← Quay lại trang sách

28. NHÀ VĂN TRÙNG DƯƠNG (1944) SÀI GÒN NGHỊCH LƯU

Nếu nói đến cách tân trong văn học nữ lưu Việt Nam thì không thể không nhắc đến bốn ‒ năm cây bút nữ ờ Sài Gòn trước 1975, mà trong đó Trùng Dương đi đầu trong việc giải phóng nữ quyền và “đặc tả” tinh thần hiện sinh trong đời sống. Gần như “bị ép” dịch tác phẩm Ngàn Cánh Hạc (ngay sau khi nó nhận giải Nobel Văn chương năm 1968), và đây cũng là tác phẩm dịch thuần văn chương đầu tiên của nữ văn sĩ này, nhưng bà đã dịch tuyệt diệu, hơn 40 năm sau vẫn còn giá trị.

Là nhà văn thành danh (ở tuổi 20) trước khi bước vào dịch văn chương (tuổi 24), với mục đích ban đầu là học thêm ngoại ngữ, nhưng Trùng Dương đã có duyên ngay tác phẩm đầu tay, khá thành công. Những tác phẩm mà chị dịch trước 1975 là Kẻ Tiên Tri của Kahlil Gibran, Ngàn Cánh Hạc của Kawabata Yasunari, Đường về Trùng Khánh của Han Suyin (dịch chung với Hồ Hải Nguyễn, Vũ Thiện), Người Đàn Bà Trong Cồn Cát của Kobo Abe...

Kể về việc dịch Ngàn Cánh Hạc, Trùng Dương cho biết: “Bản dịch Ngàn Cánh Hạc của tôi được Nhà xuất bản Trình Bầy, Sài Gòn, in năm 1969. Trong mấy cuốn sách tôi đã dịch trước 1975, Ngàn Cánh Hạc không phải là cuốn tôi ưng ý nhất. Tôi dịch cuốn này vì hồi ấy ở miền Nam có khuynh hướng giới thiệu tác phẩm của các tác giả được giải Nobel, và vì Nhà xuất bản đặt tôi dịch”.

Khác hẳn với việc dịch một kiệt tác khác của bà nhất, đó là Người Đàn Bà Trong Cồn Cát. “Tôi bắt gặp nó khi la cà trong một tiệm bán sách ngoại ngữ ở Tokyo với Bert, vào khoảng 1970. Thấy tôi cầm cuốn sách lật xem, Bert, lúc ấy là một phóng viên cho CBS, bảo đó là một tác phẩm rất nổi tiếng, đã được quay thành phim, rất được tán thưởng. Tôi bảo Bert nếu vậy tôi phải đọc. Và tôi đã đọc say sưa cuốn truyện, vào mấy ngày còn lại ở Tokyo, trên chuyến bay về Sài Gòn và trong những ngày sau đó, kể cả những lúc với Bert, làm đôi lúc anh đùa, là tiếc đã giới thiệu cuốn sách với tôi, rồi cười”.

“Dịch xong cuốn truyện này, trao cho Nhà xuất bản An Tiêm in và phát hành, tôi được nhật báo Thần Phong ‒ không nhớ do ai đề nghị ‒ mời viết cho một cái feuilleton. Hồi ấy, tuy đã có tên tuổi trong làng văn nghệ qua một số truyện ngắn đăng phần lớn trên những tạp chí văn học, như Bách Khoa, Văn, Thời Tập, rồi sau xuất bản thành sách (như tập truyện Vừa Đi Vừa Ngước Nhìn, Mưa Không Ướt Đất, Chung Cư...), nhưng tôi không viết feuilleton đăng báo hàng ngày như các bạn đồng nghiệp thuộc phái nữ, trong đó có Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhã Ca và Nguyễn Thị Hoàng. Có người, như Túy Hồng, bỏ nghề dạy học để chỉ viết feuilleton, kiếm sống khá. Phải nói là tôi không dám viết feuilleton thì đúng hơn, vì không ghép mình được vào thứ kỷ luật của việc viết truyện cho báo hàng ngày; không muốn, hay đau ốm, cũng phải viết ‒ chỉ nghĩ tới đó thôi là tôi đã muốn phát rét rồi. Vả lại, tôi đã để... bị mang tiếng một lần với chủ bút tạp chí Văn hồi ấy là Trần Phong Giao, khi bỏ dở chừng truyện dài Bầy Kên Kên mới đăng được có vài kỳ”.

Mà ngay cả với văn chương thì Trùng Dương cũng bất đắc dĩ, khi Toán và Hội họa được bà mê nhiều hơn. Bà kể: “Hồi học trung học đệ nhất cấp tôi khá giỏi Toán, một hai muốn theo đuổi ban Toán. Thành thực mà nói thì tôi thích Toán học vì Toán học chỉ một phần nào, mà còn vì cái tính cạnh tranh với con trai nữa. [...] Khi nạp đơn vào trường Gia Long sau khi đậu bằng trung học hạng bình thứ, tôi một hai đòi vô ban Toán, là môn tôi cho là chỉ có bọn con trai trì mới theo học. Tôi không muốn thua. Ban Toán đã hết chỗ, mà tôi thì không muốn học ban Vạn vật vì hồi ấy chưa biết thích khoa học. Cuối cùng chỉ còn lại ban Văn chương. Tôi đành phải chấp nhận ban Văn chương. Nhưng sự chống đối đối với môn mình buộc phải chọn đó vẫn ngấm ngầm thể hiện qua những năm trung học đệ nhị cấp, dưới hình thức này hay hình thức khác. [...] Tôi lớn lên không có người để tâm sự. Có tâm sự cũng chưa chắc đã được thông cảm. Trong nỗi hoang mang cùng tận, đặc biệt từ sau khi người tình đầu của tôi (nay đã qua đời) đi du học, tôi cầm bút viết. Một phần cũng vì viết không tốn kém gì nhiều, như vẽ, chỉ cần một xấp giấy trắng và cây bút, ngồi viết ở đâu cũng được. [...] Và tôi... lạc đường vào văn chương kể từ đấy”.

Ngoài vài tác phẩm kể trên, nhà văn “bất đắc dĩ” này còn vài tác phẩm tiêu biểu khác (đều xuất bản trước 1975), như Một Cuộc Tình, Lập Đông, Thành Trì Cuối Cùng, Những Người Ở Lại...

Có lẽ do cá tính thích ganh đua với nam giới mà chất nam tính trong văn phong Trùng Dương khá rõ nét, dứt câu dứt ý. Bà cũng là một nhà báo năng nổ, được học nghề kĩ lưỡng. Trùng Dương tên đầy đủ là Nguyễn Thị Thái, quê Sơn Tây, vào miền Nam năm 1954, từng là chủ nhiệm ‒ chủ bút nhật báo Sóng Thần (Sài Gòn, 1971‒75). Sau 1975, bà tốt nghiệp ngành Báo chí, Công quyền và Các vấn đề quốc tế tại Đại học Tiểu bang California, Sacramento. Từ 1991‒ 1993, bà làm phóng viên cho The Mountain Democrat, từ 1993, cộng tác viên với nhật báo The Record, Stockton, về hưu vào giữa năm 2006. Hiện sống tại tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ. Nhìn lại các cây bút Sài Gòn trước 1975, về sau định cư tại Mỹ, Trùng Dương là một trong số ít chịu làm mới mình và có thể hòa nhập vào cộng đồng Anh ngữ, phần lớn chỉ co cụm trong Việt ngữ.

Trong làng báo được xem là nở rộ tại Sài Gòn từ năm 1954 đến năm 1975 chỉ có khoảng năm bà chủ nhiệm báo, trong đó nổi nhất phải kể đến là Trùng Dương (Sóng Thần) và bà Bút Trà (Sài Gòn Mới). Tờ Sóng Thần nổi tiếng về chống tham nhũng và các tệ nạn của nhà cầm quyền đương thời, bênh vực những người thấp cổ bé họng. Nếu chỉ dùng một vài từ để nói về hành trình con chữ của Trùng Dương, thì đó là “nghịch lưu”. Vì muốn đi ngược lại ước muốn của một gia đình nhiều anh chị em và cha mẹ khá bảo thủ, bà đã lái chuyến xe đời mình vào một lãnh vực không yêu thích: văn chương. Vì bị “khích bác” hoặc “khích lệ” mà bà đã đọc, rồi dịch, để sau này cộng đồng độc giả có những kiệt tác dịch chưa hề lỗi thời. Vì trách nhiệm của một công dân biết cầm bút, bà đã sang Mỹ học về nghề báo từ thập niên 1960.

Mà sau này cũng thế, trong nỗi lo cơm áo gạo tiền ở xứ người, ngoài đi học, bà cũng đã lấy học bổng Fulbright Fellow (niên khóa 1990‒1991) để nghiên cứu về các vùng kinh tế đặc biệt của Trung Cộng tại Hồng Kông, trước khi nước này mở tung mọi cửa ngõ đón nhận nền kinh tế thị trường.

Trong một bài phỏng vấn gần đây, Trùng Dương thẳng thắn, điều này một lần nữa cho thấy tính cách nghịch lưu của cây bút này, dù lớn tuổi, vẫn không thay đổi. “Trở lại những tác phẩm văn chương, đọc lại những truyện cũ, tôi chỉ có một sự hài lòng rõ rệt nhất, đó là chúng đã giúp ghi lại những cảm nghĩ, nhận xét về những mảnh đời mà nếu không, mình đã không còn nhớ. Ngoài ra, chúng cũng giúp tôi đo lường được mức độ trưởng thành trong việc cầm bút của mình. Hồi xưa, trước 1975, tôi viết do ngẫu hứng nhiều, không có căn bản về viết văn hay báo, do đấy có những bài rất bột phát, hồn nhiên, thấy cũng hay hay, đọc lại chính mình cũng ngạc nhiên; ngược lại, có nhiều bài dở, vớ vẩn, chẳng ra làm sao, xem lại, thấy buồn cười”.

La Hán Phòng, 17/4/2013.