← Quay lại trang sách

CHÚ CHỆC BÁN ĐẬU PHỘNG RANG

Quần chằm khiếu, áo lang thang

Trên đầu đội cái nón rách

Đi khắp ngả quanh đường tách

Làng trên xóm dưới rao vang:

Tàu phọng rang!

Thùng thiếc treo lên vai mang

Như bầu hồ lô mầu nhiệm

Chứa đầy Nhẫn nại, Cần kiệm

Bền chí, hy vọng giàu sang;

Tàu phọng rang!

Nhà đóng cửa, canh hầu tàn

Ở thôn quê, trong khoảng vắng

Xa xa còn nghe văng vẳng

Tiếng ngọng lịu ở đầu làng

Tàu phọng rang!

Côn đồ quen thói nghênh ngang,

Chửi mắng, lật thùng, đấm đá

Buồn phá chơi, cho hả dạ

Không cự lại, cũng không than:

Tàu phọng rang!

Được đồng xu không dễ dàng

Có khi bán đắt, khi ế

Nỗi lo cơm, phần chạy thuế

Xu thành bạc, bạc thành vàng

Tàu phọng rang!

Ít năm có vốn lập tiệm

Bây giờ được tự chủ đa.

Được nở mặt với người ta

Anh em rồi cũng hiếm hiệm:

Xì thẩu a!

Thong thả mới lo cưới vợ

Đầu năm mới sanh con ra

Hưởng chung sung sướng một nhà,

Được thêm tiền mà hé nợ:

Xì thẩu a!

Cái giàu lôi kéo cái sang

Đồng bào của mình kiêng nể

Xúm nhau bỏ thăm rất dễ

Từ đây tên tuổi vinh quang:

Hà ông Bang!

Danh có, lạ gì cửa quan

Mình vẫn vô ra làm việc

Trong tỉnh thường mời đãi tiệc

Cầm tay quan lớn hỏi han:

Hà ông Bang!

Đây là một bài thơ rất xưa, trích trong tập thơ Hoa trái mùa của Trần Văn Tân, Nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn xuất bản năm 1943. Một bài thơ dung dị, kể về hành trình kiếm sống gian khổ, nhẫn nại và phát triển đi lên của một người Hoa (trước đây dân gian gọi là Chệc hay Chệt) di cư đến sống và kiếm ăn trên đường phố Sài Gòn xưa, với vốn liếng ban đầu là một thùng đậu phộng rang. Dẫn theo ông Vương Hồng Sển trong bài Người Trung Hoa ở miền Nam , tập san Chọn Lọc Chủ Nhật ra ngày 2 tháng 1 năm 1966. Ông cho rằng bài thơ điệu mới này đã có người đem hát lên sân khấu cải cách tức cải lương rồi.

Ảnh: Jack Garofalo.

NHÀ HÀNG VIỆT CAO CẤP ĐẦU TIÊN

Một nhà hàng sang trọng chuyên về món ăn Việt là điều bình thường hiện nay. Ở đó, khách nước ngoài, người sành điệu có thể thưởng thức phong cách ẩm thực thuần Việt, từ thức ăn đến đồ uống, cảm nhận vẻ khác biệt, độc đáo trong cách ăn uống của một dân tộc, thấy được những dấu ấn của khí hậu, hệ thực vật, nền nông nghiệp trong bữa cơm hằng ngày của người Việt.

Nhiều quốc gia có chiến lược quảng bá nền ẩm thực độc đáo như Pháp, Ý, Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ,... Ẩm thực truyền thống chính là nét văn hóa riêng đáng tự hào, tạo sự thông cảm giữa các dân tộc và tạo sự thu hút trong công nghiệp du lịch.

Trở lại cuộc sống của Sài Gòn những năm cuối thập niên 1950. Sau khi người Pháp rút về, cuộc sống tự chủ đã xuất hiện thay cho chế độ thuộc địa. Trong ngành ẩm thực, hệ thống nhà hàng hạng sang nấu ăn theo kiểu Pháp sót lại sau 1954 vẫn chiếm lĩnh khu vực trung tâm Sài Gòn, khu Tân Định – Đa Kao. Trong Chợ Lớn, nơi buôn bán sầm uất, có các nhà hàng theo phong cách ẩm thực Tàu, nhất là Quảng Đông, Triều Châu. Nấu ăn theo kiểu Việt hầu hết là ở các quán bình dân, rất đa dạng món ăn từ cơm tám giò chả, nem chua chả rán, gà xé phay, mắm nêm, mắm Huế. Đồng bào di cư từ miền Bắc vào, người miền Trung di dân vào Nam góp thêm nhiều món ăn hấp dẫn vào thực đơn món Việt ở Sài Gòn. Tuy nhiên, có thể nói lúc đó ở thành phố này chưa có một nơi tương xứng để đón du khách với món thuần Việt, đủ tiện nghi, có phong cách phục vụ bưng dọn như các nhà hàng Âu Mỹ. Kế hoạch phát triển du lịch miền Nam lúc đó đã chuyển động, các khiếm khuyết bắt đầu lộ dần và vấn đề này đã được đặt ra.

Nha Du Lịch thuộc chánh phủ miền Nam lúc đó đã tìm cách thay đổi thực trạng. Họ lập ra một nhà hàng sang trọng có cái tên giản dị “Hàng Cơm Việt Nam”, khánh thành vào ngày 9 tháng 10 năm 1957. Người quản lý là ông Bửu Hoàng, một người thuộc hoàng tộc triều đình Huế, nơi có phong cách ẩm thực Việt đáng tự hào. Chủ trương của nhà hàng cũng giản dị như cái tên nhà hàng “giới thiệu du khách những món ăn thuần túy của Việt Nam”, đặt tại số 40 Nguyễn Huệ, quận I (phải chăng hiện nay là Nhà sách Fahasa?).

Việc trang trí nhà hàng được chú trọng để tạo đẳng cấp. Màu đỏ là tông chính xuất hiện trên các khung cửa sổ, trần nhà. Phòng lắp máy điều hòa, ghế ngồi bằng da, rải rác là các chậu hoa vạn niên thanh trang trí tạo vẻ tươi mát. Về thức ăn, ba đầu bếp tập trung chế biến các món Trung và Nam bộ trong thời gian đầu và ông Bửu Hoàng có ý định tiếp tục tìm một đầu bếp món Bắc thật giỏi để hoàn thiện thực đơn Việt của nhà hàng. Tuy chưa hoàn hảo theo ý muốn, thực đơn của nhà hàng thật phong phú với hơn năm mươi món khác nhau. Từ nem chua Huế, chả lụa, chả chiên, chả quế, bì, nem cuốn, bánh hỏi chả giò, gỏi gà, tôm sứa, chạo tôm, tôm nướng Rạch Miễu, lươn, ếch, canh chua, miến gà, vân vân.

Thực khách đến gọi món, đầu bếp làm ngay. Các món được đánh giá cao như: Gỏi gà Huế có nước dùng nấu với dứa và hoa chuối xắt nhỏ. Cao lầu gần với món vằn thắn của Tàu. Tôm nướng Rạch Miễu dùng tôm to bóc vỏ, bao một lớp lá mỡ trắng rồi mới nướng. Món canh chua nấu với cá chẽm, măng, me, cọng bạc hà được nhiều du khách ưa thích thay cho món súp. Món “giò quốc tế” là món cá nấu như kiểu thịt đông, bỏ vào máy ướp lạnh, cắt thành khúc tròn như mặt đồng hồ trên dĩa, tô điểm thêm hai lá hành thành cây kim đồng hồ...

Từ nhà hàng sang trọng mang tên “Hàng Cơm Việt Nam” này, món ăn Việt từ trong bữa ăn giađình đã biến thành các món ăn cao cấp chiêu đãi khách quốc tế gần 60 năm trước ở Sài Gòn.

Ảnh trong bài: báo SDMN loại II số 4.

Tiếp viên nhà hàng với trang phục lịch sự, thắt nơ trên cổ.

Bộ phận bếp chuẩn bị món chạo tôm cho khách.

Chuẩn bị hoa trang trí nhà hàng.

Không chỉ chú trọng đến món ăn thuần Việt, “Hàng Cơm Việt Nam” đưa vào thực đơn thức uống cũng thuần Việt nốt, đó là rượu... ba xi đế, rượu đậu nành, rượu đào, Tôn Thọ tửu sản xuất trong nước bên cạnh rượu Tây.

Bên cạnh đó, trang phục của nhân viên phục vụ được trang bị đúng đẳng cấp nhà hàng hạng sang: nhân viên tiếp khách (lúc đó gọi là chiêu đãi viên) bận đồng phục trang trọng, cổ thắt nơ. Đầu bếp có trang phục riêng, đội mũ chuyên dùng.

Thời điểm đó có một hội nghị quốc tế phát triển kinh tế và xã hội khu vực châu Á tổ chức tại Sài Gòn, và các vị khách quốc tế, đại diện hai mươi mốt quốc gia đã trở thành những khách ngoại quốc đầu tiên thưởng thức món ăn Việt trong thực đơn cao cấp này tại nhà hàng “Hàng Cơm Việt Nam”.

Tự hào và tìm cách khẳng định giá trị của ẩm thực Việt bằng cách tạo lập nhà hàng này là một cố gắng rất đáng trân trọng của những người có trách nhiệm, gần 60 năm trước ở Sài Gòn.

Bài trí trong nhà hàng không khác các nhà hàng ăn hiện nay. Góc phải là quầy tiếp tân trưng bày các loại rượu do Việt Nam sản xuất.

NHỮNG KHÁT VỌNG CỦA MỘT THỜI

Trong khoảng thời gian 20 năm trước năm 1975, thành phố Sài Gòn chỉ có một thời gian ngắn ngủi sống trong bình yên. Sau đó, là các cuộc đấu tranh của các giới chống chế độ độc tài, là đảo chánh giữa các phe phái, là bầu không khí chiến tranh sát ngay đô thị hoặc có khi là từ các trận đánh trên đường phố… Nhưng người dân Sài Gòn không nguôi khát vọng về một cuộc sống an hòa, luôn mong muốn phát triển năng lực bản thân để xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Lục lại một số tài liệu về những dự án nhỏ hay lớn cách nay gần nửa thế kỷ được gầy dựng ở thành phố này, thấy thương cho lớp cư dân Sài Gòn đi trước từng có nhiều trăn trở và khát vọng đóng góp cho sự phát triển của thành phố này. Những mơ ước lớn chưa kịp đi xa, mà hơi thở hiện đại vẫn còn vọng tới…

CHIẾC XE KỲ LẠ CỦA ÔNG TỐN

Cách nay 46 năm (1969), trên một góc đường trung tâm Sài Gòn có một chiếc xe 4 bánh bị viên cảnh sát công lộ (nay là cảnh sát giao thông) thổi một tràng còi thật dài để chận xe lại. Viên cảnh sát trố mắt nhìn chiếc xe do người đàn ông trung niên lái. Đó là một chiếc xe thật kỳ cục. Rõ ràng nó có bốn bánh nhưng không thể gọi là một chiếc xe hơi. Người lái xe bước ra, bình thản cười, xuất trình giấy chủ quyền xe, bằng lái và cả một… bằng sáng chế. Viên cảnh sát xem xong, lắc đầu cho đi vì tất cả đều hợp pháp.

Chiếc xe đó thực chất được chế biến từ hai chiếc xe gắn máy hiệu Gilera loại 50 phân khối của Ý. Xe có bốn chỗ ngồi, dài 2m, ngang 1,38m và có mui cao 1,7m, hai bên trống trải như xe quân sự. Đây là sản phẩm sinh ra từ nhà ông Nguyễn Gia Tốn, một cựu giáo viên đang làm việc tại trường Bách khoa Trung cấp ở Sài Gòn.

Chiếc Gilera di chuyển trên đường Nguyễn Huệ, trung tâm Sài Gòn.

Ông Nguyễn Gia Tốn (phải) trên chiếc xe độc đáo do ông sáng chế.

Thời điểm đó, giá xe nước ngoài nhập vào miền Nam quá cao nên ông Tốn muốn thỏa khát vọng có một chiếc xe hơi để đi lại một cách thoải mái mà không sợ mưa nắng. Nghĩ là làm, ông chọn con đường đơn giản nhất là chọn lọc những bộ phận của xe ngoại nhập từ các nhà sản xuất nước ngoài đã hoàn chỉnh mà trong nước chưa đủ trình độ sản xuất, sau đó là lắp ráp theo cách riêng của ông. Tất nhiên, muốn chọn và ráp các bộ phận cơ khí từ các chiếc xe khác nhau thì trình độ của người thực hiện là quan trọng. Ông dùng kính xe Lambro cũng của Ý để làm kính chắn phía trước, mui xe làm bằng vải bố, nệm xe bằng mousse cao su, có hai bánh sơ cua đi theo. Xe không dùng vô lăng mà dùng luôn tay lái của xe gắn máy. Thắng xe nằm dưới chân. Với khối lượng khoảng 140kg, 2 máy xe cùng họat động, ông định tốc độ có thể lên tới 80 đến 100km/h mặc dù trong thành phố không thể đi nhanh như vậy.

Chiếc xe được lấy tên Gilera theo tên loại xe máy cấu thành nó. Sau khi chạy thử trên xa lộ nhiều lần, ông Tốn cho chạy trên đường phố Sài Gòn đúng vào ngày phi hành gia Mỹ có cuộc du hành đầu tiên trên mặt trăng (21/7/1969 tức 20/7 bên Mỹ). Tính ra giá thành chiếc xe vào khoảng 130.000 đồng. Theo tài liệu cho biết một năm sau đó, 1970, xe La Dalat của hãng Citroen ra đời tại Sài Gòn có giá bán chính thức lên tới 650.000 đồng, còn giá chợ đen là 1,1 triệu đồng thời đó.

Một vài người lớn tuổi lui tới thường xuyên khu vực trung tâm thành phố còn nhớ đã bắt gặp chiếc xe của ông Tốn chạy qua lại trên đường phố Sài Gòn. Rồi sau đó không ai biết số phận của chiếc xe ra sao và ông có thực hiện thêm chiếc xe nào nữa hay không. Dù sao, đây là ký ức đẹp của một thời Sài Gòn, một thành phố luôn có những người trăn trở cải tiến để cuộc sống tiện nghi hơn, bằng kiến thức và lòng nhiệt tâm của mình.

“BÚP BÊ VĂN HÓA” CỦA BÀ TRÙNG QUANG

Đầu thập niên 1960, khách nước ngoài đến Sài Gòn được giới thiệu một loại búp bê bằng vải lụa tinh tế và mềm mại, chế tác rất đẹp, không thua loại búp bê Geisha, búp bê Hina của Nhật Bản thường bày bán ở cố đô Kyoto. Tuy không có trang phục lộng lẫy như búp bê Nhật, loại búp bê này thể hiện dáng vóc của thiếu nữ Việt Nam, mảnh dẻ và thon thả trong những tà áo dài lụa, gấm và áo tứ thân. Nét mặt của các cô búp bê khá biểu cảm, tay chân uyển chuyển và dáng đứng mềm mại. Khách quốc tế thường mua nhiều búp bê loại này mang về làm quà.

“Búp bê văn hóa”, đó là tên gọi của loại búp bê nói trên với hàm ý đây sẽ là loại búp bê dùng để giao lưu văn hóa, để người mua hiểu thêm về đời sống tinh thần của người Việt qua trang phục và dáng vóc của thiếu nữ Việt từng thời kỳ khác nhau. Tác giả của loại búp bê này là bà Trùng Quang, một phụ nữ từng nổi tiếng ở Hà Nội thập niên 1940 vì thường xuyên làm công tác xã hội và sáng lập trường nội trợ Việt Nữ tại Hà Nội với mục đích đào tạo người phụ nữ toàn diện. Trường có dạy ngoại ngữ, âm nhạc, làm bánh, nấu ăn, thêu may.

Năm 1955, bà Trùng Quang vào Sài Gòn sinh sống. Bà lại lập ra trường Nữ công Phương Chính dạy nghề và dạy chữ Việt cho phụ nữ tại Sài Gòn. Các chứng chỉ tốt nghiệp của trường Nữ công Phương Chính được nhiều quốc gia ở Âu châu như Pháp, Đức, Anh công nhận. Năm 1956, muốn học hỏi Nhật Bản là một nước châu Á đang phát triển mạnh mẽ, bà tự túc sang Nhật quan sát đời sống phụ nữ Nhật, học nghề in offsette màu và học ngoại ngữ. Bà còn học cắm hoa và nhất là học chuyên sâu nghề làm búp bê. Sau ba năm học, bà về nước và bắt đầu bắt tay vào việc sản xuất búp bê từ năm 1959. Kỹ thuật bà học từ người Nhật, vốn kỹ lưỡng và tinh tế trong sản xuất, chế tạo. Nhưng búp bê của bà là búp bê Việt Nam, với dáng hình thiếu nữ Việt mang vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng mà bà luôn tự hào. Bà muốn loại búp bê này phải thể hiện cho được vẻ đẹp đó.

Xưởng búp bê của bà Trùng Quang sản xuất có hai loại: búp bê bằng nhựa để bán với giá bình dân và loại búp bê bằng vải lụa chú trọng tính mỹ thuật, công phu và khéo léo hơn. Để sản xuất, xưởng có máy móc, các khuôn rập để làm ra khuôn mặt và hình dáng, tơ để làm tóc, lụa để làm mặt, vải lụa để may y phục, sơn để làm đế, thuốc vẽ... Là giám đốc và cũng là chuyên viên chính về kỹ thuật, bà đảm nhận vẽ khuôn mặt búp bê, các khâu khác giao các chuyên viên do bà đào tạo. Kiểu dáng búp bê xưởng Trùng Quang sản xuất đa dạng, từ loại búp bê mặc trang phục cổ với hình dạng cô gái quê bận áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, đến búp bê tiểu thư đài các mang khăn vành dây, áo thụng hài thêu. Có cả búp bê mang dáng vóc thiếu nữ hiện đại đi giày cao gót, tóc uốn quăn, áo nylon, quần sa tanh trắng, cầm ví tay. Mỗi búp bê là một tác phẩm mỹ thuật có sắc thái riêng, dáng điệu riêng nhưng đều mang vẻ đẹp kín đáo, nhu mì, thuần hậu của cô gái Việt.

Búp bê Trùng Quang khi vừa xuất xưởng đã được dư luận đánh giá rất tốt vì tính tỉ mỉ công phu trong chế tác, mẫu mã lại đẹp nên rất được ưa chuộng ở thị trường Sài Gòn và miền Nam suốt thập niên 1960. Loại sản phẩm này được trưng bày thường xuyên tại gian hàng Công nghệ Việt Nam tại đường Tự Do (nay là Đồng Khởi), tham dự triển lãm Hội hoa mùa xuân 1960 tại Phòng Thông tin Đô thành, Triển lãm văn hóa Việt Nam tại hội trường Diên Hồng. Nhiều quốc gia Âu châu ưa chuộng đã đặt hàng và chính phủ miền Nam cũng đặt mua để dự các cuộc triển lãm tại Nhật, Thái Lan, Mã Lai Á, Hoa Kỳ... Việc sản xuất dần ổn định và bà Trùng Quang mong sản xuất búp bê trở thành một kỹ nghệ lớn, giữ vai trò giới thiệu văn hóa, phát triển kinh tế của nước nhà.

“Búp bê văn hóa” của bà Trùng Quang một thời trên đất Sài Gòn nửa thế kỷ trước có thể nói là đạt đỉnh cao về mỹ thuật và kỹ thuật mà cho đến nay, loại mỹ nghệ búp bê Việt như vậy vẫn chưa có ai khôi phục lại được.

Sau này qua Mỹ sống, bà Trùng Quang dù đã lớn tuổi còn thi vào học College tại Evergreen và năm 84 tuổi thi vào Đại học Cộng đồng San Jose và luôn đạt điểm cao trong các kỳ thi. Năm 89 tuổi, lúc thi tiếng Anh, bà là nữ sinh viên lớn tuổi nhất trong lịch sử Đại học Cộng đồng San Jose và là người đạt điểm cao nhất. Hơn 90 tuổi, bà vẫn viết sách và làm thơ. Đến năm 2012, bà mất ở tuổi 101 tại Mỹ.

Bà Trùng Quang, chủ nhân sáng lập xưởng “Búp bê văn hóa”.

Búp bê hoàn thiện những khâu cuối.

Khâu lắp ráp búp bê.

Ảnh trong bài: Hữu Cơ.

Từ vóc dáng, gương mặt đến quần áo, kiểu búp bê truyền thống của bà Trùng Quang thể hiện đẹp và có hồn.

Búp bê Việt Nam rất được chú ý và thích thú trong Hội chợ thương mại quốc tế Á Châu tại Bangkok năm 1966.

MỘT ĐÔ THỊ NỬA THẾ KỶ ƯỚC MƠ

Năm 1957, tại khuôn viên ngôi nhà trước kia là nhà hàng Charner nằm trên đường Nguyễn Huệ có một cuộc triển lãm lấy tên “Kiến thiết quốc gia”, tổ chức trong suốt 6 ngày từ 22 đến 28 tháng 10. Cuộc triển lãm nhằm mục đích trưng bày những viễn cảnh dự định phát triển miền Nam của chính phủ thời đó.

Khách đến xem, qua những mô hình, các bảng thống kê chuyên môn, tranh, ảnh có thể hình dung về tương lai phát triển của đô thành Sài Gòn và bốn mươi tỉnh thành miền Trung và miền Nam trong tương lai. Đặc biệt, được chú ý là mô hình phát triển thành phố mới Thủ Thiêm bên kia sông Sài Gòn hứa hẹn sẽ thành một đô thị kiểu mẫu hiện đại.

Bản thiết kế do nhà điêu khắc Lê Ngọc Vân trình bày. Mô hình này được trình bày rất lớn, mỗi bề ngang ba mét theo tỉ lệ 1/2.000.

Qua mô hình, thành phố kiểu mẫu Thủ Thiêm phía bên kia sông Sài Gòn có hình giống móng ngựa, mặt lồi đối diện với bến Bạch Đằng và các bến sông khác. Đây là một khu vực rộng lớn có một ít ruộng, đất phần nhiều bỏ hoang dài khoảng 6km, rộng 3km. Chính phủ miền Nam khi đó muốn biến vùng đất hoang này thành một trung tâm hiện đại dành cho các đoàn ngoại giao, hội nghị quốc tế, văn hóa, chính trị, khoa học thương mại và khu dân cư.

Chương trình phát triển khu Thủ Thiêm này sau khi hoàn thành sẽ là một đặc khu nằm lọt giữa dòng sông Sài Gòn như một bán đảo, nối với đô thị hiện tại bằng ba chiếc cầu. Cầu thứ nhất bắc từ đại lộ Hàm Nghi (trong sa bàn là cầu chếch sang góc trái). Cầu thứ hai bắc từ Nhà Bè (bên phải sa bàn) và cầu thứ ba bắc từ cầu Mới phía Thị Nghè sang (phía xa). Theo mô hình, nếu đứng từ đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) nhìn sang khu Thủ Thiêm, khách bộ hành có thể thấy phía bên phải Thủ Thiêm, đối diện với thương cảng Sài Gòn có nhiều chung cư hiện đại cao năm, bảy tầng của khu thương mại. Tiếp đó, dọc bờ sông là khu biệt thự có sân cỏ rộng rãi xanh mát. Đi theo vành móng ngựa là khu trung tâm văn hóa, với các trường Đại học Văn khoa, Y khoa, Luật khoa, Viện Khảo cứu và Viện bảo tàng.

Khu trung tâm đô thị này là một hồ nước rộng giữa khu vườn cảnh, cạnh hồ là trụ sở Quốc Hội được xây dựng mang dáng dấp truyền thống dân tộc. Bên kia bờ hồ là khu vực ngoại giao đoàn các nước, được kỳ vọng các nước đặt sứ quán ở đây sẽ xây dựng cho sứ quán mình bằng kiểu thiết kế mang tính truyền thống của các nước, góp phần tạo vẻ mỹ quan cho khu Thủ Thiêm. Lan tỏa ra chung quanh là các công trình như thư viện quốc gia, hội trường lớn để tổ chức hội nghị quốc tế, khu triển lãm, khách sạn và sân vận động quốc tế, khu giải trí, chợ, đài kỷ niệm, trạm y tế và bãi đậu xe.

Để thực hiện đề án lớn này, chính phủ miền Nam lúc đó có dự định thành lập một cơ quan gọi là “Quốc gia Chỉnh trang Lãnh thổ Cục”. Nhiệm vụ của cơ quan này là thi hành các đề án đã thiết lập, đề nghị lên chánh phủ về đất đai cần trưng dụng, tổ chức san nền đất và bán các lô đất cho các cơ quan của chính phủ hay tư nhân. Tiền lời sẽ được dùng để làm đường sá, thiết kế điện nước…

Các quan chức chánh phủ thời đó dự tính dự án xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm này sẽ được khởi công vào năm 1958 và đến 1963 là hoàn thành. Số tiền một tỉ đồng sẽ dành riêng cho kế hoạch này. Tuy nhiên, dự án này đã không thành hiện thực. Chúng ta không rõ vì sao, có thể lúc đó là thời điểm có chiến tranh, chính phủ tập trung nhiều vào khu đô thị hiện hữu còn ngổn ngang, và bất ổn chính trị liên tiếp, hoặc do thiếu chi phí để cải tạo vùng đất thấp, xây dựng hạ tầng tốn kém và có nhiều rủi ro như lún, sạt lở…

Mô hình khu Thủ Thiêm trong Triển lãm tại Sài Gòn năm 1957. Triển vọng lúc đó là sẽ hoàn thành khu đô thị này trong vòng năm năm sau đó. Ảnh: Báo Gia Đình (1957).

Đến tháng 12 năm 2005, tức 48 năm sau, qua bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc, chính quyền thành phố Hồ Chí Minh đã công bố quy hoạch khu Thủ Thiêm, nay thuộc quận 2, sẽ là quận trung tâm mới của Thành phố với khu trung tâm thương mại, tài chính gồm các tòa nhà cao 10 – 40 tầng, và một số khu 32 tầng, khu dân cư cho 130 ngàn người và một triệu khách vãng lai. Hơn một nửa diện tích của khu đô thị sẽ được dành cho cây xanh và giao thông. Có lẽ lần này, mơ ước xưa có những cơ sở để thành hiện thực, một mơ ước đi qua một chặng đường quá dài từ những khao khát ban đầu của một thành phố.

Bản đồ quy hoạch Thủ Thiêm.

TIỆM MAY KIM SƠN Ở ĐƯỜNG AMIRAL DUPRÉ

Trước 1955, con đường mang tên Đông Du ngày nay có tên là đường Amiral Dupré. Đường nằm ngay trung tâm thành phố, nơi tập trung giới thượng lưu, gần nhiều cơ quan của nhà nước thuộc địa. Đây cũng là một trong những con đường xưa nhất Sài Gòn, từ năm 1871 có lúc mang tên là đường Tự Đức.

Trước khi người Pháp về nước hoàn toàn năm 1954, con đường này và vài đường lân cận là nơi tọa lạc nhiều tiệm may nổi tiếng, phục vụ cho giới sành điệu đất Sài Gòn cũ. Danh tiếng các tiệm như Ích Tân, Xuân Lâm chuyên may đồ Tây cũng nằm trên đường Amiral Dupré, rồi tiệm Tân Tân cũng may đồ Tây phía bên đường Catinat (Đồng Khởi), tiệm Phúc Lợi may đồ đầm ở Pasteur, tiệm Xuân Sơn và tiệm Bình bên Nguyễn Thiệp... lan xa xuống miệt lục tỉnh, miền Trung. Đa số các tiệm may lớn này là của người gốc miền Bắc vào Sài Gòn từ trước Thế chiến thứ Hai, chiếm lĩnh lãnh vực may mặc, giống như những người đồng hương của họ làm trùm về nghề đóng giày ở đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn).

Ở số 68 đường Amiral Dupré, có một tiệm may mở trước Thế chiến thứ Hai, tồn tại ở Sài Gòn trong suốt sáu mươi năm cho đến khi đóng cửa năm 1991. Tiệm mang tên Kim Sơn. Đến nay, con cháu của những người chủ tiệm vẫn giữ niềm tự hào về nghề nghiệp mà cha mẹ mình theo đuổi lâu đời, tạo được tiếng tăm trong giới may mặc Sài Gòn xưa.

Năm 1928, chàng thanh niên mới lớn mười lăm tuổi Lương Văn Thí nhận ra rằng công việc đồng áng bán lưng cho trời bán mặt cho đất khó có tương lai. Rời quê hương Phủ Lý thuộc tỉnh Hà Nam, anh Thí về Hà Nội cố gắng tìm học một nghề. Ban đầu, anh học đóng giày, học may Âu phục rồi học làm nón. Đeo đuổi một thời gian, anh thanh niên đầy ý chí này thấy rằng làm nghề gì cũng không bằng chuyên may trang phục đầm cho phụ nữ lúc đó. Phụ nữ khi có điều kiện, nhất là phụ nữ Pháp ở Hà Nội thường thích may sắm cho mình nhiều loại trang phục. Người thầy dạy nghề ban đầu của anh có quen một người chuyên may đồ đầm đã giới thiệu cậu học trò sang đó học nghề. Anh sang đó “học thí công”, không kể giờ giấc, chuyên tâm học nghề may và tận tụy làm nhiều việc khác ở nhà thầy, được thầy rất quý mến và truyền hết sở trường.

Sau ba năm chuyên chú, anh Thí tìm vào Sài Gòn, đất thuộc địa phồn hoa đô hội với nhiều hy vọng. Tàu cập bến Nhà Rồng, anh lên bờ, đến đường Amiral Dupré chỉ cách đó vài trăm mét, ngay góc đường Catinat. Ở đó có một căn phố dài hai mươi mét, ngang bốn mét trên miếng đất của ngôi đền Hồi giáo gần đó đang muốn sang nhượng. Không bỏ lỡ cơ hội, anh bỏ tiền ra mua ngay, mở tiệm chuyên may đồ đầm, bắt đầu làm nên hành trình dài của cuộc sống xa quê hương đến cuối đời bằng nghề may mặc cao cấp.

Ở vùng quê Hà Nam, thấy anh làm ăn ở Sài Gòn thuận lợi lại thường gửi tiền về quê, mấy ông anh của anh lần lượt kéo vào kiếm sống. Bảy tám năm sau, làm ăn thành công, anh trở ra Hà Nội, đến thăm người dạy nghề may thuở ban đầu đã giúp anh tìm thầy mà làm nên. Ở đó, anh xin cưới cô con gái của ông, một phụ nữ Tây học, cô Cao Thị Liên, người sau này đã giúp anh phát triển sự nghiệp. Đôi vợ chồng son cùng đi vào Sài Gòn.

Với lợi thế là đặt tiệm ngay trung tâm thành phố, gần khu vực cảng, gần chợ Bến Thành, tiệm may Kim Sơn của ông bà Thí – Liên thực sự có thuận lợi. Tuy vậy, bí quyết làm ăn là có tay nghề may cao, tổ chức nhân công giỏi và biết cách giao tiếp với khách hàng. Giới thợ may người Bắc thời đó thường gọi hai ông bà là ông Tư, bà Tư. Do có bằng Tiểu học Pháp Certificat d’étude, bà Tư nói và viết tiếng Pháp khá lưu loát, nhận việc tiếp khách, nhận hàng, giao tiếp trực tiếp với các bà đầm Pháp thay vì phải thuê thông ngôn như các tiệm may khác. Mỗi ngày, bà bận bộ bà ba trắng, quần đen, mang đôi guốc ra đón khách đến mua vải, xem vải, đặt may. Khách đến tiệm có ấn tượng sâu đậm với bà chủ tiệm búi tóc củ hành, nhuộm răng đen, nhanh nhẹn ghi chép và vẽ kiểu cho khách bằng cây bút chì hiệu Gilbert cột dây vào cuốn sổ to và nặng. Bên cạnh đó, việc phát triển và tồn tại của tiệm chính là nhờ tài năng của ông Tư. Ông dày công nâng cao tay nghề nên các loại quần áo phụ nữ do ông cắt may được khách người Pháp thích thú, khen ngợi rất nhiều. Những lần giao hàng thành phẩm quá đẹp, mấy bà khách đầm với phong cách cư xử phương Tây có lúc nồng nhiệt ôm hôn ông Tư – như một cách cám ơn – khiến bà Tư nhiều phen “nóng mặt”! Ông làm việc phía nhà trong, chỉ huy nhóm thợ cắt may do ông tuyển lựa và đào tạo, lúc đầu chỉ vài người sau phát triển dần lên đến hai chục người, có cả ba cô con gái của ông bà. Tiệm trở thành chốn lui tới đông đúc của những bà đầm là vợ các viên chức Pháp thời thuộc địa, các quý bà người Việt giàu sang, và giới nghệ sĩ. Khách thường mang vải tới, những mảnh vải thật đẹp nhập từ nước Pháp theo đường tàu thủy. Theo đúng bài bản cắt may của người Pháp truyền lại hồi còn ở Hà Nội, ông Tư sau khi có số đo của khách, cắt đồ bằng vải sô và ráp lại như một chiếc đầm thật sự. Sau đó, khách đến thử nếu cảm thấy vừa vặn hoặc muốn chỉnh sửa, ông sẽ làm theo yêu cầu, xả áo ra, dùng từng mảnh vải sô làm mẫu trên vải khách mang đến. Cách này tuy công phu nhưng chuẩn xác, áo may không bị lỗi. Khi giao đồ, thợ trong tiệm gom tất cả các mẩu vải “mụn” để trả lại cho khách. Mớ vải này khách có thể dùng để mạng, đắp, vá áo sau này nếu cần. Có lần thợ đãng trí bỏ thùng rác số vải dư, ông buộc thợ lục giỏ rác tìm lại, giặt sạch để trả đủ cho khách.

Chủ tiệm may Kim Sơn, ông Lương Văn Thí, cũng là chuyên gia cắt may đồ đầm trong suốt 60 năm hành nghề may mặc tại trung tâm Sài Gòn.

Bà Cao Thị Liên giỏi tiếng Pháp nên có thể giao dịch với khách Tây đến may đồ tại tiệm Kim Sơn.

Bà Cao Thị Liên cùng các con, năm 1950 tại Sài Gòn.

Tiệm may này, ròng rã 60 năm trời là nơi làm việc cũng là nơi sinh sống của cả gia đình ngày càng đông đúc của ông bà Kim Sơn. Muốn ổn thỏa, tiệm cần được quản lý chu đáo và hợp lý bằng óc sáng tạo và tính tháo vát của ông bà chủ. Ban ngày, bà chủ và các cô thợ may ngồi làm việc trên những chiếc ghế thấp được thiết kế thuận tiện cho việc may vá. Ban đêm, số ghế này được xếp sát nhau biến thành những chiếc giường ngủ. Các bàn làm việc dùng để cắt may vào ban ngày và là bàn học của con cái trong nhà vào buổi tối.

Có những việc đặt ra luôn phải giải quyết. Như bàn ủi (bàn là) là thứ cần thiết trong nghề may, ông bà luôn thủ sẵn những chiếc bàn ủi than, tuy đã lạc hậu nhưng đến khi cúp điện (chuyện rất quen thuộc với dân Sài Gòn thời đó) rất tiện để hoàn tất đồ cho khách. Trước khi có máy vắt sổ nhập từ nước ngoài vào, vải phải được vắt sổ bằng tay khá tốn công cho đến khi tiệm được trang bị một cái. Khi trào lưu quần áo may sẵn từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam, các tiệm may một phen lao đao, khách giảm đáng kể. Bà Tư than với các con rằng tiền mua vải để may đồ cho khách luôn mắc hơn quần áo may sẵn công nghiệp. Cũng may, lúc đó đồ may sẵn chưa đạt tới chất lượng cao như hiện nay nên các tiệm may vẫn sống được nhiều năm sau. Người sành mặc vẫn thích đặt đồ may đúng kích thước riêng, có thể điều chỉnh theo vóc dáng cho dù trả chi phí cao. Do vậy, khách đến tiệm phần lớn là giới trung lưu trở lên, là người Việt trẻ chuộng văn hóa phương Tây, các Pháp kiều hành nghề giáo sư, viên chức... ở Sài Gòn. Họ thích diện, theo sát xu hướng thời trang mà báo chí hay phim ảnh giới thiệu.

Khoảng thời gian thập niên 1950, 1960, khách đến tiệm thường mang vải mua ở các tiệm vải của người Ấn trên đường Huỳnh Thúc Kháng (còn gọi là Đỗ Hữu Vị), hoặc vải do người thân quen ở nước ngoài gửi về. Phổ biến nhất là mua từ các cửa tiệm vải nổi tiếng là Hàng Phong, Tô Châu và Tân Cương ở đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) gần khu thương mại Saigon Departo (mặt hông khách sạn Sheraton ngày nay). Lúc này, đường Amiral Dupré đã mang tên là Thái Lập Thành. Bầy con của ông bà ngoài việc học phải phụ việc tiệm may. Nhờ đó, họ chứng kiến những ngôi sao đang lên trong giới nghệ sĩ Sài Gòn đến may đồ. Đó là đôi vợ chồng Anh Lân – Túy Hoa của ban kịch đắt khách Dân Nam, đến bằng ô tô. Nghệ sĩ Anh Lân gầy, cao dong dỏng, sau khi đưa vợ đến chọn vải liền vô phòng trong tán gẫu với ông Tư. Các nghệ sĩ Phùng Há, Kim Cương, Túy Hồng, Túy Phượng, các ca sĩ Thanh Thúy, Bích Chiêu cũng thường đến may các kiểu đầm hiện đại, không kiểu cách rườm rà như trước đây. Bà chủ hãng sơn mài Thành Lễ, bà Ưng Thi chủ rạp REX, có khi là con dâu bà chủ báo Bút Trà, bà Như Hảo là vợ nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương cũng là khách hàng của tiệm.

Mặt tiền tiệm may Kim Sơn và ảnh cưới cô con gái đầu của ông bà Tư - chủ tiệm may. Chú rể là con trai của một chủ tiệm may nổi tiếng khác, tiệm Phúc Lợi ở góc đường Lê Lợi - Pasteur.

Các ảnh trong bài từ trang 99 - 101 thuộc tư liệu gia đình ông bà Lương Văn Thí - Cao Thị Liên.

Tiệm vải Paris Tissus trên đường Catinat (Đồng Khởi). Ảnh T.L.

Hành nghề may suốt nửa thế kỷ, ông bà chủ tiệm Kim Sơn chứng kiến và sống theo những biến chuyển của thời cuộc bằng nghề nghiệp của mình. Sau trận Điện Biên Phủ, số người Pháp ở lại Sài Gòn vẫn tiếp tục đến may đồ tại tiệm Kim Sơn cho đến 1975. Năm 1954, nhiều người Bắc di cư vào Nam, ông Tư ra bến Bạch Đằng nghe ngóng. Ông nhận ra nhiều gương mặt quen thuộc xứ Nam Định, đón họ về nhà cho ở nhờ vì biết nơi tạm trú là Nhà hát thành phố gần đó đã đông nghẹt người. Khi chiến tranh lan rộng, người Mỹ đưa lính Đại Hàn (Hàn Quốc) đến tham chiến. Trong số đó có những nữ quân nhân. Tiệm may của ông bà do có uy tín nên nhận được gói thầu may mặc cho một đơn vị nữ quân nhân Đại Hàn. Các cô gái Hàn xa nhà đến may trong khi chờ đợi, nằm ngồi la liệt và xuống bếp lục cả đồ ăn khiến bà lúc đầu để yên, sau đó là nổi cáu la ầm lên, bị các cô kêu “Number ten, Bà!” (thời đó, điều gì tốt thì giơ ngón tay cái, hô number one – số một. Còn number ten – số 10 mang ý chê bai).

Cùng xuất thân từ người lao động nên ông bà Kim Sơn quý thợ, điều này khiến họ gắn bó lâu dài với tiệm. Ngoài lương thưởng hàng tháng, ông bà nuôi cơm thợ hằng ngày, có người giúp việc nấu cho gần ba chục người vừa thợ vừa người nhà ăn. Ông bà ăn cơm cùng thợ. Ông và cánh đàn ông ăn trước. Bà và các thợ nữ ăn sau. Buổi trưa, thợ nghỉ tại tiệm. Ông bà hào phóng mở cửa cho cả thợ may của một tiệm gần đó đến nghỉ nhờ, chỉ vì chủ tiệm đó không cho họ ở lại.

Tuy làm ăn bằng một tiệm may lớn và có uy tín, nhưng ông bà chủ tiệm Kim Sơn không dư giả nhiều, cũng không dám ăn xài giữa chốn phồn hoa đô hội như Sài Gòn vì phải lo nuôi đàn con chín đứa ăn học. Lúc đầu ông bà cho ba người con lớn học ở trường Phan Sào Nam gần ngã bảy Chợ Lớn. Một trong số những vị khách Tây đưa vợ đến may đồ đã bảo lãnh cho người con đầu của ông bà vào học trường Chasseloup Laubat (nay là trường Lê Quý Đôn), chỉ dành cho học sinh quốc tịch Pháp. Sau khi đậu tú tài Pháp, anh này đã vào học trường Y. Từ đó, ông bà Kim Sơn quyết tâm cho những người con còn lại, trừ cô con đầu theo nghề may, học trường Tây có thầy giỏi và dạy ngoại ngữ tốt. Họ tiếp tục vào được các trường danh tiếng như trường Đại học Y, Marie Curie, Lasan Taberd và có người đi du học Pháp.

Anh Tấn Thành, con út của ông bà, cựu học sinh trường Lasan Taberd kể: “Hồi nhỏ, tuy nhà cũng khá giả lại ở ngay trung tâm thành phố, tôi không mấy khi được đến những hàng quán sang trọng mà chỉ được phát tiền thỉnh thoảng đi ăn những món trên xe đẩy hay quán bình dân. Tuy vậy, đó là những kỷ niệm ấu thơ không bao giờ quên được. Anh em tôi được ba dắt đi tiệm nước người Hoa có tên là Nam Quang, nằm trên đường Nguyễn Văn Thinh, thời Pháp có tên là D’ormay (thời đó ít ai gọi tên đường là Nguyễn Văn Thinh mà gọi là “Độc-Mê” hay “Độc-May”, đọc trại từ D’ormay). Đi ăn phá lấu và uống nước mía Viễn Đông ở góc Lê Lợi – Pasteur, ăn ở xe mì góc đường Nguyễn Văn Thinh (nay là Mạc Thị Bưởi) – Hai Bà Trưng. Hoặc đợi đến ngày lễ của người Hồi giáo đi ăn cơm nị ở chùa Chà gần nhà. Lúc đó, người theo đạo Hồi mừng năm mới vào khoảng tháng 11 dương lịch – lễ này gọi là Hari Raya – ở chùa Chà họ tổ chức cúng tế và phát cơm nị, bánh rế, bánh cay, trái cây cho trẻ con và hành khất… Trẻ con thường ngồi ở sảnh chùa đợi được phát quà trong khung cảnh cực kỳ náo nhiệt và kỳ lạ giữa trung tâm Sài Gòn. Tiền kiếm được, ba má tôi dồn hết sức cho con cái đi học với mức học phí cộng lại hàng tháng rất lớn, chưa kể mỗi tháng gửi tiền cho ông anh du học bên Pháp. Ba mẹ tôi, đặc biệt là mẹ rất nghiêm khắc trong việc quản lý chuyện học của con. Sau bữa cơm tối, tất cả phải ngồi vào bàn học bài, ai chểnh mảng là bị quất vài 'gay' (thợ người Bắc gọi cây thước gỗ là 'gay')”.

Sau 1975, nhà may Kim Sơn không treo bảng hành nghề nữa dù vẫn nhận may cho khách quen. Nhiều người trong giới khá giả Sài Gòn cũ đã tìm đến xin học may để có nghề chuyên môn khi ra nước ngoài sinh sống. Khoảng cuối thập niên 1980, một số người Pháp trở lại Việt Nam tìm đến tiệm và muốn đặt may, ông Thí tuy đã già nhưng nể tình vẫn nhận hàng. Năm 1986, sau một đời làm lụng chăm chỉ, bà Cao Thị Liên mất. Ông Lương Văn Thí cùng các con sống ở đây cho đến năm 1991 thì dọn về khu cư xá Chu Mạnh Trinh và mất năm 2008. Các con của ông bà Kim Sơn nay sống tản mát khắp nơi, chỉ những người đang sống ở Việt Nam gặp nhau trong ngày giỗ cha mẹ. Trong ngày tụ họp, những kỷ niệm hồi ở tiệm may Kim Sơn được kể ra mải miết. Họ nhớ cả bà bán tàu hũ, không biết chữ nhưng sẵn sàng bán thiếu cho đám thợ may, đánh dấu mỗi chén thiếu bằng một gạch bên cạnh một hình vẽ, anh thợ tên Bầu được biểu thị hình trái bầu, chị thợ có mụn là hình khuôn mặt tròn có những chấm đen. Nhớ cả tiệm tắm chó gần nhà mà chiều chiều có những ông chủ nhà giàu, Tây có Việt có dắt chó đến thuê tắm. Những kỷ niệm vụn vặt khiến những người con ông bà Kim Sơn cảm thấy gần lại với nhau, họ nhớ đến tiệm may, nhớ cha mẹ và nhớ cả những người thợ lao động cần cù của một thời Sài Gòn đã qua.

Đầu năm 2015, công ty SONY mở một showroom số 68–70 Đông Du, trên nền cũ của tiệm may Kim Sơn và tiệm hớt tóc Song Chung. Một trong những người quản lý cửa hàng là cháu ngoại của ông bà Kim Sơn – anh Ngọc Hiếu. Ngày nay anh Hiếu làm việc trên căn nhà mà anh đã sống suốt thời thơ ấu trong tình yêu thương chăm sóc của ông bà chủ tiệm may Kim Sơn. Một số thợ may đã lớn tuổi của tiệm Kim Sơn xưa kia hiện vẫn còn sống tại quận Gò Vấp.

TẢN MẠN VỀ CHIẾC ÁO DÀI

Lịch sử chiếc áo dài không… dài, hoặc có thể nói là quá ngắn trong bước phát triển về trang phục của một dân tộc. Để mang dáng vóc ngày nay, áo dài cải tiến dần, từ chiếc áo năm thân, sau đó là bốn thân hay gọi là áo tứ thân, hai vạt trước buộc chéo, vắt thõng ra trước. Phụ nữ danh giá còn mặc áo đơn áo kép, mớ bảy mớ ba, bên trong có yếm. Rồi chiếc áo dài cải tiến dần.

Đã có những lúc chiếc áo dài giữ vai trò độc tôn trong đời sống, là thứ trang phục trang trọng của người phụ nữ. Ở miền Nam trước 1975 trong một thời gian dài, áo dài được dùng để cô giáo bận đi dạy, học sinh mang đi học, nhân viên nữ đi làm công sở, bà cụ đi chùa, các cô đi mua sắm, thăm viếng nhau thậm chí đi du lịch đường xa cũng bận áo dài. Ca sĩ, hoa hậu trình diễn hay thi thố cũng bận áo dài.

Tôi nhớ khi còn nhỏ, dì của tôi ở nhà chồng miệt ngã tư Bình Hòa, ngày Chủ nhật đi thăm má tôi ở Phú Nhuận cách nhau ba cây số cũng bận áo dài, ngồi xích lô. Đó là thời hoàng kim của áo dài có lẽ không bao giờ quay lại, như chiếc kimono của Nhật trong đời sống hiện nay.

Áo dài miền Bắc cải tiến khoảng năm 1935-1936 thì ở Sài Gòn, cũng thời gian đó, năm 1935, kiểu áo dài cải cách đã xuất hiện trên mặt báo và đường phố. Đến năm 1938-1939, kiểu áo dài thông dụng của miền Nam có tà áo cao tới khoảng đầu gối, cổ áo mỏng và nhỏ, gài kín lại và tay áo ráp phía trên cùi chỏ. Đến đầu thập niên 1950 tới năm 1954, giới nữ trẻ phục sức cởi mở hơn, tuy chiếc áo dài không thay đổi nhiều. Vải may áo đã mỏng hơn dịu hơn và đã có nhiều người thích may bó sát người chứ không thèm rộng nữa. Họ bỏ khuy vải trên vạt con (vạt hò) để dùng khuy nút bóp. Họ may áo kiểu tay liền và bỏ kiểu tay ráp phùng ở vai đã có lúc thịnh hành ở miền Nam cuối thập niên 1940. Vải dùng để may thường là sa tanh trắng hay đen.

Cùng với áo tay liền, phụ nữ trẻ bỏ loại áo ngực dày để dùng loại gọn nhỏ kiểu phương Tây có tác dụng nâng ngực hơn. Đến năm 1954-1958, áo dài không thay đổi kiểu may nhưng đã có hiện tượng đáng chú ý về màu sắc. Có những phong trào như: Mặc áo dài và quần đồng màu vải trắng (nữ sinh bận nhiều), rồi mặc áo xanh đậm hay đỏ chói với quần trắng. Một số phụ nữ sang trọng diện áo dài đôi, như bộ áo cưới, gồm áo dày ở bên trong và lớp áo the mỏng có hoa, đắt tiền bên ngoài. Đến năm 1958, áo dài ở miền Nam cải cách lớn như ai cũng biết, đó là kiểu áo dài của bà Trần Lệ Xuân với kiểu áo không cổ áo, hở cổ và vai, vạt hò được đắp lên tới bờ vai phải. Trong dịp lễ, bà choàng thêm bên ngoài một khăn choàng mỏng và thật dài. Chiếc áo này giúp phụ nữ giảm bớt bức bối ở vai và cổ, thể hiện được nét tròn đầy của hai bờ vai. Sau đó, áo dài tiếp tục được thay đổi: Kiểu hở cổ thì cải tiến ở cổ áo như cổ hở một phần vai hay nguyên vai, cổ hở một phần ngực hay phía trên lồng ngực và từ vai xuống trọn ức, dành cho các cô ngực nở. Còn có các cải tiến khác về cổ như cổ trái tim, cổ tròn không bâu.

Ngoài ra có kiểu cải tiến tay ráp. Các kiểu áo trên có tay ráp trên cùi tay hay ở vai. Vạt hò được để ở nách hay trên vai. Tay có thể gài nút bóp bình thường hay mở rộng, có thể được viền kiểu hay thu ngắn lên hai phần ba cánh tay.

Màu sắc và hoa áo thay đổi tùy người và lứa tuổi mặc. Xuất hiện phụ nữ mặc áo dài thêu hoa kim tuyến, hoặc họa sĩ vẽ trên áo dài. Công vẽ áo dài là 800 đến 2.000 đồng mỗi áo đầu thập niên 1960.

Trong đợt đấu xảo tại Singapore năm 1959, áo dài nhận được rất nhiều lời ngợi khen và đến giai đoạn này gần như đã trở thành quốc phục của phụ nữ. Tuy nhiên, trang phục này cũng dần bộc lộ những bất tiện. Trong tạp chí Bách Khoa năm 1959, ông Đoàn Thêm chỉ rõ trong bài Y phục và thời trang , xin lược lại mấy ý như sau:

– Áo dài còn có thể đẹp thêm. Ví dụ như vì sao lại đi bắt chước Hồng Kông hay Đài Bắc để cổ áo cứng ngắc và mỗi ngày một cao lên, từ 1955 cao lên từ 2 lên 3 phân rồi lên dần tới 10 phân đến nỗi bức bối và khó quay đầu cúi mặt? Vả lại, còn giấu đi vẻ đẹp thanh tao của cái cổ trắng ngần như cuống hoa huệ.

– Nhiệt độ miền Nam nóng bức, sao cứ lúc nào cũng để áo tay dài và bó sát. Tuy đẹp nhưng chỉ nên dùng dự lễ, yến tiệc hay hội hè. Còn khi bận rộn, lúc đi xe máy, đi hóng mát nơi miền biển sao không dùng áo tay ngắn và rộng hơn.

– Khi bận áo dài, có thêm những thứ diêm dúa, nhưng lại thiếu những thứ cần thiết. Áo lót thêu thùa thì có nhưng thiếu khăn phủ ngoài khi làm việc bếp núc dùng cho đỡ bẩn. Khăn quàng mỏng manh để điệu đà thì có nhưng nắng chang chang lại không có loại nón nào phù hợp để mang, trong khi chỉ có nón lá không tiện, đi xe máy thì gió lật. Đã uốn tóc theo lối Âu Mỹ nhưng không ai nghĩ ra loại nón che mưa nắng cho phù hợp.

Nhận xét của một nhà văn vốn là công chức cao cấp của chính phủ lúc đó khá tinh tế. Cuộc sống luôn tự chọn lựa những điều phù hợp để lưu giữ hay bỏ qua. Và áo dài cũng vậy.

Cho đến đầu thập niên 1970, áo dài tiếp tục được cải tiến. Người mặc thích loại hàng mỏng và dịu nội hóa để may áo và quần, tôn lên vẻ hấp dẫn. Nhiều phụ nữ mặc quần lót ngắn và nhỏ với mục đích này. Loại áo dài hở cổ và vai tiếp tục được cải tiến thành loại mới là có thêm cổ lật cùng màu. Kiểu này xuất hiện tại Đà Lạt, và sau đó biến mất.

Đến cuối thập niên 1960, phổ biến kiểu áo dài tà ngắn gọi là mini áo dài, có cổ thật nhỏ hoặc hở bâu. Loại này khá giống loại áo dài mà phụ nữ miền Nam mặc năm 1937 nhưng mặc chật eo, còn ai mặc rộng thì y chang kiểu 1937. Loại này cùng với loại tay raglan có thể thay đổi tà áo trên hoặc ngang đầu gối và có thể cắt ngắn cao chừng hai phần ba cánh tay. Từ kiểu mini này, đến năm 1971 có phong trào mặc áo dài với quần tây ống chân voi. Hoặc hai tay áo khác màu với thân.

Vẻ đẹp sang trọng và lộng lẫy của các nữ nghệ sĩ Sài Gòn trong trang phục áo dài thập niên 1960.

Ảnh: Tư liệu T.G.

Bàn về chiếc áo dài, không thể không nhắc đến cái tên nhà may Thiết Lập. Khoảng đầu thập niên 1971, độc giả nữ của tuần báo Thẩm Mỹ Tân Tiến thường mua tờ này, không phải chỉ để đọc truyện phơi-ơ-tông hay mục Gỡ rối tâm tình, mà họ tìm một trang mục cần thiết hơn, mục Cắt may. Mục này hút người đọc vì người phụ trách không ai xa lạ, chính là đôi vợ chồng ông Trần Kim và bà Nguyễn Thị Bắc, chủ nhân nhà may Thiết Lập rất nổi tiếng ở Sài thành. Mục Cắt may chủ yếu dạy cách may áo dài kiểu tay raglan đang thịnh hành và các kiểu áo khác.

Tính đến đầu thập niên 1970, tiệm may Thiết Lập của ông bà Kim – Bắc đã đứng vững trên đất Sài Gòn cho dù thành phố này có rất nhiều các tiệm may có từ thời Pháp thuộc. Thành lập từ năm 1950 (sau này có tài liệu cho là từ 1953), ông bà xác định hướng đi của tiệm là may áo dài thời trang. Ông Trần Kim phụ trách cắt, đo, thử và chỉ huy thợ. Bà Kim phụ trách việc tiếp khách và vẽ các kiểu áo dài.

Tuy ngôi nhà xưởng không lớn, ông bà tạo nên một xưởng may có tới 50 người thợ. Trung bình mỗi ngày tiệm giao khoảng 100 áo dài cho khách. Con số này có thể tăng gấp đôi hay gấp ba vào các ngày gần lễ Giáng Sinh hay Tết. Đặc biệt, đa số là khách quen.

Thời điểm thập niên 1960, 1970, chúng ta thấy trên đài truyền hình đa số các nữ ca sĩ khi đi hát thường bận áo dài. Xu hướng này kéo dài cho đến 1975 và cả sau này. Có nhiều ca sĩ là khách hàng quen thuộc của nhà may Thiết Lập, ngoài ra đó là các công tư chức, nhà kinh doanh, sinh viên và các phu nhân. Các cô dâu sắp về nhà chồng và cả những người sắp xuất ngoại đi du học hay du lịch đều đến may ở đây. Giới đứng tuổi và giới trẻ đều đông ngang nhau. Kiểu áo dài được ưa thích thời điểm năm 1970 là áo dài kiểu tay raglan có cổ cho các bà đứng tuổi. Tay áo dài raglan theo kiểu tay áo bà ba, đường cắt lượn từ khóe nách lên chân cổ. Còn giới trẻ thường chọn các kiểu Boléro, Comtesse, Midi, Petite Reine, Princesse, Soirée Schmitt, Bavière, Maxi,v.v…

Chân dung cô Nguyễn Thị Hòa, học sinh trường Nữ Sư phạm Hà Nội, là người đầu tiên mặc áo dài lối mới kiểu Cát Tường đăng trên báo Phong Hóa. (Ảnh và chú thích trích trong cuốn Đẹp - Mùa nực 1934).

Lời quảng cáo độc đáo của tiệm may Hoàng Mỹ ở khu “Ngã tư quốc tế”, đường Đề Thám, quận Nhứt: “1. Người ốm Bà cắt biến thành mập/ 2. Người không eo cắt vẫn có eo/ 3. Người không ngực cắt vẫn có ngực/ 4. Người không mông mặc áo vẫn thấy mông...”. Kèm theo là ảnh 2 người mẫu diện áo dài với cái eo “không tưởng” do kỹ thuật cắt cúp ảnh thủ công. Quảng cáo trên giai phẩm Phụ Nữ Ngày Mai - Xuân Quý Mão 1963.

Nghệ sĩ Phùng Há trong trang phục áo dài tân thời.

Ảnh: Photo Antoine Giăng - Sài Gòn.

Một kiểu áo dài tân thời do ông Đinh Văn Trừ thiết kế, hiệu may Phúc Thịnh may cho nghệ sĩ tài danh Năm Phỉ ở gánh hát Phỉ Phụng giữa thập niên 1930.

Ảnh: Trương Cam Khuyến.

BỘ TRANH CỦA HỌA SĨ TRẦN ĐẮC TRÊN BÁO T.G.T.D số 8 tập XX năm 1971.

Trên: Trang phục xưa của phụ nữ Việt: Áo tứ thân, thắt lưng xanh đỏ, áo yếm cổ xây, váy xồi, đội nón quai thao, đi dép cong.

Trái: Kiểu áo tân thời do họa sĩ Cát Tường vẽ thịnh hành hồi 1934-1945.

Trái: Cổ áo cao và thân áo dài chấm gót là kiểu thời trang từ 1958 đến 1968.

Trên: Từ 1969 đến 1970, áo dài đã cải tiến nhiều từ độ dài, cổ áo đến họa tiết.

Ông Trần Kim (góc trái) phụ trách đo cắt, thử đồ cùng hiền nội là bà Nguyễn Thị Bắc, chủ nhà may Thiết Lập (ngồi giữa).

Với 50 thợ may lành nghề, nhà may Thiết Lập có thể sản xuất 100 áo dài mỗi ngày.

Do có kinh nghiệm lâu năm, ông bà chú ý huấn luyện theo các tiêu chuẩn riêng của mình: Thử thách thợ mới là hai tuần lễ cho dù trước đó là thợ chuyên nghiệp, thợ phụ trách phòng đo thử phải là người kiên nhẫn và vui vẻ. Nhờ huấn luyện kỹ, trong trường hợp gấp có thể hoàn thành áo dài trong vòng 2 giờ với bốn người thợ.

Sau 1975, ông bà sang Mỹ và tiếp tục hành nghề may mặc. Theo thông tin trên mạng, nhà may Thiết Lập ở Sài Gòn hiện nay là của cháu bà Nguyễn Thị Bắc kế thừa nghề nghiệp và thương hiệu.

CÔ GÁI SÀI GÒN ĐẦU TIÊN MẶC ÁO DÀI TÂN THỜI

Giữa thập niên 1930 tại Hà Nội, báo Ngày Nay, cơ quan ngôn luận chính thức của nhóm Tự Lực Văn Đoàn ra đời sau khi báo Phong Hóa bị đóng cửa. Báo lấy việc giải phóng cá nhân làm tâm điểm của sáng tác, tôn trọng tự do cá nhân, “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ” . Ngay số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935, báo đã có bài cổ súy việc cải cách quần áo phụ nữ của họa sĩ Cát Tường trong đó có bộ áo tân thời, tiền thân của chiếc áo dài hiện đại ngày nay. Ở trang 9 của số báo đầu tiên này là hình cô Nguyễn Thị Hậu, người đầu tiên mặc áo lối mới ở Hà Nội.

Sau đó, trên báo Ngày Nay số 5 ra ngày 10 tháng 3 năm 1935, tác giả Chiêu Anh Kế đã có một bài phỏng vấn về thiếu nữ đầu tiên ở Gia Định mà ông khẳng định là người đầu tiên mặc áo dài tân thời. “Cô Hồng Vân là người thiếu nữ đầu tiên trong Nam mặc quần áo lối mới kiểu Le Mur. Trong một đêm chợ phiên ở Sài Gòn, người ta đã được trông thấy cô uyển chuyển trong bộ y phục màu hường, tà áo thướt tha và mềm mại”.

Tác giả đã đến nhà riêng phỏng vấn cô Hồng Vân về việc này và cô Hồng Vân đã trả lời rất tự tin rằng: “...cách nay hai năm, ai nào được trông thấy một chiếc áo 'hở ngực' hay một chiếc quần 'rộng ống'. Mà nếu may mắn có một thiếu nữ ăn mặc như thế, người ta đã vội cho cô ấy là gái chơi bời, lẳng lơ và trắc nết”.

Nói về cảm giác ban đầu khi ăn mặc loại áo tân thời thể hiện rõ đường nét cơ thể thiếu nữ trong bối cảnh lúc đó, cô bảo: “Lúc đầu cũng xốn xang thực, nhưng cái gì cũng vậy, hễ nó quen đi thì thôi... một cái áo cổ bẻ, khác màu với vạt, cổ tay xếp nếp mà bắt 'jour' mà lẫn vào mấy trăm cái áo lối cũ thường dùng thì ai không ngó, không trầm trồ này kia... Giả một chị em e lệ, có tính nhút nhát thì phải toát cả mồ hôi” . Cô cho biết dầu có đẹp mấy nhưng ban đầu cũng có người khen kẻ chê: “Người khen, cố nhiên là đám thanh niên biết yêu chuộng mỹ thuật, thích cải cách. Còn người chê… tất là mấy bà già khó tính”. Mang ra một bộ quần áo khác bằng lụa mỏng màu da trời nhạt, cô chỉ một đường rách và cho biết trong đêm chợ phiên của “Hội bài trừ bệnh lao”, một “bà già” 45 tuổi theo cô không rời và rạch một đường thẳng băng bằng dao nhọn từ trên xuống dưới. Tuy gặp những chuyện không vui như vậy, cô khẳng định không nản chí mà cho rằng: “Thấy cái hay, cái phải, chị em chúng tôi cứ mạnh bạo mà không quản ngại gì cả. Tôi c