← Quay lại trang sách

26. HỌA SĨ BÉ KÝ (1938) SÀI GÒN “TỐC HỌA”

Trước 1975 tại Sài Gòn có một nữ họa sĩ mồ côi và gần như tự học đã đem lại một cảm hứng thơ mộng cho khách thưởng lãm trong bối cảnh chiến tranh ác liệt. Tranh của họa sĩ này là cuộc ngẫu hợp giữa tinh thần thủy mặc Đông phương và kỹ thuật ký họa thần thái của Tây phương. Hơn 1.500 tác phẩm đã được bán trên đường phố Sài Gòn trong khoảng 15 năm kiên trì tốc họa với nhịp sống và nhịp đời ngược xuôi của các con phố. Người đó là Bé Ký ‒ tên đầy đủ Nguyễn Thị Bé, chuyên ký họa tốc hành từ nhỏ, nên có nghệ danh Bé Ký.

“Hội họa Bé Ký chỉ thuần túy nét, bà dùng mực Tàu, ở lối vẽ này cứ hoa tay lên là phải thành, phải đạt, không thể sửa. Trước khi vẽ, người họa sĩ phải xong bức họa rồi. Khi ngọn bút bắt đầu là bức tranh kết thúc. Đây là một quy luật khác thường, vì trong hội họa, trước khi vẽ, có thể họa sĩ chưa biết mình sẽ đi đâu, đường nét và màu sắc sẽ dẫn lối cho họ; cũng như trong văn, ý nọ xọ ý kia, ý trước đẻ ra ý sau. Với Bé Ký, sự thể ngược lại: Trước khi vẽ, bức tranh đã phải ‘xong’ rồi, và đặt bút là kết thúc tác phẩm. Tính chất này của hội họa còn gọi là ngẫu hứng hoặc trực giác, mà cũng là thiền: Trực giác định hình, khi người nghệ sĩ thấy được ‘ánh sáng’, ‘ngộ’ rồi thì họ hoàn thành tác phẩm. ‘Ánh sáng’ ấy là chất liệu, là nguồn cội của ký họa”, nhà phê bình Thụy Khuê nhận định.

“Hình ảnh họa sĩ Bé Ký cũng là hình ảnh cô gái quê, áo bà ba, kẹp tóc dài, mang guốc vông với giá vẽ, cây cọ, bút lông ở Catinat, Nguyễn Huệ, Lê Lợi: giang sơn của Bé Ký”, nhà văn Vương Trùng Dương.

Tất nhiên mỗi thời mỗi khác, nhưng tới cái lúc mà đường Đồng Khởi (suốt thập niên 1990 và nửa đầu thập niên 2000) bán đầy tranh, phần lớn là tranh chép, thì một họa sĩ đích thực đâu còn chỗ đứng theo nghĩa đen, dù là đứng trên vỉa hè vẽ lưu niệm. Nên có lẽ, trong suốt lịch sử con đường Đồng Khởi ngày nay ‒ mà tiền thân của nó là Hương Lộ (thời nhà Nguyễn), rồi Đường số 16 (từ năm 1861), rồi Catinat (từ 1/2/1865), rồi Tự Do (từ 1954), và Đồng Khởi (từ 1975) ‒ Bé Ký là một điểm nhấn hiếm hoi. Nó cũng như những địa điểm chứng nhân khác của đường này, đã sang trang thì chẳng thể nào trở lại được.

Tranh của Bé Ký trước 1975 là một hiện tượng, không chỉ ở khía cạnh bán chạy, mà còn ở tư duy sáng tạo. Mới nhìn thì tưởng đơn giản, có khi dễ dãi, lặp lại, nhưng tận sâu bên trong là sự nhạy bén với thời cuộc, chất chứa lòng yêu quê hương sâu nặng và một khát khao tự do mãnh liệt cho thế nhân, với lối vẽ tối giản. Chiến tranh và sự phân chia về mặt trận tư tưởng chính trị đã làm cho người Việt mệt mỏi, đớn đau, tuyệt vọng..., tranh của Bé Ký (đúng ngoài sự cứng nhắc trường phái) đã là một liều thuốc hữu hiệu để hóa giải phần nào cơn khủng hoảng đang bao trùm.

Nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật Huỳnh Hữu Ủy nhìn nhận: “Ở tranh Bé Ký, thường là một cảnh sinh hoạt tươi sáng, một nụ cười hài hòa, một cuộc sống thanh thản trong nhịp điệu bình thường: người bán hàng rong, bán trái cây, mấy cô gái cỡi xe gắn máy, một cụ già chống gậy qua đường, người phu xích lô đang gò lưng trên chiếc xe, mấy đứa trẻ chơi đá cầu, đá kiện, đánh bi, đánh đáo trên hè phố.... Giữa hàng ngàn tấm tranh của Bé Ký, chọn lựa thực kỹ, chúng ta sẽ có vài tấm thực hết sức tài tình, như Đàn nguyệt, Mẹ con, Đàn độc huyền, Đàn cò có thể xem là tuyệt kỹ. Không biết có nên tiếc là tranh của Bé Ký chỉ ngừng lại ở bản chất dân gian, chứ không đi xa hơn nữa...”. Có lẽ không, vì mọi sự thay đổi sẽ không làm cho Bé Ký nguyên vẹn là Bé Ký nữa, bởi giữa bối cảnh rực rỡ trường phái của hội họa Sài Gòn thời bấy giờ, chất dân gian đô thị của nữ họa sĩ này thành thứ hương xa lành mạnh, khó kiếm. Hơn nữa, giữa bối cảnh loạn lạc, những ký họa tốc hành (tốc họa) của Bé Ký đã trở thành giấc mộng trưa hè, vì đời sống đã quá nhiều mất mát, nhiều người muốn tìm cân bằng.

Bé Ký thoăn thoắt nắm bắt các khoảnh khắc của đời sống Sài Gòn với nỗi sợ phôi pha, sợ chiến tranh sẽ cướp đi tất cả. Tranh của Bé Ký giống như tấm gương viễn mộng, phản chiếu cảnh đẹp miền quê tứ phía, nơi mà thực tế đang dày đặc vết thương.

Bé Ký sinh ở Hải Dương, mồ côi cha mẹ từ năm lên tám, theo đoàn di cư vào Sài Gòn từ năm lên chín. Được họa sĩ Trần Đắc nhận làm con nuôi, hướng dẫn về hội họa; được các họa sĩ Trần Văn Thọ, Nhan Chí và Văn Đen chỉ dạy thêm. Thích vẽ từ năm sáu ‒ bảy tuổi, biết vẽ “nên hình” từ lúc 12 ‒ 13 tuổi, triển lãm cá nhân đầu tiên năm 1957 ở Pháp văn đồng minh hội (Alliance Française) do René de Berval bảo trợ. Tính đến năm 1971, Bé Ký đã có 16 lần triển lãm cả trong và ngoài nước, mà lần nào cũng bán được rất nhiều tác phẩm, được giới phê bình đánh giá cao.

“Đối với Bé Ký, bà phác họa những chuyển động tích tắc của sự việc rồi từ từ biến những chuyển biến đó thành hơi thở, thành động tác và thành những sản phẩm tuyệt đẹp. Những bức tranh của bà ở thời kỳ đầu không nhiều màu sắc lắm và chúng được sáng tạo nhanh chóng bằng những phác thảo dọc đường của người nữ họa sĩ thích đi đây đó. Càng về sau tranh của bà đằm thắm hơn, và cũng ngọt ngào hơn khi chúng có những sắc diện khác, sắc diện của bột màu và những tạo tác gây hiệu quả phụ bằng những cấu tạo đặc biệt cho nền tranh mà giới chuyên môn gọi là texture”, Mặc Lâm nhận định.

“Trưng bày cá nhân của tôi hăm mấy cuộc, còn triển lãm chung với chồng con thì nhiều đếm không xuể, người ta yêu mến tôi không phải vì tài năng mà vì tôi quê mùa quá...”, Bé Ký khiêm tốn về đời vẽ của mình, sau gần 50 năm cầm cọ.

“Mình giấu tờ hai chục mới tinh vào lưng quần, tiền mình bán tranh trên đường Tự Do, ai dè bà Trần Đắc thấy, bà vừa bắt trả lại, vừa đánh đòn”, Bé Ký kể với Cao Mỵ Nhân như vậy. Dù Bé Ký ít được niềm vui thời thiếu nữ, nhưng tâm hồn thì lúc nào cũng nhạy cảm, yêu đời và lạc quan. Chính vì nhạy cảm, mà “họa phẩm của Bé Ký như sự tỏ bày sự cảm thông, thương cảm cuộc sống thầm lặng, đau khổ của lớp người mang nhiều khổ cực giữa quê hương, từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà tác giả đã mang chứng tích được thoát ra trên con đường hội họa”, Vương Trùng Dương.

Năm 1964, Bé Ký lên xe bông với Hồ Thành Đức (sinh năm 1942 tại Đà Nẵng), một họa sĩ chuyên nghiệp; ông cũng mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Họ sinh bốn người con, đã thực hiện nhiều triển lãm chung tại Việt Nam và quốc tế, hiện sống tại Mỹ. “Tôi mất tình thương yêu gia đình từ thuở ấu thơ nên khi lập gia đình tôi sống trọn vẹn, trân quý với mái ấm gia đình. Là người vợ, người mẹ tôi làm trọn bổn phận của người phụ nữ Việt Nam dù sống bất cứ nơi nào, thời điểm nào, đó là niềm hạnh phúc cao đẹp nhất tôi đã dâng hiến và được nhận lãnh. Tôi rất mê hội họa và yêu quê hương. Vì vận nước, vì thời thế đã hai lần tôi giã từ nơi chốn thân yêu, lòng tôi vẫn còn nhung nhớ. Từ trước đến nay tôi vẫn vẽ tất cả hình ảnh mang bóng dáng, sinh hoạt của quê hương”.

“Bạn hữu bốn phương, nếu ai đã từng quen biết Hồ Thành Đức ‒ Bé Ký từ xưa, đều cảm nhận rõ phẩm chất chung thủy của cuộc đời không xóa được nỗi cô đơn trầm trọng trong suy tư lẫn ngoài cách sống. Tuy rất hòa đồng mà vẫn vô cùng đơn độc, vì ước mơ, hoài bão lớn quá, bày tỏ ra thì có vẻ gàn, song, sự thực là thế, cánh chim bay mỏi mệt, rã rời, giữa lúc trời sắp sập tối, xin mặt trời ở lại với đại dương, đừng khuất sau chân núi, mà cũng đừng rơi xuống nước...”, nhà văn Cao Mỵ Nhân từng viết như vậy về bạn đồng lứa của mình. Xin mượn đây làm cái kết cho một chân dung mà tôi mường tượng, bởi tôi chưa từng quen biết hay thấu hiểu.

La Hán Phòng, 17/3/2013.