← Quay lại trang sách

Hồi Mới Vào

Trong những ngày giáp Tết giữa thập niên 1950, người dân khu Hòa Hưng thường bắt gặp các cụ đồ già người Bắc vừa di cư vào Nam ngồi trên vỉa hè đường Chason (Phạm Hồng Thái) gần chợ Hòa Hưng, bày bán những liễn đối chữ Hán viết sẵn trên giấy điều. Thấp thoáng trong số liễn đối có cả những câu chúc phúc bằng chữ Việt viết theo kiểu Hán tự. Họ ngồi buồn vì ế khách. Cho đến lúc đó, dân Sài Gòn – Gia Định không còn mấy ai chơi liễn đối như hồi “đàng cựu” (thời Pháp chưa qua), hoặc nếu có thì đã quen vô Chợ Lớn mua liễn bày bán trước Nhị Phủ miếu, chùa Ông hay đường Khổng Tử do người Tàu viết để mang về dán trong nhà. Những ông đồ già ngồi trầm ngâm dưới nắng tháng Chạp vàng ươm dễ chịu, nhưng trời đất chung quanh không phải mùa xuân xứ Bắc với mưa xuân phơi phới bay mà họ đã rời xa.

Đó là một hình ảnh trong câu chuyện được kể lại trên tờ báo Xuân xưa khiến tôi nhớ mãi. Cảm động biết bao trước tâm tình của những lớp người miền ngoài vì hoàn cảnh và những biến động chính trị, thời cuộc đã phải rời quê hương đất tổ vào sống trên đất Sài Gòn này. Vượt qua những dị biệt ban đầu và cả niềm thương nỗi nhớ dậy sóng mỗi đêm, họ trở thành cư dân miền Nam, cư dân Sài Gòn và bắt đầu nhả sợi tơ sở học, tài năng của mình đóng góp cho thành phố này thêm trù phú và văn minh. Họ thấy được tấm lòng rộng rãi tiếp nhận người xứ khác của cư dân ở đây. Họ cảm nhận cuộc sống trên đất mới, tuy xô bồ nhưng dễ sống, tuy ồn ào nhưng thật lòng, tuy thiếu hoa mỹ nhưng biết thưởng thức những điều đẹp đẽ và còn tạo điều kiện cho nó thăng hoa. Dù vậy, lòng hoài niệm của họ vẫn đầy ăm ắp, nên mới có những vần thơ nhớ Bắc của Lê Minh Ngọc, ông chủ quán bánh mì Hòa Mã ở đường Cao Thắng: “Ngoài ấy trời xuân lạnh/ rét căm lòng cỏ hoa/ em nhìn mây không cánh/ bay về phương trời xa/ nghẹn ngào em thầm hỏi/ người đi có nhớ nhà...” , mới có những tản văn tuyệt tác của Vũ Bằng trong Thương nhớ Mười Hai với tháng Hai nhớ hoa đào, tháng Ba cảm nhận “trời chuyển bất ngờ, đương nắng thành râm, và chỉ trong khoảnh khắc, rét của cuối Chạp, đầu xuân đã trở về trên cánh gió, giữa một khoảng trời tháng Ba nắng ấm” . Văn hóa mở cõi của đất miền Nam trù phú đã được tiếp thêm màu cổ kính từ những người con đất tổ ngàn năm, tạo dựng nên nét sinh động, đa dạng, thể hiện rõ nhất ở Sài Gòn, thành phố hội tụ nhân tài tứ xứ.

Tuy nhiên, thuở ban đầu luôn khó khăn. Giống như tâm tình của những cụ già xứ Bắc viết liễn ngày giáp Tết ở lề đường sát chợ Hòa Hưng. Nhiều khác biệt có lúc không chịu nổi.

Người mới vào đã có nhiều điều bỡ ngỡ trước vùng đất mới đầy nắng gió này. Họ ngạc nhiên khi thấy thuốc lá không được bóc ra ở phần trên bao thuốc, mà dùng tay khoét một lỗ ở phía gần đáy rồi rút điếu thuốc ra; khi uống cà phê lại đổ ra đĩa rồi húp từng ngụm; tờ bạc 1 đồng xé làm hai để thành 5 cắc cho tiện; nữ sinh đi guốc mộc, kẹp tóc cao đến gáy, mặc quần trắng ống rộng gấp đôi bình thường,...

Phóng sự Sài thành xài tiền của Hà Việt Phương trên báo Đời Mới số 68 năm 1953, có kể về một ông ngoài Bắc vừa vào Sài Gòn. Khi biết ông định đi thăm người quen lúc 7 giờ sáng, bà chủ nhà trọ liền can ngăn, bảo lúc đó còn sớm quá, phải “chín giờ trở đi thì những người như ngài mới ra phố” . Bà này từ Huế vô Nam đã lâu, nói rằng ai ở ngoài Bắc vô cũng dậy sớm, đi chơi sớm và ngủ sớm cả. Nhưng người trong này thức khuya, sống về ban đêm nhiều hơn. Bà lớn giọng: “Tối, ngài ra các tiệm các chợ mà coi, cứ chật nức người là người, phần lớn là anh chị em lao động, kiếm được đồng nào thì xào ngay đồng nấy. Trong này không biết dành dụm là chi cả. Bây giờ mới có người biết vá áo, biết nhặt rau, chứ trước thì dùng cái gì cũng là nguyên chất cả, hơi hỏng là ‘đổ bỏ’ không hề chữa chạy bao giờ... Ban ngày kiếm được bao nhiêu tiền đến tối xài cho kỳ hết, mai sẽ kiếm tiền nữa. Lo chi. Không lụt lội, không mất mùa, không thất nghiệp...”

Đợi khách. Ảnh: Bùi Minh Châu. Tạp chí Hội Việt Mỹ số xuân Ất Mão.

Bà chủ còn hướng dẫn ông khách: Phu xích lô ở Sài Gòn, ai hay bận quần “cộc” (quần ngắn) thì người ấy phải là người “ngoài ta” (tức là Bắc hay Trung vào làm việc). Người trong này hoang phí, cái gì cũng ra tiệm. Ăn bận toàn quần áo vải lụa mỏng tanh. Bà phàn nàn: “Đành rằng phải sạch sẽ nhưng đi gánh hàng rong mà vận hàng mỏng thì có phải là chóng rách, là phí không...” Người lao động trong này tiện là ngồi bệt xuống đất không sợ hư áo quần, rách là quăng đi may cái khác, hoang phí đến cả mồ hôi, vì có sẵn quần áo để thay... Họ sung sướng hơn anh chị em lao động ngoài Bắc, Trung...

Sài Gòn thu hút người chỗ khác đến vì “đức xài tiền”, nói như ông Đào Trinh Nhất, nhưng dân ngụ cư cũng chê bai nhiều về điều đó. Họ dặn con cái phải biết tiết kiệm, không được sống xả láng. Họ phàn nàn đồng hương của họ sau khi sống ở Sài Gòn một thời gian lại học cách sống trong này. Tuy vậy, mặt khác họ vẫn khoái cái tính thích ăn xài của người trong này. Tác giả bài viết trên báo Đời Mới thừa nhận rằng người ở xứ khác vào Sài Gòn kiếm tiền dễ do người dân thích bỏ tiền ra tiêu xài và xài rộng. Mình may cái áo đẹp, sửa cái xe ngon lành cho khách thì thế nào cũng được cho thêm tiền, đi làm bồi nhà hàng thì thỉnh thoảng có tiền pourboire. Khách hàng ăn đông nườm nượp, khách may mặc thì theo mode mới, nhất là quý bà không ngại bỏ tiền ra, nên mở dịch vụ ăn mặc thế nào cũng khá miễn là làm ăn cho đàng hoàng.

Ngày Tết thì dứt khoát ai cũng sắm sửa trong nhà, không có chuyện tiết kiệm nên ngày Tết doanh thu luôn tăng, năm nào khó khăn dù có giảm nhưng vẫn hơn ngày thường. Dân xứ này còn ưa cái mới và ham công nghệ mới, radio mới ra là mua ngay, xe gắn máy mới xuất hiện là muốn dùng. Cái gì cũng muốn thử, muốn tận hưởng, họ xài tiền, họ không chịu để dành. Mình nhạy thì mình làm ăn buôn bán với họ, mình mau giàu.

Lúc đầu người miền ngoài biết cách tranh thủ tính không cần kiệm của những người sống lâu đời ở đây, nhưng rồi chính họ rồi cũng thành cư dân lâu đời, cũng ăn xài mạnh, hầu bao mở ra ngày càng rộng và đến đời con, cháu thì chúng đã hội nhập thành dân bản địa, cũng thích xài to. Và người chỗ khác lại đến, lại hí hửng làm ăn vì “Dân ở đây ăn xài rộng quá” . Vòng xoay “đất cũ đãi người mới” tiếp tục không ngừng, từ bao năm nay trên đất Sài Gòn.

Những người trong giới trí thức, nghệ sĩ miền Bắc chuyển vào Sài Gòn ấp ủ bao nhiêu hoài bão để thực hiện ở quê hương mới. Tuy nhiên, dù có nổi tiếng thì họ cũng phải đối diện với bao khó khăn để hòa nhập vào đô thị mà họ sẽ sống lâu dài này. Báo Đời Mới năm 1954 đã làm một chuỗi phóng sự về “Hồi mới vào” của các văn nghệ sĩ, có nhiều chuyện cảm động đáng suy gẫm về những gì họ đã gặp.

Nhà văn Thượng Sỹ là một nhà văn nổi danh từ thời tiền chiến mà trong cuốn Bốn mươi năm nói láo , nhà văn Vũ Bằng thường nhắc tới. Gia đình ông vào Sài Gòn định cư chỉ có bốn người, gồm hai vợ chồng, đứa con nhỏ và chị giữ em. Tuy nhẹ gánh gia đình, lại có tên tuổi nổi tiếng là nhà phê bình văn chương, cả nhà ông cũng gặp những khó khăn ban đầu. Mới vào, ông bị lên cơn sốt rét và phải nằm bệnh viện Bình Dân. Vợ con ông và chị giúp việc kêu xe xích lô máy chạy vòng vòng Sài Gòn – Gia Định tìm bà con họ hàng. Tìm mãi không ra, thấy trời đã tối, anh xích lô máy bèn đề nghị về tạm nhà anh ở Vườn Lài. Tới nhà, anh liền gọi vợ: “Má bầy trẻ đâu, tôi đón được người làng cũ đây!”. Anh là người Bắc, lấy vợ Nam và đã lanh trí nhận “người làng” để thêm thân tình, mong vợ trọng đãi khách. Chị vợ chất phác, lăng xăng quét bộ ván cho ba vị khách nằm nghỉ, nấu nước châm trà và còn ra tiệm mua thêm 10 đồng thịt quay về đãi cơm khách nữa. Vợ anh xích lô trong lúc ăn cơm không ngần ngại hỏi: “Chẳng hay anh của chị mần nghề gì?”. Chưa hiểu “tiếng Sài Gòn” nên chị Thượng Sỹ ngồi yên, anh xích lô đáp thay: “Anh ấy làm nhật chình!” (Nhật trình: Cách gọi báo chí ở miền Nam trước đây). Chị vợ gật gù: “Ờ, tốt lắm. Có phải như các ông nhà báo ở Sài Gòn thường viết bài bênh vực nhà lá bị đuổi đất không?”. Chị vợ anh xích lô có thiện cảm ngay với vợ người làm báo mới quen. Sáng hôm sau, anh xích lô chở cả nhà vô bệnh viện thăm nhà văn. Ông Thượng Sỹ cảm động về câu chuyện này lắm. Vài ngày sau, ông khỏe lại nên cả nhà tiếp tục nhờ anh xích lô chở đi tìm bà con. Ông gặp một nhà văn quen biết, tá túc nhờ vài hôm. Một bữa, ra chợ mua đồ, vợ ông gặp một chị không quen, hỏi thăm qua lại thế nào mà chị nói ngay: “Thôi, chị cứ theo tôi về nhà ba má tôi. Chị nhận là bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu”. Cả nhà lại đến đó ở, một căn nhà lá rộng rãi ở đường Quang Trung, Gò Vấp, chia ra mấy gian nhỏ cho các con ở riêng. Ông bà chủ nhà đã lớn tuổi, còn làm việc được, chuyên nghề đúc ống cống xi măng. Ông bà nói ngay với khách lạ: “Thầy cô cứ ở đây với tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự nhiên nấu cơm mà ăn!”. Bà chủ còn nói là bà không lấy một xu nhỏ.

Gia đình Thượng Sỹ ở đó, không muốn lạm dụng lòng tốt của ông bà chủ nhà nên bà Thượng Sỹ xin tự lo ăn uống, chỉ ở nhờ thôi. Ông chủ nhà nói: “Cô Hai chớ nề hà. Con gái tôi nói cho tôi hay thầy Hai làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo, tôi thấy các ông nhà báo luôn luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có phải nhịn ăn mà giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”.

Sau này, nhà văn Thượng Sỹ nói với tác giả bài tường thuật: “... Tôi cứ tưởng xảy nhà ra thất nghiệp... nào ngờ tôi lại hai lần ‘sa’ vào hai cành gia đình lao động. Ấy cũng là tôi hái quả của một cây mà các anh vun bón cho tươi tốt...”. Ắt hẳn trong thâm tâm, ông còn biết rằng còn do tính hào hiệp của người Sài Gòn, luôn sẵn sàng giúp người gặp khó khăn. Như khi xưa cha ông họ chân ướt chân ráo đến thành phố này ắt đã được người ở đây giúp đỡ. Điều đó khiến ông có ý nghĩ: “Nếu được tiếp tục nghề cầm bút ở đây, tôi sẽ quyết dùng ngòi bút phục vụ cho đời sống người bình dân lao động...”. Quả đúng như vậy, chỉ một thời gian ngắn sau, ông tiếp tục đi làm tại một tờ báo chứ không dạy học như ý định ban đầu.

Nhà văn Tam Lang, tác giả phóng sự nổi tiếng Tôi kéo xe thời Pháp thuộc, khi vào miền Nam cũng ấp ủ nhiều mộng ước. Trước khi vào sống hẳn tại Sài Gòn, ông đã từng vào đây để tĩnh tâm viết hai vở chèo cổ, theo như bài viết trên báo Đời Mới. Viết xong, ông bay ra Bắc lập một gánh hát chèo. Theo tác giả Trương Thọ Phú, Tam Lang khi vào Nam vẫn muốn làm sống lại chèo cổ ở Sài Gòn. Ông nói: “Chèo cổ là âm thanh thuần túy của đất nước, không như tuồng cổ là điệu hát bắt chước điệu tuồng Tàu, cũng không như tân nhạc bắt chước điệu hát của Tây. Đây là thứ âm thanh đặc biệt Việt Nam...”. Đây là tâm huyết của vua phóng sự đất Bắc, mong phục hồi vốn văn hóa dân tộc trên vùng đất mới. Tuy nhiên, chuyện đó đã không thực hiện được như chúng ta đã thấy. Sài Gòn đã không đáp ứng được mong mỏi không còn hợp thời thế của ông, dù thành phố này phóng khoáng cởi mở đến cỡ nào. Cũng như trước kia ông đã không thực hiện được điều đó ở Hà Nội ngàn năm văn vật, khi ấy đang mê tân nhạc và... cải lương miền Nam.

Câu chuyện hội nhập vào cuộc sống Sài Gòn là một câu chuyện dài nhiều tập, nhiều chương. Trong đó, có nước mắt và nụ cười, có sự rộng rãi bao dung và cũng có cả những khắt khe, thiếu thông cảm và hiểu biết trong cư xử. Phản ứng với những khác biệt về tập quán, có những gia đình co cụm, bảo thủ và chỉ sinh hoạt, cưới gả trong cộng đồng nhỏ cùng hoàn cảnh. Tuy nhiên, qua thời gian và yêu cầu của cuộc sống một đô thị lớn, tính bảo thủ dần bị pha loãng, sự chấp nhận lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ và người ta tìm cách dung hòa những dị biệt, hợp lực với nhau xây dựng cuộc sống yên ổn và phát triển. Sự dung hòa đó đã tạo nên chất Sài Gòn, cá tính Sài Gòn ngày hôm nay.

Vượt qua những khó khăn hồi mới vào, cuộc sống của họ đã dần ổn định. Ảnh sưu tầm: Hoàng Việt.