← Quay lại trang sách

DĂM CHUYỆN ĂN MẶC CỦA QUÝ ÔNG

Tết Quý Sửu 1973, không khí trong xóm tôi khác với những cái Tết trước đây. Hiệp định Paris vừa ký xong khiến người dân Sài Gòn – Gia Định nôn nao tin là hòa bình sẽ sớm đến trên quê hương. Các ông trong xóm qua lại thăm nhau nhiều hơn, để cùng nhau cụng ly, bàn chuyện thời sự.

Không phải đi học, tôi lon ton giúp má tôi mang ly, nước đá cho ba tôi tiếp khách. Nhờ đó, tôi chứng kiến cuộc tụ họp vui vẻ giữa các ông chủ gia đình trong xóm đã lâu ngày mới có một cuộc gặp mặt đông vui như vậy. Ai nấy đều ăn diện khác ngày thường.

Cậu Bảy Nheo đến trước, nhìn khỏe mạnh trong chiếc áo Montagut mới toanh màu vàng nhạt, lấp lánh trong nắng tháng Giêng. Cậu làm ở sở Mỹ, có tiền nên thích xài loại áo này, giá không rẻ vì nhập cảng từ bên Pháp. Trong khi đợi ba tôi ra tiếp, cậu Bảy ngồi nói chuyện với dượng Hai Mỹ, chủ sự hãng hàng không Air Việt Nam, còn gọi là “Air con rồng”. Ngày Tết, dượng Hai mặc áo sơ mi trắng thắt cà vạt hẳn hoi, chúc Tết xong dượng còn phải chạy vô sở làm để trực nữa.

Sau đó là ông ký giả nhựt trình, không biết ông ký tên gì trên báo nhưng trong xóm gọi là chú Tư. Hôm nay ông vẫn bận cái áo bốn túi màu kaki như mọi ngày nhưng là áo mới coóng. Ông ghé chúc Tết một lát rồi cho biết phải đi ngay đến lăng Ông ở Bà Chiểu để “coi có gì hay không!”.

Rồi đến thầy Hai răng vàng, bận sơ-mi soa Pháp trắng, bỏ áo vô quần Tây đen, mang giày đen, nhìn trẻ trung so với tuổi băm mấy của thầy. Thầy chuyên chạy “áp-phe” thuốc Tây, nghe nói dám vô bán cả trong vùng quê có mấy “ổng” (sau hiểu là vùng giải phóng).

Chiều mùng Ba, tôi tiếp mấy chú là bà con xa từ xã Tân Thạnh Đông miệt Hóc Môn. Ba ông chú, chú Sáu, chú Bảy, chú Tám bận ba bộ đồ bà ba đen y chang nhau trông rất ngộ. Ngồi chơi một lát, chú Sáu co chân lên ghế ngồi kiểu nước lụt, lấy thuốc rê ra quấn hút. Mùi thuốc khét lẹt khiến má tôi rút lui, để ba tôi tiếp mấy chú. Hàng xóm đi qua đi lại, hôm sau hỏi ngay: “Có khách ở quê lên chơi hả chị Ba?”.

Có buổi chiều sau Tết, ông Thầu (làm nghề thầu khoán) từ đầu ngõ đi vào thăm ba tôi. Ông bận bộ pyjama màu ruốc lợt, có viền màu nâu ở tay áo và gần miệng túi. Tay phải ông chống “can” bằng gỗ lên nước bóng, tay trái cầm ống điếu. Ở nhà, ba tôi bận bộ đồ bà ba trắng ra tiếp ông. Hai ông già nhấp chút rượu Martell trong cái ly bé xíu, vui chuyện trong buổi chiều xuân dịu mát và đầy hy vọng.

Những điều đọng lại trong tôi về cái Tết xa xưa đó là vẻ mặt vui tươi và cách ăn mặc của các chú bác đến chơi. Họ thể hiện kiểu cách ăn diện, dù không đầy đủ, của nam giới một thời sống trên đất Sài Gòn – Gia Định, đầu thập niên 1970, bổ sung cho kiểu phục trang áo sơ mi, quần tây hằng ngày của giới viên chức làm công ăn lương.

Đã qua lâu rồi một thời phong lưu của quý ông, được ca ngợi trong bài Hành Vân thường nghe eo éo trong máy hát dĩa:

"Nằm thời nằm giường Lèo!

Đắp chăn là chăn nệm gấm!

Đi giày là giày Gia Định!

Ngồi ghế là ghế phượng loan!

Cậu bịt hai cái răng vàng, trên đầu cậu xịt dầu thơm, dầu thơm!"

Do ảnh hưởng từ người Pháp, đàn ông Việt thời thuộc địa bỏ dần chiếc áo the, khăn xếp lúc ra đường, đến cửa quan để làm quen dần với trang phục phương Tây, với áo sơ mi, quần Tây, bộ complet... Âu phục nơi công sở từ những năm đầu thế kỷ 20 đến nay hầu như không thay đổi nhiều. Bên cạnh đó, có các kiểu ăn mặc khác lúc đi chơi, ở nhà hay nơi giải trí lại thể hiện nhiều điều thú vị, ảnh hưởng của gout thẩm mỹ và điều kiện kinh tế lúc đó. Trên báo chí xưa nay, có nhiều bài viết về trang phục phụ nữ, nhưng không có mấy bài đề cập đến trang phục đàn ông các giới, ngoại trừ những đoạn mô tả mang tính nghiên cứu về trang phục quân đội, của một nghề nghiệp có tính đặc thù. Những ảnh hưởng từ phương Tây, rồi từ văn hóa Mỹ lên cách ăn mặc của đàn ông Việt cả thế kỷ qua có nhiều điều độc đáo cần quan sát và nghiên cứu.

Từ trước 1954, nhiều người từ miền Bắc và Trung chuyển vào sống ở Sài Gòn. Họ mở các dịch vụ trang phục như đóng giày da, may quần áo, làm mũ nón. Họ đáp ứng nhu cầu trang phục của người Pháp và cho cả giới công chức, viên chức trẻ người Việt. Họ mở tiệm may đồ vest, đồ đầm ở khu trung tâm Sài Gòn, trên đường Catinat (Tự Do) hay Charner (Nguyễn Huệ), Bonard (Lê Lợi), mở tiệm bán giày dép ở đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn) hay mở xưởng đóng giày ở phía quận 4. Ngoài ra, còn có hàng hóa nhập khẩu từ bên Pháp và các nước, có đủ thứ phục vụ việc chưng diện của các quý ông từ nước hoa, cravate, mũ, khăn mùi xoa, khuy manchette, đồng hồ hay kim kẹp cravate... Các sản phẩm này giúp cách ăn mặc tân thời của đàn ông Sài Gòn định hình dần, không chỉ trong giới trung hay thượng lưu mà người bình dân cũng đã biết học theo để hòa nhập vào xã hội, miễn vừa túi tiền của mình.

Ở vùng ngoại ô Sài Gòn – Gia Định, cách ăn mặc của đàn ông chậm thay đổi nhất. Ông Tiền Vĩnh Lạc, sống ở Úc, trong cuốn “Làng cũ người xưa” chỉ lưu hành trong thân hữu kể về trang phục trai làng An Nhơn ở Gò Vấp (khoảng đường Lê Đức Thọ, phường 17, quận Gò Vấp) cách nay sáu bảy mươi năm như sau: Với thanh niên ngoại ô làm nông thì: “Ở nhà, mấy cậu bận quần cụt, ở trần. Trời lạnh thì bận thêm cái áo bà ba đàn ông. Quần áo đàn ông thường may bằng vải săn đầm đen, hoặc vải xe lửa trắng (đầu vải in nhãn hiệu chiếc xe lửa). Ra đường, xỏ thêm cái quần dài đen hay trắng, quần thường chứ không phải 'quần tây'. Đa số đi chân không để đầu trần”.

Trang phục nam nữ Gia Định xưa. Trích trong bộ tranh “Monographie dessinée de l’Indochine”

(Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1935.

Đầu thập niên 1960, trang phục truyền thống Việt vẫn có chỗ đứng bên cạnh trang phục Âu Tây trong các lễ quan trọng như đám cưới. Ảnh tư liệu của Phạm Hoàng Việt.

Với đám thanh niên nhà khá giả có ăn học thì ăn bận tươm tất hơn: “Áo bà ba vải xe lửa hoặc vải bô-bơ-lin (popeline) trắng tinh, hồ, ủi thẳng nếp, mang guốc vông, đội nón cối trắng hiệu 'Con Gà'. Đó là mấy cậu học sinh trường Petrus Ký hoặc tư thục Lê Bá Cang. Còn nếu thanh niên đã học xong lớp Nhứt, đậu bằng Sơ học yếu lược ra đi làm việc thì ''bận đồ Tây: quần tây dài, áo sơ mi luôn bỏ vào quần, mang giày Bata, mang giày xăng-đan… Cậu nào sắm được một cái đồng hồ đeo tay là sang hết cỡ!”

Với người lớn làm nông thì “đàn ông nhiều người bới tóc, hút thuốc rê…Làm ruộng, làm mướn thì bận quần cụt, áo bà ba vải đen hay ở trần. Đi công chuyện mới bận đủ bà ba, đen hoặc trắng. Có guốc thì mang guốc, không có thì đi chân không…”.

Người khá giả bận đồ tây khi ra đường, còn mấy ông làng, hương chức hội tề khi ra công sở, xuống đình làng thì “áo dài, khăn đóng, đi giày bố Bata hoặc giày hàm ếch da láng” . Cách ăn diện này giữ đúng truyền thống nên dân làng rất kính trọng.

Riêng mấy thầy làm việc ở Ngân hàng Đông Dương, Nhà Dây thép (Bưu điện), Sở Trường Tiền (Sở Công chánh) ăn mặc như Tây: “Đi làm mỗi ngày mà cũng thắt 'cà-ra-oách' (cravate), áo 'vết' (vest), mang giày da có đóng sắt dưới đế, đi nghe 'cộp cộp', oai thấu trời! Biết đâu vô sở có khi bị Tây nó xài xể, khinh thường. Mấy thầy đi xe điện thì ngồi hạng nhứt, trả giá gấp đôi. Chiều về trên tay cầm một tờ nhựt trình La Dépêche tiếng Tây, hoặc tờ Điện Tín tiếng Việt, dân quê nó thấy nể quá chừng!”.

Một tác giả khác, nhà văn Hồ Trường An, trong cuốn Màn nhung đã khép tả hai nhân vật làm báo lịch lãm, ăn chơi ở Sài Gòn thập niên 1920 là anh em Đinh Tường và Đinh Thụy thật sinh động (Nhà văn này rất có tài trong việc mô tả diện mạo, trang phục và cả các món ăn, với rất nhiều chi tiết độc đáo trong tác phẩm của ông).

Nghệ sĩ Hùng Cường phối đồ với áo thun cổ lọ bên trong, khoác áo vest bên ngoài cho những ngày trời lạnh hay ở vùng cao nguyên. Mode này có thể mô phỏng theo cách chưng diện của hai tài tử Khương Đại Vệ và Địch Long trong phim Hồng Kông.

Hai nghệ sĩ Ngọc Đức và Thanh Việt trông khỏe mạnh trong áo Montagut tay dài và tay ngắn. Ảnh: Tư liệu T.G.

Đọc lại các đoạn này, ta thấy cách ăn mặc và chưng diện lúc đó đã rất tân thời không kém bây giờ:

“Đinh Tường khoảng ba mươi ngoài, mặt vuông trán rộng, mái tóc dợn sóng được chải thận trọng từng nếp quăn. Chàng để ria mép tỉa mỏng như kép Âu Mỹ nên khi chàng cười thì nụ cười dưới hàng ria mép sáng lên một vẻ nam tính hùng tráng và màu môi chàng như thêm sắc thắm đỏ… Màu ria mép đen nhánh hợp với màu đen rậm rạp của cặp chơn mày và đôi rèm mi dài. Chàng mặc bộ côm-lê màu kem nhạt, đi giày màu sô-cô-la, thắt cà vạt đen điểm chấm màu cam. Toàn cơ thể chàng toát ra vẻ phong lưu phơi phới. Hàng răng chàng bóng lên vẻ ngọc trai, chứng tỏ chàng chăm sóc nó cẩn thận. Còn đôi bàn tay chàng mới đẹp làm sao! Chúng không lớn không nhỏ, nhưng mu bàn tay rất mịn, ngón vừa vặn nhưng mềm, móng cắt cụt nhưng vành thật cong ở đầu làm cho móng có hình thuôn như hột ô môi hay hột hạnh nhân.”

Còn Đinh Thụy, khoảng độ 25, hoặc 26 tuổi, “chàng mặc theo kiểu demi saison, áo vest bằng nhung đen sọc màu thiên thanh, quần màu xám và chơn đi giày đen”.

Kiểu “demi saison” có từ thời Pháp thuộc, kiểu quần áo để mặc hai mùa thay vì loại quần áo cổ điển chỉ có thể thích hợp cho một mùa thôi. Từ đó người mặc “phăng” ra nhiều kiểu ráp quần này với áo kia.

Trong một đoạn khác, tác giả tả anh em ăn bận ở nhà như sau: Đinh Tường trong khi đợi khách đến để tiếp thì “mặc áo sơ mi màu lam thạch, quần xanh dương đậm, chơn mang giày da đen đánh bóng nẩy sao”. Còn Đinh Thụy “mặc quần tây vải bố vàng, áo sơ mi cụt tay hoặc áo thun, chơn xỏ vào đôi giày hàm ếch hoặc đôi guốc Đa Kao”.

Về tóc tai, “hai anh em có mái tóc nhuyễn và gợn sóng tự nhiên, ôm sát vào da đầu nên không cần phải chải tóc nhiều, chỉ thường gội nước bồ kết và nước cốt chanh cho tóc bồng hẳn lên. Vì tỉa ria mép theo kép hát bóng Huê Kỳ là Clark Gable và Errol Flynn nên Đinh Tường thường vuốt ria mép bằng sáp cho râu đen lánh”.

Dùng khăn lụa cài túi áo vest, hai nghệ sĩ Tùng Lâm và Xuân Phát trông rất lịch lãm đúng phong cách ăn mặc Âu Tây. Ảnh: Tư liệu T.G.

Hồ Trường An đã tỏ ra có mắt tinh đời khi tả các nhân vật sắc nét tùy theo nghề nghiệp của họ. Ông tả trang phục một ông trùm cờ bạc: “bộ đồ bằng ga-pạc-đin xám, thắt cà vạt đen điểm chấm lam ngọc, đi giày đen” , đã vậy: “lại còn cầm “can”, đầu đội nón nỉ, túi áo giắt theo chiếc đồng hồ trái quít lẫn hộp đựng thuốc lá và chiếc hộp quẹt máy, tất cả đều bằng vàng” . Còn ông bầu gánh hát thì: “mặc bộ đồ bằng vải 'tuýt so'(tussor) màu ngà, đi giày màu sô-cô-la, thắt cà vạt đen sọc đỏ”.

Những năm thập kỷ 1930, người thuộc giới phong lưu hay ăn chơi hầu như đã ăn bận theo dân Tây, nhưng lứa trung niên và cao tuổi vẫn giữ nền nếp cũ và họ thuộc số đông. Nên có câu chuyện kể rằng khi nhà thơ nổi tiếng Tagore của Ấn Độ đến Sài Gòn năm 1929, để tỏ ý tôn trọng nước chủ nhà, ông bận trang phục cổ truyền Việt với áo dài gấm bông bạc, khăn đóng nhiễu đen, quần lãnh trắng, mang giày Gia Định thong thả dạo phố Sài Gòn.

Sau thập niên 1930 là đến những năm 1940 đầy biến động, vì chiến tranh. Cái ăn cái mặc không được chú trọng, ai nấy sống cho qua thời cuộc. Đến thập niên 1950, cuộc sống Sài Gòn ổn định trở lại, người ta lại sống, làm việc, ăn diện và hưởng thụ. Tuần báo Mới số 53 xuất bản tháng 11 năm 1953 có trụ sở tại đường Sabourain gần chợ Bến Thành có bài Kinh nhật tụng của người đàn ông lịch sự bày cho giới mày râu Sài Gòn cách chăm sóc ngoại hình để trở thành một người đàn ông lịch lãm. Ngoài việc giữ gìn đôi mắt (tự chế nước rửa mắt bằng nước hoa hồng), giữ gìn hàm răng nếu có hút thuốc (dùng phấn có tẩm chất băng phiến), bài báo khuyên về việc có nên để râu hay không, giữ gìn mái tóc thế nào, và những việc cụ thể khác: “Bạn có thể dùng nước hoa, nhưng không phải thứ nước hoa nguyên chất của các cô đâu nhé! Nước hoa của bạn là thứ đã pha loãng trong rượu mạnh mà ta vẫn gọi Eau de Cologne, la Lavande và Cuir de Russie. Trước khi đi, bạn dốc ngược chai cho thấm vào khăn tay và dùng khăn tay kia (đó) xoa qua một tí trên mặt. Như thế đã đủ lắm rồi...”. Về trang phục: “...Bạn cần tuyệt đối 'khai trừ' những chiếc cà vạt lòe loẹt (màu sắc quá rực rỡ và lố lăng, có cây, có nước, có vũ nữ, có xe hơi, có nhà lầu, v.v...). Một con người tế nhị thì cà vạt cũng tế nhị, một con người đàng điếm thì cà vạt cũng đàng điếm. Xin bạn chớ quên”. Về bít tất (vớ): “Bạn nói chuyện với khách rất đứng đắn, nhưng khi khách nhìn xuống chân của bạn thì ôi thôi, khách cau mày. Tại sao? Chẳng có gì lạ cả, đôi bít tất của bạn nó là một thứ 'tạp pí lù' đủ màu sắc: xanh có, đỏ có, vàng có, trắng có. Bít tất của bạn là thứ bít tất rất Tàu... mua ở hiệu Tàu trong Chợ Lớn. Vậy lần sau xin bạn đổi giùm cho một đôi tao nhã hơn và đứng đắn hơn”. Về giày: “Đừng có chọn cái kiểu to phình như của người Pháp. Đừng có lấy thứ mũi vịt bèn bẹt của các cậu công tử bột Hanoi. Đạo trung dung dạy ta rằng: đôi giày phải vừa phải, không to không nhỏ, nghĩa là phải cân đối với khổ người của bạn”.

Nhà thơ Đỗ Kh. trong một bài viết mô tả trang phục thập niên 1960 khi ông quan sát bạn bè học cùng trường của mình: “Học trò dân con nhà giàu thì chỉnh tề quần Tergal đen áo sơ mi trắng, xách cặp Samsonite da”.

Còn viên chức chính phủ cấp cao: “Mặc quần tây nhạt đúng thời trang, loại có đai dây lưng cài chéo nút, áo Montagut nhẵn thín, đầu bóng lộn chân đi giày không dây Simili Gucci. Ông hút thuốc Jasmin cán vàng nhãn Sobranie, thứ 25 đồng 1 điếu (thuốc lá thường, lúc đó 20 đồng 1 bao) và cái xe con ông lái mới là độc đáo, Fiat 800 coupe hai cửa rất ít thấy...” (đoạn này ông tả tác giả Người Thứ Tám của series truyện trinh thám Z.28).

Đến đầu thập niên 1960, quần Dacron hay Tergal được xem là đã lịch sự rồi dù sau đó chỉ chục năm đã bị cho là “quê một cục”. Nhà may Bảo Toàn ở số 303 Võ Di Nguy (Phan Đình Phùng), Phú Nhuận quảng cáo trên báo Phụ Nữ Diễn Đàn tự nhận là nhà may lớn nhứt và khéo nhứt, có đủ hàng vải tuyệt đẹp của Mỹ quốc, có hàng Dacron 58, 60, 61, 62 đủ màu sắc.

Đến gần giữa thập niên 1960, lính Mỹ chưa vô nhưng trào lưu Mỹ đã bắt đầu với quần ống túm ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Cần Thơ. Cảnh sát ở Đà Nẵng lúc đó bắt thanh niên ngồi chồm hổm, anh nào bận quần ống túm thì sẽ không ngồi được, lại bị tét đít. Tuy nhiên, từ năm 1964, nhất là khi người Mỹ vào miền Nam nhiều thì xuất hiện phong trào “Về nguồn” để cố cưỡng lại một nền văn hóa ngoại lai đang du nhập. Nhiều đền thờ quốc tổ Hùng Vương được mọc lên, xuất hiện phong trào “Chấn hưng đạo đức”. Nhiều đám cưới tổ chức có cô dâu chú rể ăn mặc theo truyền thống như áo gấm đỏ, khăn vành dây và hột vàng thay vì mang lúp voan trắng lòe xòe... Cô dâu như vậy thì chú rể phải đồng bộ, thế là khăn xếp, áo thụng lam, áo dài khăn đóng. Đàn ông Sài Gòn có dịp quay trở lại trang phục truyền thống áo dài khăn xếp đã quên đi. Hiện tượng này đã lặp lại tại Sài Gòn thập niên 1990 trở về gần đây.

Đến 1974, ảnh hưởng phong trào hippy xuất hiện từ vài năm trước, thời trang của một bộ phận giới trẻ là quần ống loe, lòe xòe như bà đầm xòe. Thanh niên để tóc dài do ảnh hưởng phong trào này và từ hình ảnh ban nhạc Beatles đang nổi tiếng. Riêng giới thanh niên con nhà giàu chơi sang có học, thì vẫn ăn mặc đúng mốt, đi giày Santiago đóng ở tiệm Gia tận bên Khánh Hội, mặc áo quần của nhà may Văn Quân hay Tân Tân, hớt tóc ở tiệm Đơ đường Hiền Vương (Võ Thị Sáu).

Có lẽ sau trận tấn công 1968 tại Sài Gòn với nhiều xác chết la liệt trên đường phố, cùng phong trào hiện sinh đang thịnh, Sài Gòn ăn chơi nhiều hơn, diện hơn. Đời sống đầy bắt trắc không chỉ dành cho người lính ở chiến trường. Đến lúc đó, việc ăn mặc sành điệu lại được cổ súy. Nhiều người đi đặt may từ Catalogue mới đem từ Pháp sang theo các cô chiêu đãi viên hàng không, với các kiểu áo vest mới nhất. Áo Montagut vẫn tiếp tục nhập dù giá rất chát. Cravate ngoại vẫn luôn có loại mới trong Passage Eden...

Sống ở một thành phố, một đất nước trải qua nhiều biến động thời cuộc, có cái ăn cái mặc đã là mừng, nếu lịch sự càng tốt, cố giữ không lố lăng. Đàn ông Sài Gòn nhiều năm qua, vai trò xã hội quá lớn, đóng góp không nhỏ để xây dựng nên một thành phố văn minh. Họ cố gắng vươn tới phong cách sống văn minh và lịch thiệp, tạo dựng diện mạo đàn ông thành phố này. Tìm hiểu về câu chuyện này, mới sơ qua cũng đã có nhiều điều thú vị đối với người viết.

TIỆM CHO THUÊ SÁCH, DẤU ẤN MỘT THỜI

Chúng ta không rõ trong thế giới sách, ngành làm ăn cho thuê sách để đọc bắt đầu từ đâu và khi nào. Có thể từ phương Tây chăng? Ở Nhật, theo tác giả Nguyễn Xuân Xanh, trong bài Tại sao người Nhật mê đọc sách , nguyên do từ việc phát triển thương mại sách ở thế kỷ 17 tại đất nước này, khi giới đọc sách truyền thống như quý tộc, tu sĩ và thượng lưu được mở rộng sang đại chúng. Sách phát hành nhiều nhưng không đủ nhu cầu, thế là văn hóa đọc sách thuê ra đời từ thời Kan’ei (1624–1644) tại các thành phố lớn như Edo, Kyoto và Nagoya. Theo bài viết, lúc đó mỗi bản sách được in ra tới 10 ngàn bản, quá lớn so với bấy giờ, và Nhật Bản đã từng có những bộ danh mục hàng chục tập về các sách in dành cho công chúng sử dụng. Các cửa hàng cho thuê sách, kashihonya, đóng vai trò quan trọng ở đây. Đến cuối thế kỷ 18, các cửa hàng cho thuê sách có mặt khắp nơi ở Edo (tức Tokyo) và các tỉnh. Khách hàng được phục vụ bởi những người đi rong mang thùng sách trên lưng. Sách vở nhờ đó có thể đi đến tận các hải đảo xa xôi. Edo có 650 cửa hàng cho mượn sách năm 1808, nhưng đến 1832 đã có tới 800, đáp ứng cho dân số khoảng hơn triệu với tỉ lệ biết chữ lên đến 70%. Có cửa hàng cho mượn sách ở Nagoya, tên Daiso của Souhachi được thành lập năm 1767 và hoạt động 132 năm liền, đến khi chấm dứt hoạt động có một danh mục đến 26.768 quyển sách cho mượn.

Ở Sài Gòn, không biết chắc khi nào có các tiệm sách, nhà sách cho thuê nhưng chắc chắn là trước 1954, đã có loại hình này rồi. Các tiệm cho thuê sách tồn tại song song với các nhà bán sách, đáp ứng rất tốt nhu cầu của người mê đọc sách nhưng ngân quỹ eo hẹp hay không muốn bỏ tiền mua sách, hoặc muốn thỏa mãn nhu cầu đọc tiểu thuyết ít tốn kém, để dành tiền mua các loại tự điển, sách nghiên cứu hay những quyển mình tâm đắc. Những người viết, giới xuất bản sách và chủ các nhà sách không thích các tiệm thuê sách vì đã động chạm đến quyền lợi của họ, nhưng các tiệm cho thuê sách ở Sài Gòn vẫn tồn tại cho đến khi bị dẹp tiệm hoàn toàn vào năm 1975. Theo ước tính trên báo Thời Nay ra ngày 7 tháng 9 năm 1974, cho đến thời điểm đó đã có khoảng từ 2 đến 4 ngàn tiệm cho thuê sách riêng ở Sài Gòn.

Trong một bài viết cũ thời blog còn phổ biến, một bác kể rằng trước phong trào di cư (tức năm 1954), việc cho thuê mướn sách đọc chỉ xuất hiện trước các cổng trường. Những người cho mướn sách có đủ loại sách: kiếm hiệp, khoa học giả tưởng. Thuê bữa nay, ngày mai trả, giá chỉ vài cắc. Đến năm 1954, trên đường Nguyễn Kim có mở một tiệm cho thuê sách là dịch vụ chưa từng có ở vùng này. Tiệm cho thuê sách hiệu Thái Bình, do một phụ nữ người Bắc trạc ngoài 40 làm chủ. Muốn thuê sách phải đặt tiền thế chân, khoảng 10 đồng một cuốn, tiền mướn 5 cắc. Tiệm cho thuê truyện Tàu và các tác giả nổi tiếng như Hồ Biểu Chánh, Vũ Anh Khanh…

Một tiệm cho thuê sách được cho là lâu đời có từ giữa thập niên 1950 tại Sài Gòn là tiệm Đức Hưng ở đường Trần Quang Khải, quận Nhứt. Tiệm này tồn tại lâu, hoạt động liên tục nên có nhiều cuốn sách cũ, sách từ thời tiền chiến, sách in bằng giấy dó của nhà sách Hàn Thuyên, nhiều cuốn cũ nát và thiếu trang. Tiệm này đáng nhớ vì có sáng kiến cắt các kỳ truyện kiếm hiệp của Kim Dung, Cổ Long, Từ Khánh Phụng đăng phơi-ơ-tông trên báo, đóng thành từng tập để cho thuê khi các truyện này chưa xuất bản thành sách, nên độc giả rất thích... Lúc đó, chỉ có khoảng 10 tiệm cho thuê sách ở cả Sài Gòn.

Có thể đó là những tiệm sách của thuở ban đầu trong giới cho thuê sách, tuy nhiên, tiệm cho thuê sách lớn nhất Sài Gòn có lẽ là tiệm Cảnh Hưng, ở đầu đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) có tới năm tầng lầu chứa sách. Chủ tiệm sách là ông Huỳnh Công Đáng, một người Việt gốc Hoa rất am hiểu về sách. Hình ảnh ông được ghi nhớ thời đó là thích mặc bộ pyjama ra tiếp khách. Cho đến năm 1971, số sách ông cho thuê đã lên tới 20 ngàn cuốn, có đủ các thể loại từ tiểu thuyết, học làm người, truyện dịch. Tất cả sách của ông được đóng gáy, bìa bọc giấy dầu chắc chắn. Tiệm để sẵn năm cuốn mục lục sách dày cộm, kê theo số thứ tự cũ mới và tên tác giả. Nhờ sắp xếp hợp lý, khách đến thuê đông nhưng không phải chờ lâu. Khách nói tên sách là sau vài giây suy nghĩ, ông Đáng có thể nói số thứ tự và khu vực tủ kệ để sách đó. Nhiều sinh viên đến đây tìm sách để tham khảo, nghiên cứu và họ rất nể ông Đáng, trân trọng gọi ông là từ điển sống hay pho tài liệu sống.

Ở Phú Nhuận trước đây, có hai tiệm sách trên đường Nguyễn Minh Chiếu (Nguyễn Trọng Tuyển ngày nay) ngay khu chợ Lò Đúc. Đó là tiệm Tân Dân và Toàn Hiệp. Tiệm Tân Dân cũ kỹ từ các dãy tủ kệ đến diện mạo từng cuốn sách giấy đen ngòm vì mồ hôi tay bao độc giả thấm qua sau bao lần đọc. Chủ tiệm là một phụ nữ lớn tuổi không lập gia đình gốc miền Bắc, luôn nở nụ cười có nét móm duyên như Đức Mẹ. Tiệm Toàn Hiệp có chủ nhân là hai vợ chồng già là dân có học cùng ba người con, ai cũng hiểu biết về sách. Anh Hai của tôi khoảng năm 1961 đang học trường Sư phạm, mỗi buổi chiều đều phải ra sạp báo gần trường học Chánh Tâm cũ của người Tàu góc đường Trương Tấn Bửu – Nguyễn Minh Chiếu (Trần Huy Liệu – Nguyễn Trọng Tuyển) để mua báo có đăng phơi-ơ-tông truyện chưởng Kim Dung cho ba tôi. Sau đó là anh vọt xe ra mướn sách ở hai tiệm trên. Sau khi ra trường, anh đi dạy ở tỉnh xa và đến khi về lại Sài Gòn sau mấy năm lại tiếp tục làm khách hàng của họ. Rõ là nếu không thuê sách để đọc thì cả nhà tôi không thể xem được nhiều sách như vậy. Sách về mỗi ngày, từ các cuốn trong bộ Z.28 của Người Thứ Tám, truyện chưởng Kim Dung cho hai ông anh. Tiểu thuyết của Bà Tùng Long, Nghiêm Lệ Quân, Bà Lan Phương cho má tôi đọc khi ngồi sạp ở chợ. Tiểu thuyết Quỳnh Giao như Xóm vắng, Bên bờ quạnh hiu, Hải âu phi xứ, Dòng sông ly biệt cho bà chị đang học Luật. Phần tôi thì đọc truyện tranh Lucky Luke, Xì trum, Lữ Hân Phi Lục và truyện trong tủ sách Hoa Đỏ, Hoa Xanh... Ngày nào nhà tôi cũng thuê sách mới, không có sách mới ở Toàn Hiệp, Tân Dân thì anh tôi vọt lên tuốt phía trước chợ Tân Định đến tiệm Đức Thịnh để lùng. Với tốc độ đọc như vậy thì mua sách là điều nan giải. Chỉ có đi thuê như mọi người.

Sau này, khi biết nhà ai có tủ sách lớn từ trước 1975, tôi biết họ thuộc gia đình trung lưu trở lên mới kham nổi. Sài Gòn tuy được nơi khác xem là thành phố mải mê “làm ăn”, “ăn chơi” thâu đêm suốt sáng nhưng nhu cầu đọc sách báo thì ai cũng biết là rất lớn và đặc biệt là giới bình dân thích xem sách xem báo không thua ai. Ở tiệm cho thuê sách lúc ấy hằng ngày đón đủ loại khách: sinh viên học sinh đến công chức già, thầy dạy học đến mấy cô bán ở snack bar và cặp với người Mỹ, người đi xe đạp và ông đi xe hơi. Đông nhất là người thuộc giới bình dân, ít tiền, ham giải trí nhưng không có nhiều tiền để đi xi-nê, phòng trà... Một bài báo trước 1975 cho biết có tới hai phần ba người đi thuê sách là ở tuổi thiếu niên 14, 15 tuổi. Số này đã bắt đầu mê truyện kiếm hiệp và gián điệp, và dễ bị sai vặt đi đổi sách cho người lớn.

Loại sách nào được ưa thích nhất? Đó là truyện chưởng Kim Dung. Các bộ truyện của ông không có tác giả nào của Việt Nam so nổi về số lượng độc giả hâm mộ. Theo tác giả An Phong tường thuật trên báo Thời Nay, riêng bộ bảy tập tiểu thuyết kiếm hiệp Cô gái đồ long (sau này dịch tên chính xác là Ỷ thiên đồ long ký ) của Kim Dung, tiệm Cảnh Hưng đã mua tới 100 bộ để cho thuê. Riêng các truyện khác như Tiếu ngạo giang hồ, Lục mạch thần kiếm , mỗi tựa mua trên 10 bộ. Xếp sau truyện chưởng là loạt tiểu thuyết gián điệp Z.28 của Người Thứ Tám. Ai thích truyện chưởng đều thích loại sách này, có lẽ vì cả hai đọc hấp dẫn nhưng không cần động não, đáp ứng nhu cầu giải trí đơn thuần. Xếp sau sách gián điệp, có lẽ khó phân loại cho chính xác. Tuy nhiên, căn cứ vào số lần mướn nhiều thì nhà văn Việt được đọc nhiều nhất là Duyên Anh. Các cuốn như Điệu ru nước mắt, Loan mắt nhung về thế giới du đãng đắt khách nên giới chủ tiệm cho thuê sách mua tới 20 cuốn. Họ chú ý rằng cuốn nào báo chí khen hay chửi nhiều đều dễ cho thuê. Sau loại sách này, các tiểu thuyết loại khác đều có số lượng đặt mua ở mỗi tiệm cho thuê sách là dưới 5 cuốn, trong số đó loại sách nhiều người đến thuê, nhất là giới sinh viên học sinh, chính là sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.

Tuy nhiên, có khi hạnh phúc của người này là nỗi đau của người kia. Giới nhà văn cho là mình đang bị xâm hại quyền lợi. Một nhà văn gọi đích danh nghề cho thuê sách, hay cho mướn sách tùy theo người gọi là “hút máu văn sĩ”. Một nhà văn khác in thẳng lên trang sách đầu tiên của mình, cuốn Giờ ra chơi , hàng chữ “cấm cho thuê” . Tác giả An Phong nêu các lý lẽ của giới cho thuê mướn sách phản ứng với lập luận trên như sau:

– Dân chúng vì quá bận, sách lại quá mắc nên sách in ra có vài ngàn bán mãi không hết. Nhờ có cả ngàn tiệm sách trên toàn quốc mà các tác giả, nhất là tác giả trẻ có cơ hội giới thiệu sách đến tay người đọc.

– Nhờ họ mà dân chúng có phương tiện giải trí rẻ tiền trong thời buổi khó khăn.

– Giới văn nghệ sĩ thích mở thư viện để phổ biến tác phẩm nhưng lại không thích tiệm cho thuê sách. Thực chất các tiệm này không khác chi thư viện, phổ biến sách đọc đến với người dân, chỉ khác là có thu phí vì chủ tiệm phải bỏ tiền ra mua sách vào.

Bên cạnh búa rìu dư luận phải chịu nói trên, giới cho thuê sách còn chịu đựng chuyện xảy ra như cơm bữa là bị mất sách. Trong thị trường sách, giá bìa chỉ có giá trị khi cuốn sách vừa bán ra. Nó sẽ mất giá khi cuốn đó bán ế không ai thèm mua và có khi bị cân ký rẻ như cho, nhưng nếu cuốn sách hay, có giá trị, lại tuyệt bản vì sách ra đã lâu thì giá của nó cao có khi gấp nhiều lần. Lúc đó, ở hiệu sách thì không còn nhưng có thể tìm thấy ở một tiệm cho thuê sách lớn. Hồi còn nhỏ, tôi tìm mua cuốn Hồn bướm mơ tiên bằng cách đó. Khi bị mất nó, tôi ra hiệu sách không có nên chạy lên tiệm Tân Dân và thuê lại. Đóng một khoản tiền cọc giá hơi cao, tôi có cuốn sách tuy đóng kẽm hơi cứng, giấy vàng vọt và hơi cũ nhưng đọc vẫn ngon lành. Cũng bằng cách đó, người con của nhà văn Nguyễn Triệu Luật đã gom góp được đủ bảy cuốn sách của bố ông do Nhà xuất bản Tân Dân in từ thời tiền chiến bằng cách thuê lại bốn cuốn sách trong số đó ở tiệm Cảnh Hưng rồi giữ lại luôn. Ông Cảnh Hưng than là ông bị mất cả vài trăm cuốn trong chục năm cho thuê sách. Có lúc mỗi ngày mất cả chục cuốn sách. Chủ tiệm càng giỏi đánh giá, biết mua sách có giá trị càng dễ mất sách. Tuy nhiên, sách quý hiếm cũng thể hiện đẳng cấp của một tiệm cho thuê sách, dễ thu tiền thiên hạ vì quay vòng thuê nhiều lần.

Sau 1968, trận Mậu Thân với những xác chết trên đường phố Sài Gòn khiến người dân thành phố này hoang mang lo lắng hơn bao giờ hết. Trong tâm trạng đó, họ càng chui đầu vào các thú giải trí như muốn quên đi thực tại và đi thuê truyện chưởng, trinh thám hay tình cảm mùi mẫn là hợp nhất. Việc làm ăn phát đạt, các chủ tiệm không ngừng mua sách vào trong khi số sách cũ đã hết khấu hao từ lâu, tiền vào đều đều trong khi đa số người dân thắt lưng buộc bụng. Tiệm Cảnh Hưng trở nên một kiểu thư viện với 20 ngàn cuốn sách. Cho đến năm 1971, ước tính tiệm Cảnh Hưng thu được mỗi tháng khoảng 150 ngàn đồng thời ấy, một số tiền lớn.

Các tiệm cho thuê sách tồn tại đến năm 1975 thì chấm dứt. Đến lúc đó, ngành làm ăn này đã phát triển tới hồi thịnh nhất. Đến chiến dịch thu gom văn hóa phẩm chế độ cũ khoảng tháng 6 năm 1975, các nhà bán lẻ sách và tiệm cho thuê sách của tư nhân ngưng hoạt động, sách bị thu gom. Trên báo Tiền Phong ra ngày 24 tháng 6 năm 1975, tác giả Kim Nguyên cho biết tiệm Cảnh Hưng đã nộp cho đội công tác sinh viên, học sinh trường Trí Đức 36 ngàn cuốn sách các loại, một con số rất lớn. Hai tiệm sách ở chợ Lò Đúc gần nhà tôi cũng bị dẹp. Lúc đó, người dân chung quanh mới biết rằng tiệm Tân Dân lâu nay chính là cơ sở hoạt động bí mật của chế độ mới. Tiệm còn lại, bị tịch thu ngoài số sách cho thuê, bị thu cả sách đọc và tự điển trên lầu nên đã phản ứng khiến một thảm kịch đã xảy ra ở đó mà bây giờ dân vùng Phú Nhuận có người còn nhớ.

Đến khoảng đầu thập niên 1990, loại hình kinh doanh cho thuê sách hoạt động trở lại và còn tồn tại cho đến ngày nay nhưng không còn trở lại thời hoàng kim như trước kia nữa.

Sách cho thuê qua tay nhiều người, đa phần đều cũ kỹ, nhưng sức cuốn hút rất lớn đối với dân Sài Gòn ghiền đọc sách. Ảnh: P.C.L.

TỦ SÁCH TUỔI HOA

Hoa Đỏ, Hoa Tím, Hoa Xanh, những từ giản dị, không phải nói về những loại hoa nào đó mà là về một tủ sách, khi vang lên luôn nhắc nhớ về kỷ niệm hồi mới lớn của cả một thế hệ sống ở miền Nam trước 1975. Đó là Tủ sách dành cho giới học trò cắp sách được xem là có nội dung trong sáng, mang tính giáo dục cao và không chỉ thế, còn hấp dẫn nữa. Bên cạnh đó, còn là nơi xuất bản ra những cuốn sách có bìa sách đẹp nhất trong lĩnh vực sách dành cho giới trẻ, một giá trị đến giờ vẫn còn nguyên.

Lớp độc giả miền Nam yêu thích tủ sách này, nay đã bước sang tuổi 50, 60 vẫn còn nhớ những cái tựa gợi cảm, mang đầy âm hưởng gây háo hức. Đó là Mật lệnh u đỏ, Chiếc lá thuộc bài, Khúc Nam ai, Thiên Hương, Lữ quán giết người... và tên những tác giả Hoàng Đăng Cấp, Minh Quân, Bích Thủy, Kim Hài, Thùy An, Nguyễn Thái Hải trong đội ngũ sáng tác thường xuyên của Tủ sách. Khi tình cờ thấy lại được một cuốn sách cũ của tủ sách này, tất cả kỷ niệm đẹp đẽ như ùa về, cái thuở trong sáng đầy mơ ước hướng thiện.

Nhà xuất bản Tuổi Hoa với tủ sách Tuổi Hoa, chủ biên là ông Nguyễn Trường Sơn khai sinh, nuôi dưỡng và phát triển tủ sách này. Bước ban đầu, tủ sách này in vài quyển, “hình thức cố cho sạch sẽ, nội dung là để giải trí lành mạnh, các em tuổi 14 đến 16” (trả lời phỏng vấn của báo Bách Khoa). Lúc đầu là sách của nhà văn Nguyễn Trường Sơn, cuốn Con tàu bí mật và sách của vài người bạn thân. Sau khi in được tám quyển đầu, Tủ sách nhận được nhiều thư của các bậc phụ huynh khích lệ và được các độc giả nhỏ tuổi rất thích. Thậm chí có người còn lo sợ là những người làm sách sẽ “đánh trống bỏ dùi” nữa. Đến năm 1962, bán nguyệt san Tuổi Hoa được phép phát hành và sau đó Tủ sách Tuổi Hoa ra đời.

Chân dung nhà văn Nguyễn Trường Sơn, người sáng lập ra tạp chí Tuổi Hoa và Tủ sách Tuổi Hoa, do họa sĩ Vi Vi vẽ. Góc phải bức tranh có hình biểu trưng các loại sách Hoa Xanh, Hoa Đỏ và Hoa Tím rất quen thuộc với độc giả nhỏ tuổi miền Nam cách nay gần nửa thế kỷ.

Tuy nhiên, lúc đầu Tủ sách chỉ đủ sức cho ra rải rác một số quyển. Theo nhà văn Nguyễn Trường Sơn trả lời trên báo Bách Khoa, đến năm 1966-1967, được sự hỗ trợ và khuyến khích của nhà văn Minh Quân, Tủ sách ra sách đều đặn hơn, trung bình mỗi tháng một cuốn. Lúc đầu, mỗi cuốn in 3.000 cuốn bán không hết, sau in tới 5.000 bản/cuốn và bán ngon lành. Trung bình mỗi cuốn từ hơn 120 trang đến 160 trang. Giá bán từ 30 đồng, cao nhất là 60 đồng. Nhiều người lấy làm lạ vì số trang nhiều, in đẹp, bìa offsette tươi rói mà sao bán giá rẻ vậy. Tuy vậy, người hưởng lợi nhiều nhất là nhà phát hành hưởng chiết khấu tới 45%, không khác chi hiện nay.

Sách Tuổi Hoa chia làm ba loại: Hoa Đỏ, Hoa Xanh và Hoa Tím. Hoa Đỏ là loại sách trinh thám, phiêu lưu, mạo hiểm. Hoa Xanh thuộc loại tình cảm nhẹ nhàng. Hoa Tím đã xuất hiện tình cảm giữa nam nữ một cách trong sáng dành cho tuổi từ 16 đến 18. Biểu trưng của tủ sách là bông hoa tám cánh do họa sĩ Vi Vi vẽ. Nhà văn Nguyễn Trường Sơn tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương, nên rất chú ý đến tính mỹ thuật của các ấn bản. Ông chọn lựa kỹ lưỡng từng bức tranh để làm bìa. Với “bút lực” của họa sĩ Vi Vi ngày càng phát triển, bìa các cuốn sách Tuổi Hoa ngày càng đẹp rực rỡ, có sức cuốn hút rất lớn ngay từ ấn tượng đầu tiên khi sách mới xuất hiện trên sạp hay trong nhà sách. Muốn được như vậy, nhóm làm sách đã bám sát khâu trình bày từ họa sĩ, thợ máy in, lúc đóng bìa,v.v… Về nội dung, có sự hỗ trợ rất lớn của nhà văn Minh Quân từ việc quan trọng nhất là khai thác bản thảo, như giới thiệu nhà văn Nguyễn Hiến Lê viết cho tủ sách này (cuốn Bí mật dầu lửa ) và mời một nhà phê bình kiếm hiệp viết truyện kiếm hiệp để “đả” loại kiếm hiệp hoang đường đang hoành hành lúc đó.

Lúc đầu, Tủ sách Tuổi Hoa có một số cuốn được viết theo dạng “phóng tác”, tức là dựa vào một cuốn tiểu thuyết nước ngoài và Việt hóa từ nhân vật cho đến bối cảnh trong truyện (Phải chăng đó là cách thức để hình thành những bản thảo khi đội ngũ viết cho tủ sách ban đầu hầu như không phải là nhà văn chuyên nghiệp?). Ví dụ như truyện Thiên Hương phỏng theo truyện Tombée du Ciel của Henry Winterfell, truyện Pho tượng rồng vàng phóng tác theo một truyện trinh thám của nước ngoài.

Nhà văn Kim Hài và nhà văn Thùy An cùng bắt đầu cộng tác với Tuổi Hoa cũng từ khâu “phóng tác” một tác phẩm của nước ngoài. Hai chị học chung một lớp tại trường Trung học Phan Chu Trinh, Đà Nẵng, sau đó cùng khoa Địa chất, Đại học Khoa học Huế. Niên khóa 1967-1968, đang học năm thứ 4 thì Huế không có giáo sư ra dạy tiếp, hai chị vào Sài Gòn học và làm quen với Tủ sách Tuổi Hoa từ đó. Chị Kim Hài trước đó đã viết truyện ngắn đăng trên các báo Thằng Bờm, Tuổi Hoa, vừa thỏa mãn sở thích vừa để kiếm tiền trang trải việc học và sinh hoạt. Sau khi có bài đăng trên nguyệt san Tuổi Hoa một thời gian, chị được ông Nguyễn Trường Sơn giao một bản thảo dịch từ truyện nước ngoài viết cho tuổi mới lớn và đề nghị chị phóng tác, Việt hóa nhân vật và không gian sống trong truyện. Chị rủ chị Ái, tức nhà văn Thùy An sau này, cùng tham gia, dựa vào cốt truyện và hầu như viết lại từng câu văn. Hai chị phân công nhau, một người viết phần đầu và một người viết phần sau, ráp lại hoàn chỉnh không ai nhận ra sự khác biệt. Cuốn sách đầu tiên của hai chị ra đời mang tên Nắng lụa , ký tên Dạ Thanh, với bối cảnh xảy ra ở Huế. Nhuận bút cuốn đó trị giá ngang một lượng vàng. Sau đó, chị Kim Hài tiếp tục viết cuốn Khúc Nam ai , một cuốn sách nhiều người biết đến, lấy cảm hứng sau khi đọc một cuốn truyện dịch của chủ bút Nguyễn Trường Sơn đưa xem. Đó là lúc chị bắt đầu muốn viết những điều mình ấp ủ và trải nghiệm dù còn non nớt và cũng là cơ hội để chứng tỏ mình. Từ đó, ông Nguyễn Trường Sơn không đưa cho chị phóng tác bất cứ truyện dịch nào nữa mà chỉ nói “Kim Hài viết đi!”.

Nhà văn Thùy An mừng sinh nhật 17 tuổi. Ảnh: Tư liệu Thùy An.

Nhóm tác giả trẻ Tủ sách Tuổi Hoa (từ trái sang): Họa sĩ Nguyễn Đình, Kim Hài, Nguyễn Thái Hải, Hoàng Đăng Cấp, Trinh Chí. Ảnh: Tư liệu của Kim Hài.

Nhà văn Thùy An năm 1971 khi vừa học xong Đại học. Quyển “Vườn cau nước dâng” được chị sáng tác thời gian này.

Ảnh: Tư liệu Thùy An.

Nhà văn Kim Hài lúc cộng tác với Tủ sách Tuổi Hoa. Ảnh: Tư liệu Kim Hài.

Nhà văn Thùy An trong năm 1970 viết cuốn truyện đầu tay là Vùng biển lặng (Tủ sách Hoa Xanh) và Hoa bâng khuâng (Hoa Tím). Từ đó, chị viết tất cả 9 cuốn sách cho Tủ sách này cho đến năm 1975 như: Mây trên đỉnh núi, Hoa nắng (Hoa Xanh), Hoa bâng khuâng, Con đường lá me, Chân dung hạnh phúc, Như nắng xuân phai, Vườn cau nước dâng, Tiếng dương cầm . Nhà văn Kim Hài viết tổng cộng 7 cuốn cho Tủ sách này, từ cuốn Khúc Nam ai (1971), sau đó là Cao như đỉnh thái, Người dưng khác họ (Hoa Xanh), Cánh gió, Gợn sóng (Hoa Tím)...

Tuy không có vai trò lớn trong dòng chảy văn học của miền Nam trước 1975, Tủ sách Tuổi Hoa trước hết đã tạo được hiện tượng xuất bản dành cho thiếu nhi. Ông Châu Hải Kỳ trong một bài viết cho rằng Tủ sách đã được tổ chức tốt nhưng cần giới thiệu sâu rộng thêm để độc giả biết đến, điều đó thể hiện sự nhìn nhận phần nào giá trị của giới phê bình. Tuy nhiên, đó là tình hình những năm giữa thập kỷ 1960. Khoảng đầu thập niên 1970, nhờ các tác giả trẻ xuất hiện trong Tủ sách và có sự đóng góp của một số nhà văn nổi tiếng, uy tín Tủ sách ngày càng vững vàng. Tủ sách như một sân chơi tâm huyết cho những nhà văn, nhà giáo muốn dẫn dắt lứa độc giả nhỏ tuổi bước vào cuộc sống với lòng yêu thương dành cho cuộc sống, người thân, bạn bè và lớn hơn cả là tình yêu quê hương đang trong khói lửa chiến tranh. Các nhà văn Thùy An, Kim Hài, Nguyễn Thái Hải viết cho tủ sách lúc đang là sinh viên hoặc vừa mới học xong đại học. Ban đầu, chỉ là thử sức bước vào con đường văn chương, nhưng cuối cùng họ đã đi sâu vào con đường này. Bản thân người viết cũng một thời mê sách Tuổi Hoa, nâng niu và gìn giữ từng cuốn sách khổ nhỏ bìa cứng có tranh bìa rất đẹp của họa sĩ Vi Vi. Qua đó, những rung cảm về tình yêu quê hương, về một vùng nông thôn hay phố thị miền Trung trong truyện của Kim Hài, Thùy An hay những chuyện phiêu lưu mạo hiểm của Nam Quân, Hoàng Đăng Cấp là dấu ấn không phai thời tuổi nhỏ.

Mùa hè 2015, nhà văn Nguyễn Trường Sơn, người anh cả sáng lập, điều hành và cũng là tác giả Tủ sách Tuổi Hoa đã từ trần tại Hoa Kỳ, hưởng thọ 98 tuổi. Ông được xem là “đã góp phần đáng kể vào công cuộc giáo dục thanh thiếu niên Việt Nam trong những thập niên 1960 và 1970” . Trong buổi lễ tưởng niệm ông, nhà thơ Tôn Nữ Thu Dung phát biểu: “...Từ quá khứ, chưa bao giờ dòng văn học thiếu nhi này được đánh giá cao như các dòng văn học khác. Nhưng thật sự, tính nhân văn của nó đã hằn sâu trong tâm thức của mỗi chúng ta... Tính giáo dục nhân bản của tờ báo này thật đơn giản, giáo dục LÒNG YÊU NƯỚC, sẵn sàng hy sinh khi đất nước cần. Giáo dục lòng YÊU CON NGƯỜI, kính trên nhường dưới, can đảm, khiêm tốn, bao dung, vị tha... YÊU CÁI ĐẸP... Những điều này đồng nghĩa với KHÔNG THỎA HIỆP với điều ÁC, cái XẤU và sự GIẢ DỐI... Chúng tôi đã lớn lên trong tinh thần đó. Để hôm nay, chúng tôi không hổ thẹn để nói rằng mình đã sống rất lương thiện, không đánh mất CHÂN, THIỆN, MỸ trong cả những tình huống xấu nhất, những bối cảnh xấu nhất của đời mình... Và tôi tin rằng đó là công rất lớn của chú Nguyễn Trường Sơn”. Đoạn phát biểu này gói ghém những điều tốt đẹp mà tủ sách này mang đến cho lứa độc giả nhỏ tuổi ở miền Nam cách nay hơn bốn mươi năm – cần và xứng đáng được ghi nhận.

CÁC TỦ SÁCH THIẾU NHI KHÁC

Khoảng đầu thập niên 1970, trên vỉa hè Sài Gòn, trước các cổng trường xuất hiện một loại truyện tranh được xem là nhảm nhí, trong đó có truyện tranh với nhân vật Chú Thoòng và truyện tranh về con quỷ một giò với nhiều cảnh vẽ đầy máu me ghê rợn… Các bậc cha mẹ và các thầy cô giáo đánh giá đó là những cuốn truyện vô bổ nhưng học trò lứa tuổi đầu 6x lại rất mê. Quan tâm đến việc tìm sách báo lành mạnh cho con em mình đọc, người lớn tin cậy vào Tủ sách Tuổi Hoa và các tờ tạp chí có nội dung lành mạnh như Thiếu Nhi, Tuổi Hoa, Thằng Bờm, Ngàn Thông. Ngoài các ấn phẩm thuộc Tủ sách Tuổi Hoa, thiếu nhi cách nay hơn bốn mươi năm còn có các loại sách khác dành cho thiếu nhi được đánh giá là có tính giáo dục, đầy tính nhân văn, có thể an tâm khi cho con đọc như là:

Sách Hồng của Nhà xuất bản Văn Nghệ: Nhà xuất bản này có một hiệu sách lớn ở đường Phạm Ngũ Lão, quận I, nên thuận tiện cho việc phát hành. Thuận lợi hơn nữa, do chủ nhân nhà xuất bản là người trong gia đình nên từ năm 1963 được độc quyền xuất bản truyện của nhà văn Khái Hưng, bao gồm chín cuốn: Cái ấm đất, Cây tre trăm đốt, Ông đồ bể, Cóc tía, Cấm trại, Bông cúc đen, Để của bí mật, Quyển sách ước, Thầy đội Nhất . Mỗi cuốn vẻn vẹn 24 trang, giá năm 1971 là 16 đồng được xem là rẻ, dễ mua. Nhà xuất bản này từ năm 1963 đến năm 1971 in tái bản bộ sách được ba lần, mỗi lần 5 ngàn quyển. Hai cuốn bán chạy nhất là Ông đồ bể và Cái ấm đất . Trên trang bìa sau Sách Hồng có dòng chữ: “Sách Hồng là loại tiểu thuyết lý thú và hữu ích cho Nhi-đồng và Thanh-niên nam nữ. Các bậc phụ huynh không phải lo ngại băn khoăn, cứ việc yên tâm mua Sách Hồng đưa ngay cho con em đọc. Sách Hồng lại vừa là sách giáo khoa Việt-ngữ, các giáo sư muốn trích dẫn những đoạn văn hợp trình độ học sinh đều cần có đủ bộ”.

Theo ông giám đốc Nhà xuất bản Văn Nghệ trả lời phỏng vấn nhà báo Tân Phong Hiệp trên báo Bách Khoa, giá trị các cuốn sách này là: cốt truyện vui, có tính giáo dục, văn gọn gàng dễ hiểu. Các giáo sư Việt văn các lớp đệ Thất (lớp 6), đệ Lục (lớp 7) đem cho học sinh trần thuyết (thuyết trình) tại lớp. Các trường công giáo tiêu thụ mạnh… Loại sách này được phát hành từ nhà phát hành Sống Mới.

Sách Nhi Đồng Tuổi Thơ của nhà sách Khai Trí chỉ 32 trang, giá 10 đồng, do những nhà giáo tên tuổi như Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Lê Tất Điều…viết với mục đích giáo dục rõ rệt, được nhiều phụ huynh tin cậy.

Sách Nhà xuất bản Lá Bối phát hành, cũng chỉ có 32 trang, nội dung nói về tình cha con, tình mẹ con, bà cháu, anh chị em, đọc rất cảm động như các cuốn Bông hồng cài áo của thiền sư Thích Nhất Hạnh (tái bản nhiều lần), Làm con nên nhớ của Lộc Đình (tức Nguyễn Hiến Lê), Áo em cài hoa trắng và Trận đòn hòa giải của Võ Hồng. Cuốn Áo em cài hoa trắng lần đầu in 10 ngàn cuốn, sau một tháng tiêu thụ hết, kỳ sau tái bản 20 ngàn cuốn, hết trong vòng vài tháng. Trận đòn hòa giải in 5 ngàn cuốn không đầy nửa tháng là hết.

Một thời cuốn Bông hồng cài áo của thiền sư Thích Nhất Hạnh là sách gối đầu giường của bao nhiêu học trò. Đoạn văn của thầy đã từng được đọc đi đọc lại nhiều lần:

“Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother’s Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Ðông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của Thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong xắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, Thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào, chúng tôi không có cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng”.

Đoạn văn này là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sáng tác bài hát cùng tên tiếp tục gây xúc động bao người.

Ảnh: Nguyễn Gia Liên.