32. ĐIÊU KHẮC GIA ĐIỀM PHÙNG THỊ (1920‒2002) SÀI GÒN LƯỚT QUA
Với một người đã mất khi Google còn chưa mấy phổ biến tại Việt Nam (năm 2002), vậy mà đến nay, công cụ này vẫn hiển thị bảy‒tám triệu kết quả trong giây đầu tiên với cụm từ: Điềm Phùng Thị. Nói như vậy để thấy viết về điêu khắc gia này không dễ chút nào, bởi mọi thông tin bề nổi và góc khuất, gần như đã được đề cập. Ở đây, tôi chỉ nói về một khía cạnh rất nhỏ, mà hình như hơn nửa thế kỷ qua, chẳng mấy nơi đề cập: Điềm Phùng Thị với Sài Gòn.
Thế giới quan tâm nhiều đến Điềm Phùng Thị, chắc vì hai lý do, thứ nhất bà là điêu khắc gia tiêu biểu và nổi tiếng của thế kỷ 20 ‒ có hơn 40 tượng và tượng đài được dựng nơi công cộng ở châu Âu. Thứ hai, bà là một phụ nữ Việt Nam, mà về giới tính, điêu khắc vốn không thân thiện với phụ nữ nói chung ‒ trong khi bà tự học, ở tuổi 30, đến 46 tuổi mới có triển lãm cá nhân đầu tiên.
Tiểu sử đời bà khá rõ ràng: sinh tại Huế; 3 tuổi, mồ côi mẹ; 6 tuổi, theo cha sống khắp vùng Tây Nguyên; 15 tuổi, trở về Huế học tiểu học; 1941‒1946, học Nha khoa tại Hà Nội; 1948, bị bệnh nặng, phải sang Pháp điều trị, tiếp tục học bổ túc Nha khoa, tốt nghiệp 1950, sống luôn tại đây; 1953 kết hôn với nha sĩ Bửu Điềm, ghép tên chồng vào trước tên Phùng Thị Cúc, bút danh Điềm Phùng Thị ra đời, cùng chồng trình luận án tiến sĩ Nha khoa về Tục ăn trầu; 1959‒1961, học viên điêu khắc tự do, hành nghề nha sĩ; 1966, triển lãm cá nhân đầu tiên tại Paris, ngay sau triển lãm này, bà nổi tiếng khắp châu Âu; thập niên cuối đời, về nước nhiều lần, tổ chức triển lãm tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn; tháng 2/1994, Nhà trưng bày nghệ thuật Điềm Phùng Thị (với 175 tác phẩm) đặt tại số 1 Phan Bội Châu, Huế; 2002, khi qua đời, bà tặng toàn bộ tài sản nghệ thuật của mình (khoảng 1.000 tác phẩm) cho thành phố Huế. Như vậy, bà chỉ lướt qua Sài Gòn bằng triển lãm cuối đời, làm sao xếp bà vào người Sài Gòn cho được?
Ở đây tôi không nói về triển lãm đồ sộ sau này, mà chỉ một tác phẩm của bà tại Đệ nhất triển lãm quốc tế mỹ thuật, khai mạc ngày 26/10/1962 tại Viên Đình, công viên Tao Đàn, Sài Gòn. Triển lãm này có sự tham gia của nghệ sĩ từ hơn 20 nước, với khoảng 500 tác phẩm hội họa và điêu khắc. Tại đây, Điềm Phùng Thị thuộc nhóm Việt Nam hải ngoại, tham gia tác phẩm điêu khắc Trụ thần vật, số thứ tự 368.
Cũng xin lưu ý rằng, khi chiến tranh tại Việt Nam đang leo thang, năm 1959, trong cơn hoang mang và lo lắng tột độ về quê nhà, bà tiến sĩ nha khoa tình cờ đi ngang xưởng điêu khắc, thấy thích, rồi gần như tự học và gắn bó với nó suốt đời. Tác phẩm mà bà tham gia tại Sài Gòn là khi mới tiếp xúc điêu khắc chừng hai năm, khi chưa có tiếng tăm và cũng chưa tự tin về ngôn ngữ điêu khắc riêng, do mình vừa phát kiến.
Điềm Phùng Thị kể: “Đầu những năm 60, chiến tranh ở quê nhà diễn ra rất ác liệt. Cảnh chết chóc được truyền hình chiếu đi chiếu lại, làm cho đầu óc ai cũng căng thẳng. Để giữ thăng bằng, tôi đi học võ, học làm đồ gốm, mong thoát khỏi sự chật hẹp của cái mồm, của nghề răng! Một hôm đi ngang qua cái xưởng nặn tượng đất sét, tôi dừng lại đó rồi không đi đâu khác nữa. Hình như, có một sức hút nam châm thu hút tôi, giữ tôi lại. Tôi không xác định được tôi tìm đến điêu khắc hay điêu khắc đã chọn tôi. Sau khi rời cái xưởng ấy, tôi vào xưởng tạc tượng đá của một trường tiểu công nghệ, ở đây có những khối đá khổng lồ, các sinh viên trẻ lực lưỡng đục, đẽo, cưa, xẻ... rộn ràng. Nhìn những rẻo đá rơi xuống đất tự dưng tôi thấy thèm... Tôi âm thầm đi nhặt những rẻo đá ấy ‒ có hình dáng khác nhau. Tôi mày mò mài nhẵn, sửa sang rồi lắp ghép, chồng chất lên nhau, với sự tưởng tượng đây là một bà mẹ, một đứa trẻ, một con vật hay một cái gì na ná, chứ không giống hệt. Tôi xóa đi và sắp lại không theo hình mẫu nữa, tôi được một loạt hình trừu tượng, hài hòa và đẹp hơn. Trong đống rẻo đá đó, chỉ có bảy miếng là hay dùng nhất, tôi bỏ hết những miếng thừa và chỉ giữ lại bảy miếng này”.
.
.
Tượng Trái đất bằng nhựa tổng hợp do Điềm Phùng Thị sáng tác tại Paris năm 1964. Năm 2004, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đầu tư 35,5 triệu đồng thuê Hợp tác xã đúc Thắng Lợi ở Phường Đúc, TP. Huế, đúc tượng này bằng đồng nguyên chất nhằm tặng Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam. Ảnh: Phanxipăng
Về bảy miếng đá được mài thành bảy biểu hiệu, bảy mô-đun (module), hay bảy mẫu tự gốc, bảy sắc cầu vồng, bảy nốt nhạc..., nhìn kiểu nào cũng được cả. Bởi vì qua kết cấu và biến thiên bảy biểu hiệu này, nó có thể làm nên mọi tổng thể tác phẩm, mọi tượng đài. Đây là một đóng góp to lớn của Điềm Phùng Thị vào lịch sử điêu khắc thế giới; đưa bà vào nhóm rất ít những nhà điêu khắc ý niệm và ký hiệu của nhân loại. Bởi không những Điềm Phùng Thị đã tìm ra được các mẫu gốc (archetype) để dệt lên tác phẩm cho mình, mà bà còn tạo ra mô thức ngôn ngữ căn bản để các điêu khắc gia kế thừa, các sinh viên học tập. Nhưng ở đây tôi không nói nhiều về những điều vĩ đại này, bởi thế giới đã phân tích quá kĩ và quá nhiều lần rồi. Tôi muốn trở lại với tác phẩm Trụ thần vật, mà rất tiếc ngay cả hình chụp, cũng không còn nhìn thấy nữa.
Có thể nói đây là tác phẩm đầu tiên mà Điềm Phùng Thị gởi trưng bày trước công chúng, mà đó là một triển lãm chung tại Sài Gòn ‒ một thành phố mà bà chưa bao giờ chọn để sống. Theo một vài mô tả của báo giới thời bấy giờ, tác phẩm này lấy cảm hứng từ biểu tượng và triết lý của các dân tộc vùng Tây Nguyên, bên cạnh đó là cách chạm trổ cây nêu hình Linga và tín ngưỡng thờ vật tổ của người da đỏ.
Theo tâm lý sáng tạo thông thường, đáng lẽ thời gian này bà sẽ gởi một tác phẩm làm từ bảy biểu hiệu mà bản thân phát minh ra, vì giai đoạn đầu luôn còn rất hào hứng. Thế tại sao bà chọn gởi tác phẩm Trụ thần vật? Thật khó trả lời rốt ráo, mà bà cũng chưa nói về điều này (?).
Có lẽ, khi nghĩ về Việt Nam, bà đã nhớ lại quãng thời gian mình sống ở Tây Nguyên, được người dân nơi đây dạy tiếng dân tộc, truyền cho khát vọng sống và tinh thần tự do vui chơi, ca hát, nhảy múa... Cũng có lẽ, trong giai đoạn đầu, khi chưa tự tin với bảy biểu hiệu, hoặc vì bà vốn thích sự đa dạng, nên làm được tác phẩm nào ưng ý, thì triển lãm, chứ không gò bó mình. Suốt đời, ngoài điêu khắc, bà còn làm gốm, vẽ tranh... với sự đa dạng và thống nhất ý niệm, đó là: Con người vừa điển hình địa phương, vừa toàn cầu hóa.
Điêu khắc vốn không phù hợp với phụ nữ, trên toàn thế giới đều vậy, nên tại Việt Nam càng khan hiếm. Suốt thế kỷ 20, nếu chỉ xét về công việc sáng tạo điêu khắc đơn thuần, nghĩa là không nhằm phục vụ bất kì ý đồ chính trị nào, thì Điềm Phùng Thị là tên tuổi lớn nhất của Việt Nam, sau đó mới đến Lê Ngọc Huệ, Mai Chửng, Lê Thành Nhơn... Nhìn ở tầm mức quốc tế, với ngôn ngữ điêu khắc ý niệm và ký hiệu mà bà theo đuổi xuyên suốt, sức làm việc bền bĩ, nhiều tác phẩm thành công, thì điêu khắc nữ thế giới cũng chẳng có được mấy người.
Với tầm vóc như vậy, việc bà đi lướt qua Sài Gòn, dù chỉ một tác phẩm, thì cũng xứng đáng để thành phố này ghi nhớ. Đằng này, bà đã đi qua vài lần, để lại cho đất nước hơn ngàn tác phẩm với tầm mức quốc tế, để lại cho sinh viên mỹ thuật, giới nghiên cứu nhiều điều chiêm nghiệm, học hỏi, thì làm sao Sài Gòn lại quên?
.
Tượng đá Người đàn bà Nhật Bản của Điềm Phùng Thị tặng Khu du lịch Bình Quới 1 đã được triển lãm giữa Đường hoa Nguyễn Huệ, Sài Gòn, dịp Tết Mậu Tý 2008. Ảnh: Phanxipăng
La Hán Phòng, 16/6/2013.