng Sản đòi Tân Chính Phủ của Dương Văn Minh phải tuyên bố ủng hộ Cách Mạng, họ đòi hỏi tất cả người Hoa Kỳ phải rút khỏi Việt Nam ngay lạp tức. Họ cũng cho biết tham vọng của họ, là Cọng sản sẽ mở cuộc tấn công cuối cùng của họ vào Sài Gòn vào giữa đêm thứ ba 29 tháng 4, và bất cứ người Hoa Kỳ nào chưa rời khỏi nơi đây sẽ phải tự gánh chịu hậu quả.

Một vài giờ sau đó, lực lượng Cộng Sản cho pháo kích dữ dội nhất trong suốt cuộc chiến tranh này vào phi trường Tân Sơn Nhất. Một trong số các phi cơ C130 của Hoa Kỳ chở người tị nạn đi Guam bị trúng đạn và bốc cháy ngay tại phi đạo. Có nhiều thương vong trong số người chờ phi cơ tại trung tâm lo việc di tản, hai binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ lo việc đưa người bị thiệt mạng vì đạn pháo kích của Cộng Sản. Chính vì việc hai binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến bị chết sau hai năm khi lực lượng Hoa Kỳ đã rút khỏi Việt Nam đã làm cho Tổng Thống Ford tại Hoa Thịnh Đốn bối rối, ông vội ra lệnh hủy bỏ cuộc không vận tại Tân Sơn Nhất và ra lệnh tiến hành cuộc di tản bằng trực thăng theo kế hoạch hành quân di tản mang danh hiệu Frequent Wind.

Một hiện tượng khác xảy ra bên trong khuôn viên Tòa Đại Sứ cũng được coi là khác lạ khi tiếng máy cưa cùng tiếng búa, rìu bắt đầu vang lên khi người ta cho đốn ngã những cây me có từ lâu đời vào giữa sáng ngày hôm đó. Sự kiện này cho thấy nỗ lực cuối cùng của Hoa Kỳ nhằm cứu vớt miền Nam Việt Nam khỏi rơi vào tay Cộng Sản đã bị thất bại. Lúc này chỉ còn có bên trong khuôn viên Tòa Đại Sứ, ở mặt tiền là nơi mà các chiếc trực thăng khổng lồ có thể đáp xuống an toàn, và người ta phải cho đốn những gốc cây gần đó để đủ bảo đảm mục quang cho bãi đáp. Joseph nhìn các gốc me ngã xuống, lòng buồn rười rượi. Anh rời khỏi nơi này lúc mười giờ sáng. Trước đó, Joseph đã đến đây để gặp một người quen đang giữ chức vụ điều hành trụ sở CIA trên tầng lầu chót của cao ốc này để xin giữ chỗ cho mình và Trinh trong chuyến trực thăng cuối cùng. Lúc bấy giờ, sau khi nhận được lệnh từ Hoa Thịnh Đốn, cuộc di tản tại đây bắt đầu thi hành.

Tín hiệu bí mật được hoạch định từ trước bắt đầu loan báo trên đài phát thanh của Quân Lực Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Cứ mười lăm phút thì người xướng ngôn viên đài AFVN, đặt tại cuối đường Hồng Thập Tự cất tiếng:

— Thời tiết Sài Gòn bây giờ là 105 độ và sẽ tiếp tục tăng cao thêm lên.

Ngay tiếp sau đó thì người ta cho phát thanh giọng ca của Bing Crosby với bài “White Christmas”. Ngay khi tín hiệu đặc biệt này được loan trên đài phát thanh thì tiếp sau đó những người ngoại quốc đã được thông báo từ trước gồm các ký giả, các nhà doanh thương, các kỹ sư dân sự, các nhà thầu khoán vội vàng đến điểm hẹn, ấn định trước tại khắp nơi trong thành phố. Một số người ngồi xe buýt ra phi trường, một số leo lên các nóc cao ốc, nơi mà các chuyến bay của hãng Air America có thể đáp xuống được để bốc người. Trước mười giờ một chút thì đám ký giả và phóng viên báo chí ra đi. Các cửa phòng tại các khách sạn như Continental Palace, Caravelle, Majestic cũng như tại các khách sạn khác vang lên ồn ào như có đánh nhau khi đám người này chuẩn bị các máy đánh chữ, các máy quay phim cùng đồ đạc cho nghề nghiệp của họ. Đây là những người làm việc cho New York Times, Washington Post, Time, Newsweek, các hệ thống truyền thanh, truyền hình. Những phóng viên, ký giả của các hãng thông tấn khác của các quốc gia Tây Phương, ngay cả các ký giả của các quốc gia đệ tam cũng lục tục ra đi. Họ đi từng đoàn qua các đường phố và các công trường trống trơn vì lệnh giới nghiêm hai mươi bốn trên hai mươi bốn.

Hầu hết các ký giả Hoa Kỳ trước khi ra đi đều có ghé phòng của Joseph để bắt tay từ giã anh. Họ lắc đầu chia sẻ nỗi niềm với anh. Chẳng là ngay khi tới Sài Gòn, Joseph đã liên lạc với tất cả mọi người làm việc trong ngành truyền thông này và xin họ hãy báo ngay cho anh biết nếu như họ có bất cứ một đứa bé gái người Việt nào muốn tìm anh qua sự giúp đỡ của họ. Mọi người đều bắt tay từ giã Joseph và chúc anh được nhiều may mắn. Về phần Joseph, sau khi cãi vã kịch liệt với vợ, anh đã bắt Naomi phải ra đi với đoàn quay phim của nàng và từ bên trong khách sạn Continental, Joseph buồn bã nhìn theo đoàn người đi ngang qua công trường Lam Sơn nắng cháy. Naomi quay đầu lên cửa sổ phòng tìm kiếm, nhưng Joseph đã không chịu nổi cảnh tình trước mặt, dù muốn đưa tay lên vẫy chào với vợ, nhưng anh ta cũng đã phải đứng thụt lùi vào bên trong lẩn tránh. Cơn mệt mỏi lẫn tuyệt vọng chợt ào đến, khiến Joseph phải nằm vật lên giường và thiếp đi giữa cơn mệt mỏi và thống khổ triền miên của mình.

Khi đám ký giả, phóng viên lục tục giữa đường phố vắng vẻ thì họ bắt gặp một số cảnh sát viên với súng lục kè kè bên hông, đang đứng gác tại nơi này. Người ta cho kéo nhiều cuộn kẽm gai chặn ngang đường. Đoàn người lặng lẽ bước đi với đồ đoàn trên tay, cho thấy họ đang rời khỏi quốc gia này, những người cảnh sát có mặt đều hiểu rằng Hoa Kỳ đang trên đường rút khỏi Việt Nam. Bất cứ người Tây Phương nào cũng đều biết Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, cựu Chỉ huy trưởng Lực lượng Cảnh Sát, người đã bắn vào đầu một người bị tình nghi là Việt Cộng trước ống kính truyền hình ngoại quốc vào năm 1968, mới đây đã cảnh cáo rằng nếu như người Mỹ dự định ra đi một mình thì sẽ không có ai lên tới phi trường mà còn sống sót được đâu.

Không một ai trong đám ký giả hiện thời biết rằng ngay lúc này Tướng Nguyễn Ngọc Loan cũng đang bận rộn để lo tìm đường ra đi và ông không còn thì giờ đâu để thực hiện lời hăm dọa của mình, nhưng thái độ đầy uẩn ức trên mỗi khuôn mặt của các cảnh sát viên đang nhìn chăm chăm vào đám ký giả hãng qua đường đủ làm cho mọi người nghe xấu hổ và bất ổn: Tại một điểm bốc của trực thăng, đám ký giả này khám phá ra các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đang cho thiết trí các ổ súng tại các cao ốc gần đó, nên đoàn người phải lục tục kéo đi tìm một điểm hẹn khác an toàn hơn.

Tình hình Sài Gòn lúc bấy giờ thật vô cùng hỗn loạn, nhất là trong hàng ngũ Quân Đội và Cảnh Sát, cho nên lệnh giới nghiêm 24 trên 24 chỉ được chấp hành một cách vá víu mà thôi. Trong khi đó, chung quanh vách tường hàng rào Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, một đám đông khoảng hai ngàn người Việt vây quanh đây từ xế trưa. Họ kêu gào điên loạn, một số người trèo lên bên trên cổng vào cố giải thích cho các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ biết là họ sẽ bị thảm sát dưới tay của Cộng Sản nếu như họ không đi được ra khỏi nơi này, nhưng không một ai được phép vào bên trong nếu như không có lệnh từ giới chức có thẩm quyền.

Tại cổng trước, các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phải cực nhọc giữ đám đông tại chỗ, thì ở cổng sau, một số các Chính Trị Gia, Bộ Trưởng, Sĩ Quan cao cấp hối hả đưa các giấy tờ đặc biệt qua cổng giữa hiện đang có một số đông người ở bên trong. Từ nơi này người ta thấy nhiều cột khói đen bốc lên cao từ hướng Tân Sơn Nhất do đạn pháo kích của Cộng Sản, rồi tiếng súng nhỏ cũng rầm rộ vang lên. Sài Gòn lại rơi vào hỗn loạn.

Các chiếc trực thăng khổng lồ Sikorsky Sea Stallion và các chiếc Chinook bắt đầu đáp xuống bên trong sân Tòa Đại Sứ từ giữa trưa. Chỉ từ sáu mươi đến bảy mươi người được chất lên mỗi chiếc trực thăng loại này. Trong lúc các chiếc trực thăng bận rộn chở người thì từ bên ngoài vòng rào có một vài phát súng tay từ dưới đất bắn lên, lập tức trực thăng Cobra với đầy đủ vũ khí, đạn dược được gọi đến để bảo vệ bãi đáp. Từ trên lầu khách sạn Continental, Joseph nhìn rõ các chiếc trực thăng võ trang này quần thảo trên nóc Tòa Đại Sứ khi buổi chiều càng lúc càng tan dần.

Cuối cùng thì Trần Văn Tâm cũng gọi Joseph vào khoảng năm giờ rưỡi chiều ngày hôm đó. Joseph tức tốc chạy thẳng đến trụ sở an ninh tại đầu đường Tự Do. Người Chỉ huy trưởng nơi này đã cao xa bay chạy trên đường ra Đệ Thất Hạm Đội. Trần Văn Tâm đã có cho Joseph biết là người phụ tá được lệnh sẽ thả hết ba trăm tù chính trị còn bị giam giữ tại đây vào lúc bảy giờ chiều tối nay. Tâm đã gọi điện thoại cho viên sĩ quan trực và dàn xếp để Joseph gặp người tù nhân trong phòng giam đặc biệc này một mình và Tâm cho biết anh chỉ có thể giúp được Joseph có từng đó. Tâm hẹn, có lẽ họ sẽ gặp nhau tại Hoa Kỳ. Nói tới đây Tâm lại cười khằng khặc qua ống nói rồi cho Joseph biết là sau khi nói chuyện xong, Tâm sẽ đến thẳng Tòa Đại Sứ để ra đi. Tâm chúc Joseph nhiều may mắn trong việc tìm lại Trinh.

Joseph gác vội ống nói rồi chạy ra khỏi phòng, ra tới ngoài đường, Joseph nghe rõ nhịp độ pháo kích tại Tân Sơn Nhất càng lúc càng tăng thêm lên, một vài chiếc xe jeep chở đầy binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa chạy tới chạy lui, các máy truyền tin trên xe được mở thật lớn, vang vang những lời đối thoại đầy lo âu, giận dữ, và mặc dù suốt hai tuần qua đã có nhiều biện pháp ngăn chặn người bỏ nước ra đi để đề phòng tình trạng hỗn loạn như đã xảy ra tại các tỉnh mạn Bắc, nhưng hàng đoàn người dân lao động dắt díu con cái, hớt hải xuất hiện khắp thành phố, người thì mang theo mùng mền, kẻ mang rương, cót gánh gồng nồi niêu, son chảo chạy tán loạn khắp mọi nơi, không cần biết sẽ đến nơi nào, miễn tránh khỏi được các trận bom đạn của Cộng Sản thì đó là điều mà họ mong mỏi.

Tại Bộ Chỉ Huy của Sở Mật Thám Pháp ngày xưa, Joseph được một viên Sĩ Quan An Ninh với gương mặt cú vọ, vẫn còn mang sắc phục, đưa đi qua các khu nhà giam trước khi đến mở cửa phòng giam đặc biệt cho Joseph. Joseph phải đứng chờ để biết chắc người Sĩ Quan An Ninh này không theo dõi mình và biết chắc các ống nghe và máy thu hình lén được tắt hết, rồi mới bước vào. Lúc vào đến bên trong, Joseph phải đứng thẫn thờ một lúc để đè nén cơn kinh hoàng trước vẻ tiều tụy của Đào Văn Lạt, sau đó Joseph đến quỳ bên cạnh Lạt mười lăm phút để nói cho Lạt biết chuyện của mình. Lúc đầu cựu nhân viên OSS này dùng tiếng Pháp, rồi tiếng Việt và sau cùng bằng tiếng Anh để nói với người tù nhân tại nơi này.

Joseph đã bước đi, bước lại trong phòng giam này một lúc thật lâu, cố phấn đấu với nỗi tuyệt vọng đang dâng trào trong lòng mình. Bỗng dưng Đào Văn Lạt cất tiếng nói. Anh ta vẫn ngồi yên ở vị trí cũ, không buồn ngẩng đầu lên, tiếng Lạt thật nhỏ, đến nỗi thoạt tiên Joseph không biết có phải là mình đang trong cơn mộng tưởng hay không.

— Ngay nếu như Tuyết là con của ông, thì tại sao tôi phải giúp ông?

Nhận được tiếng nói của Đào Văn Lạt, Joseph vùng chạy đến quỳ xuống bên cạnh Lạt. Anh chăm chú nhìn vào gương mặt của Lạt rồi nghẹn ngào. Joseph nắm lấy tay Lạt:

— Bảy năm trước đây, người ta đem tôi tới đây để nhận diện anh, Lạt, anh còn nhớ không? Tôi đã nhận ngay ra anh từ lúc đầu, và anh cũng nhận ra tôi, nhưng đường đời của chúng ta đã từng gặp và biết nhau từ trước và tôi thấy tôi không thể nào nói cho họ biết anh là ai được. Anh đã cứu mạng tôi khi tôi bị rớt phi cơ, các nhân viên y tế OSS của tôi đã cứu sống mạng của Hồ Chí Minh, chúng ta đã từng chung lưng chiến đấu bên nhau một thời gian và khó mà quên đi được những điều này.

Joseph siết chặt tay nắm của mình vào cánh tay xương xẩu của người tù:

— Nhưng tất cả những chuyện đó đã là quá khứ, rồi đây anh sẽ được trả Tự Do. Lý tưởng của anh đã được đăng quang. Sài Gòn sẽ thuộc về anh trong vòng vài giờ nữa, và tôi không còn cách nào để ép buộc anh phải giúp tôi, nhưng Lạt, tôi xin anh nghĩ tình đến đời sống của một đứa con gái. Trinh, con gái của con tôi. Tuyết nó cũng là máu mủ của anh.

Điều làm cho Joseph vô cùng ngạc nhiên là anh vừa thấy đôi mắt của Lạt như có ngấn lệ và lần đầu tiên Đào Văn Lạt quay người lại nhìn thẳng vào mắt Joseph. Lạt nói với một giọng ngập ngừng:

— Có phải tất cả những điều anh vừa nói là sự thật hết không? Có đúng là Lực Lượng Nhân Dân thật sự đang trên đà chiến thắng vào ngày hôm nay không?

Joseph hồi hộp gật đầu:

— Vâng, đúng vậy. Tất cả những điều mà tôi vừa nói với anh đều hoàn toàn thật hết Lạt à.

Gương mặt bị tàn phá của Đào Văn Lạt thình lình bớt căng thẳng, kịp lúc Lạt quay đầu về hướng khác, Lạt há hốc miệng để lộ hai hàm răng không còn một chiếc nào của mình. Lạt ngồi yên lặng một lúc thật lâu trước khi Joseph nhận ra khuôn mặt của Lạt như thoáng điểm một nụ cười, nhưng Lạt vẫn không nói gì thêm. Joseph vô cùng thất vọng và anh không còn chịu đựng được thêm nữa, anh đưa tay chụp lấy hai vai Đào Văn Lạt, lắc mạnh.

— Lạt, ai có thể giúp tôi tìm được cháu Trinh bây giờ? Anh phải nói cho tôi biết ngay lúc này mới kịp.

Gương mặt như muốn mỉm cười của Đào Văn Lạt vẫn không nhúc nhích:

— Đến số 15 đường Phong Phú trong Chợ Lớn. Tại đó có một người Trung Hoa tên là Wang. Anh nói cho ông ta biết là tôi ra lệnh cho y giúp anh đi tìm cháu gái của tôi là Đặng Thị Trinh.

Joseph siết chặt bàn tay trơ xương của Đào Văn Lạt rồi vội vàng đứng lên chạy ù ra khỏi phòng giam. Ngay sau khi Joseph rời khỏi nơi này một lúc lâu, Đào Văn Lạt vẫn ngồi yên trên chiếc ghế đẩu. Gương mặt trên chiếc đầu lâu vẫn giữ nguyên nét nhăn nhó chiến thắng từ nãy giờ.