Làng Lai Xá, Trùm Nghề Ảnh Sài Gòn
Cuối thế kỷ 19, bộ môn nhiếp ảnh theo chân các nhà nhiếp ảnh Pháp thâm nhập Việt Nam. Trong đó có ông Émile Gsell, người đầu tiên chụp ảnh Angkor cùng nhiều hình ảnh về đời sống Sài Gòn, Nam kỳ cũng như chân dung phụ nữ Việt ở Bắc kỳ. Sau ông Gsell, có ông Pun Lun người Hồng Kông có chi nhánh văn phòng nhiếp ảnh ở Sài Gòn, ông Aurélien Pestel, ông George Victor Planté. Tất cả các nhà nhiếp ảnh này đều là người nước ngoài, có điều kiện tiếp xúc với kỹ thuật nhiếp ảnh tiên tiến nhất của phương Tây. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chỉ trong thập niên đầu thế kỷ 20, cũng đã có một nhà nhiếp ảnh tiên phong người Việt mở rộng tầm hoạt động khắp ba kỳ, qua tới nước Pháp. Đó là ông Nguyễn Đình Khánh, được người làng gọi trân trọng là cụ Khánh Ký, lấy tên hiệu ảnh của ông. Việc tạo dựng ngành nhiếp ảnh và phát triển rộng ra nhiều nơi, từ quê gốc Lai Xá của ông, có mối liên quan rất lớn đến ngành nhiếp ảnh Sài Gòn từ thập niên 1930 và đến cả nhiều năm sau này.
Ông Nguyễn Đình Khánh sinh năm Giáp Tuất (1884), tên thật là Nguyễn Văn Xuân, người làng Lai Xá (trước thuộc Hà Đông, nay ở xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội). Ông học nghề ảnh từ năm 16 tuổi ở hiệu ảnh Du Chương của một người Hoa ở Hà Nội. Năm 1892, ông khai trương hiệu ảnh tại phố Hàng Da, Hà Nội, lấy tên là Khánh Ký. Sau đó, ông mở thêm các hiệu ảnh ở Nam Định năm 1905, Sài Gòn năm 1907 ở số 54 Boulevard Bonard (Lê Lợi). Theo Nguyễn Đức Hiệp, hiệu ảnh tại Sài Gòn cho đến năm 1934 mướn 27 nhân viên làm việc trong phòng chụp ảnh, phòng rửa hình, chấm sửa phim, ảnh và bán hàng. Hình do cơ sở ảnh của ông chụp có mang dấu ấn “Photo Khanh Ky Saigon”. Ông còn tiếp tục mở rộng nghề ảnh của mình sang tới thành phố Toulouse (năm 1910 – 1911) và trên đại lộ Malesherbes ở Paris (1911 – 1912) trong thời gian lánh nạn sau khi bị lộ do hoạt động yêu nước trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Khoảng thời gian này ông có quan hệ chặt chẽ với các nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Ái Quốc. Ông cũng là người dạy Nguyễn Ái Quốc nghề làm ảnh.
Thời gian hoạt động ở Sài Gòn của ông Khánh Ký là thời gian sôi nổi. Ông có chân trong Ủy ban tổ chức tang lễ cụ Phan Chu Trinh năm 1926. Bộ ảnh tang lễ cụ Phan do hiệu Khánh Ký thực hiện đến giờ vẫn còn có người lưu giữ là tư liệu rất quý. Bìa gốc của cuốn ảnh này ghi rõ: “Hình kỷ niệm đám tang ông Phan Châu Trinh, 12 Avril 1926 tại Sài Gòn. Những hình này của Công ty Khánh Ký số 54 đường Bonard Sài Gòn, không ai được họa lại để in hay là xuất bản lại” .
Khi mở các hiệu ảnh, ông Khánh Ký luôn quan tâm đến việc đào tạo thợ giúp việc làm ảnh cho người làng Lai Xá. Luôn có vài chục người trong mỗi cửa hàng Khánh Ký vừa học vừa làm nên đã sản sinh một đội ngũ đông đảo những người thợ làm ảnh. Từ đó, họ đi khắp nơi mở hiệu ảnh. Ông Khánh Ký đã có công rất lớn đào tạo và truyền nghề cho dân làng và làng Lai Xá vinh dự trở thành làng nghề nhiếp ảnh duy nhất tại Việt nam từ cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20.
“Hiệu ảnh Khánh Ký tạo cho mình phong cách chụp chân dung, ảnh thờ riêng – đó là chụp toàn thân, mặt hướng thẳng, ngồi ghế hai tay đặt trên đầu gối xòe đủ 10 ngón tay, rõ mặt rõ hình, trăm năm sau vẫn không phai ố, khiến con cháu suốt đời bày tỏ được tấm lòng hiếu nghĩa – thời đó còn gọi “kiểu chụp chân dung Khánh Ký.”
Ông cũng chụp ảnh cho Hội nghiên cứu Đông Dương (Société des études indochinoises). Một số ảnh của ông cũng có đăng trên báo Monde colonial illustré (1931), trong số đặc biệt nhân dịp Hội chợ triển lãm thuộc địa (Exposition coloniale, 1931) và số năm 1932. Trên báo L'Illustration số 4740, năm 1933 Le voyage de l'empereur d'Annam au Tonkin , ông có bộ ảnh phóng sự về chuyến viếng thăm của hoàng đế Bảo Đại ở Bắc kỳ.
Ở thành phố Sài Gòn đông dân và kinh tế phát triển nhất ba kỳ, người làng Lai Xá đã vào đây tạo dựng nghề ảnh và có thể nói đã nắm phần lớn ngành dịch vụ nhiếp ảnh ở thành phố này từ những năm đầu thế kỷ 20 và trong nhiều năm sau đó. Tính đến năm 2000, Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá đã thống kê được người gốc làng Lai Xá ở Sài Gòn có tới 114 hộ, 655 người, cả già, trẻ. Hơn 15 năm qua, số dân gốc Lai Xá ở Sài Gòn vẫn tiếp tục tăng. Không tính các hiệu ảnh của ông Khánh Ký thuở ban đầu, đã có khoảng 32 hiệu ảnh của người Lai Xá mở ra tại Sài Gòn từ thập niên 1930 – 1940 và hiện vẫn còn hoạt động 9 hiệu ảnh thống kê được (2016). Trong đó có hiệu ảnh mở ra và duy trì hoạt động 80 năm nay như hiệu ảnh Mỹ Lai tại ngã tư Phú Nhuận. Đó là chưa kể các hiệu ảnh của người Lai Xá ở Bến Tre, Mỹ Tho, Cà Mau...
Ông Đinh Tiến Mậu, chủ tiệm ảnh Viễn Kính, tác giả của nhiều bức ảnh nghệ sĩ Sài Gòn xưa tuyệt đẹp cũng là người gốc Lai Xá. Theo lời kể của ông, cách nay bảy mươi, tám mươi năm, làng Lai Xá còn có một nghề truyền thống nữa là nghề cắt tóc và người làng đi khắp nơi để mở tiệm giống như đối với nghề chụp ảnh. Bố ông Mậu là ông Đinh Văn Riệp đã cùng em trai và vài người cùng làng vào Sài Gòn khoảng những năm 1930 để mở hai tiệm cắt tóc trên đường Carabelli (nay là Nguyễn Thiệp), ở trung tâm thành phố.
Ông Đinh Tiến Mậu sinh năm 1935 ở Lai Xá, nhưng không theo nghề của bố. Nhà ông chỉ cách nhà ông Khánh Ký một con đường. Vì có người bà con là ông Giáp, mà ông gọi là ông cậu, đang làm ở tiệm ảnh Hợp Dung gần Bờ Hồ, Hà Nội, ông ra đó học nghề ảnh khoảng năm 1945. Khi chiến tranh mở rộng, ông vào Sài Gòn năm 1948, lúc mới 13 tuổi. Vào đây, ông tiếp tục học nghề ảnh ở tiệm ảnh Văn Vấn trên đường Duranton (nay là Bùi Thị Xuân, quận I). Bà Văn, vợ ông Vấn là dì ruột của ông. Trong suốt mười năm ở đó, ông học tất cả các khâu từ đơn giản nhất như vỗ ảnh, thay nước ảnh, phơi ảnh, vào bao, xách nước... theo kiểu nhìn thợ làm mà bắt chước. Làm hết các khâu từ chụp ảnh, tráng phim, rửa ảnh, chấm sửa... Đến năm 1958, ông thuê nhà mở tiệm riêng. Nhưng khi tiệm bắt đầu có khách lại bị chủ nhà lấy lại nhà, phải đi thuê nơi khác, lại mở tiệm, đến tiệm thứ tư mới đứng vững. Trong số đó, trụ lâu là tiệm King’s Photo ở 45 Ngô Quyền, Chợ Lớn trong suốt sáu năm. Tiệm cuối cùng của ông lấy tên là Viễn Kính, ở 277 Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) mở từ năm 1963, chuyên chụp ảnh cho các nghệ sĩ, nhiều người nổi tiếng. Sau mười năm mở tiệm này, đến 1973, ông mua hẳn căn nhà này. Lúc đó là thời điểm làm ăn phát đạt nhất. Đến khoảng năm 2004 thì đóng cửa. Ông Đinh Tiến Mậu đã tặng Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá một vật quý là cái dập dấu nổi tên tiệm. Cái dập dấu nổi này có lần đã dập chữ “Viễn Kính” lên 4.000 – 5.000 tấm ảnh chân dung của một nghệ sĩ, mà ông đặt tên là cái Teleobjective len.
Ông Nguyễn Hữu Quý (sinh 1932) kể rằng khoảng những năm 1930, ông Khánh Ký đưa 4 – 5 người Lai Xá vào Sài Gòn học và làm nghề ảnh, trong đó có bố của ông Quý là Nguyễn Hữu Quyền. Về sau bố của ông đứng ra mở một hiệu ảnh nhỏ ở Tân Định. Đó là hiệu ảnh Nguyễn Quyền. Đến năm 1950, khi ông Quý 18 tuổi thì được bố đón vào Sài Gòn để phụ giúp làm ảnh. Ông học làm ảnh ở đó ít năm thì tách ra làm riêng. Năm 1961, ông Quý làm thuê ở hiệu ảnh Văn Hoa photo của ông Văn Hoa cũng có gốc gác Lai Xá. Sau lại chuyển sang làm ở hiệu ảnh khác. Ông có thể làm tất cả các khâu trong nghề ảnh nhưng chuyên về tô màu. Ông nhận thấy khách rất thích ảnh tô màu nhưng treo lên một thời gian ngắn thì màu nhợt nhạt đi, không giữ được lâu, cho dù dùng màu của Mỹ, Pháp. Ông bèn nghĩ cách. Thấy sơn dầu của giới họa sĩ rất bền, tranh sơn dầu để hàng trăm năm, với sự sáng tạo và bí quyết riêng, ông thử dùng và đã thành công. Ông tô màu bằng tay, không dùng bút. Với chất màu sền sệt, khi tô ảnh lớn ông dùng cả bàn tay xoa, ngón tay trét, dùng bông gòn chấm vào màu rồi tô. Dùng màu dầu thì màu sắc khá phong phú, muốn màu gì cũng có, khác với màu nước. Ông nhận tô ảnh lớn các nghệ sĩ treo trước cửa nhà hát cải lương Kim Chung, mỗi bức cao 1m đến 1,2m, rộng 0,8m. Lúc đó, cả Sài Gòn chỉ có mình ông Quý tô màu cách này, rất đắt khách, nhận cả ảnh từ các hiệu khác đưa đến. Nhờ kỹ thuật này, ông Quý được giải nhất về ảnh tô màu trong một cuộc triển lãm ảnh của nghiệp đoàn các chủ hiệu ảnh thời đó, hơn 20 tiệm. Lúc đó, ông Quý còn đang làm cho tiệm Văn Hoa. Ông Văn Hoa mang ba ảnh tô màu dầu của ông Quý đi thi. Ông nghe nói được chấm cả ba ảnh được giải nhất, nhì, ba nhưng ông Văn Hoa chỉ lấy giải nhất, nhường các tiệm khác giải nhì, ba cho vui. Đến giờ, còn sót lại vài tấm ảnh tô màu của thời đó là những bức ảnh gia đình hiệu ảnh Ngọc Chương đường Lý Chính Thắng, bức chân dung tô màu dầu vị chủ hiệu ảnh Mỹ Lai là ông Nguyễn Văn Đoàn, đang được lưu giữ trong gia đình.
Riêng ông Đinh Bá Trung, tuy hành nghề ảnh ở Bến Tre nhưng từng đoạt nhiều giải thưởng ảnh ở Sài Gòn và một số giải quốc tế. Ông không chỉ là thợ ảnh, mà là một nghệ sĩ nhiếp ảnh thực thụ. Sở trường của ông là sáng tác ảnh có hình tượng nghệ thuật là các loài động vật, như bầy dê, bầy voi, đàn mèo... và ảnh chân dung. Ông đã được Đệ nhất huy chương của hãng Guilleminot trong cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật của Nghiệp đoàn các chủ hiệu ảnh tại Sài Gòn năm 1960, giải nhì và huy chương Vàng cuộc thi ảnh Danh lam thắng cảnh Việt Nam tại Sài Gòn 1959... cùng một số giải thưởng ảnh quốc tế tại Pháp, Úc, Ý, Tây Đức, Anh.
Cụ Nguyễn Văn Kiêm, sinh năm 1924, vốn là một thợ ảnh chuyên về chấm sửa ảnh và chụp ảnh. Năm 1940, khi 16 tuổi, ông được chú ruột là ông Hảo Hoãn đưa vào Sài Gòn cho học nghề và làm nghề ảnh ở hiệu Chấn Hưng của mình. Ông Hảo Hoãn từng theo học nghề ảnh với cụ Khánh Ký ở hiệu ảnh Bonard (Sài Gòn). Cậu của ông Kiêm là ông Phạm Văn Hựu cũng vào Sài Gòn học nghề ở hiệu ảnh Vĩnh Ký rồi quay về mở hiệu ảnh ở Hà Đông. Vì là con một nên năm 1942 ông Kiêm phải quay trở về Lai Xá cưới vợ. Cưới xong ông trở lại Sài Gòn làm việc cho đến năm 1946 thì trở ra Bắc.
Anh Đức Vượng, con ông Viên Đoàn chủ hiệu ảnh Mỹ Lai tại ngã tư Phú Nhuận cho biết từ “Lai” trong tên hiệu ảnh Mỹ Lai là từ tắt của quê hương Lai Xá. Ông nội của anh người làng Lai Xá, xưa kia cũng làm ảnh nhưng mất sớm. Bố anh là Nguyễn Văn Đoàn, đi học nghề ảnh với cụ Khánh Ký. Khi lớn lên, ông Nguyễn Văn Đoàn cùng một số đông thanh niên Lai Xá theo cụ vào Sài Gòn làm ăn. Lúc đó, ông được gọi là Viên Đoàn vì cô con cả của ông tên là Viên (phong tục miền Bắc xưa, gọi tên cha có ghép tên con lớn đằng trước).
Năm 1936, ông Viên Đoàn mở hiệu ảnh tại đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng), gần chợ Tân Định. Sau đó, ông mở tiếp hiệu ảnh thứ hai, lấy tên Mỹ Lai tại số 48 đường Bonard (Lê Lợi). Ông giao tiệm ảnh đầu tiên ở đường Paul Blanchy cho người em là Nguyễn Văn Đạt. Sau ông Đạt hoạt động bí mật in ảnh Hồ Chí Minh, lộ chuyện nên bị bắt đi tù ở Phú Quốc. Tiệm ảnh đường Hai Bà Trưng đóng cửa. Ra tù, ông Đạt mở tiệm ảnh tại Vũng Tàu. Còn ông Viên Đoàn, năm 1973 đang làm ăn ở đường Lê Lợi thì bị lấy lại nhà không cho thuê nữa. Ông về ngã tư Phú Nhuận, mở tiệm cũng lấy tên Mỹ Lai trên đường Võ Di Nguy (nay là Phan Đình Phùng). Trải qua bao biến động xã hội, gia đình ông Viên Đoàn vẫn duy trì nghề ảnh ở tiệm này suốt 80 năm hành nghề ảnh ở Sài Gòn không đứt đoạn đến tận ngày nay.
Nhân viên tiệm ảnh Khánh Ký ở Sài Gòn chụp chung năm 1924. Cụ Khánh Ký là người có ria, thắt cravate, đứng giữa cổng.
Tấm ảnh chung ngày Đại hội hội tương tế Lai Xá ở Sài Gòn năm 1971.
Làm ảnh cùng với cha từ nhỏ, anh Vượng hiểu nhiều về các kỹ thuật chụp và làm ảnh thủ công. Trong các kỹ thuật làm ảnh truyền thống, anh Đức Vượng ấn tượng nhất là kỹ thuật làm láng ảnh vì rất công phu. Thời trước, giấy ảnh nhập về làm cho khách có ba loại: giấy nhung (sần nhẹ) thường dùng làm ảnh chân dung loại lớn. Loại thứ hai là giấy mat (mặt lì) và giấy láng. Trước khi người Mỹ vào Việt Nam, người ta dùng nhiều giấy ảnh nhung nhưng sau đó phong trào dùng giấy láng thịnh hành vì bóng bẩy hơn, nhìn ảnh sâu hơn. Giấy làm ảnh vốn không bóng láng. Để có bề mặt ảnh bóng láng, giấy ảnh phải được ép vào kính, sau đó qua các bước xử lý. Việc quan trọng nhất là phải có một tấm kính đồ nghề. Đây không phải là tấm kính thông thường mua ở tiệm về là dùng được mà phải “luyện” nó. Trước hết, chọn tấm kính dày từ 8 đến 10mm khổ 45x80cm, phẳng phiu, làm sạch bằng nước xà phòng cho sạch bụi và các vết ố dính trên đó. Sau đó, dùng cồn lau sạch, lấy dầu lửa và vải sạch lau thật kỹ hai mặt kính để làm sạch (gọi là “thuộc kính”). Tiếp tục dùng bột phấn mịn talc xoa lên rồi dùng khăn vải xoay vòng tròn cho thật láng để bảo đảm không bị vết ố hoặc sọc bẩn. Lớp phấn này còn giúp lấp hết các vết rỗ li ti trên mặt kính. Kính làm xong, phủ vải sạch đặt trong kệ có nhiều ngăn dành riêng, đậy kỹ để tránh bụi. Mỗi tiệm thường để sẵn khoảng 6,7 tấm kính như vậy để làm hàng cho khách.
Một bức ảnh sử dụng kỹ thuật ghép ảnh: Trong ảnh thực ra chỉ có bốn người nhưng được ông Đinh Tiến Mậu ghép khéo léo biến thành 7 người. Ông Mậu ngồi giữa. Chụp và xử lý ở tiệm ảnh King’s photo đường Ngô Quyền, quận 5. Tư liệu: Đinh Tiến Mậu.
Kính đã “thuộc” cũng chưa dùng được. Giấy ảnh sau khi làm sạch hóa chất trên mặt ảnh còn ướt đem áp vào mặt kính, phủ vải lên và gạt kỹ cho hết nước, không để lọt khoảng không li ti “bong bóng nước” nào giữa mặt giấy và mặt kính. Với những tấm kính mới “thuộc” lần đầu, ảnh sẽ khó tróc trọn vẹn mà còn dính lại mặt kính. Khi đó lại phải lau sạch mặt kính theo quy trình như cũ cho đến khi ảnh tróc hoàn toàn không dính lại mặt kính.
Giấy ảnh sau khi áp vào tấm kính sẽ được để tự nhiên cho khô, với cách này mặt ảnh sẽ láng bóng, đẹp nhất. Nếu gấp thì đem ra phơi nắng, nhưng sẽ không bóng bằng. Đến khi người Mỹ vào, công nghệ mới xuất hiện, giới nhập cảng đưa về thiết bị làm láng giấy ảnh là một tấm plaque bằng nhôm mạ niken. Ảnh được ngâm trong một dung môi như dầu để khi áp hình vào mặt phẳng của tấm kim loại sẽ không dính lại tăng độ bóng. Hình sau khi sắp trên mặt tấm plaque, được ép gài chặt vào thiết bị rồi dùng trục lăn, lăn cho ra hết nước rồi bỏ vào máy sấy. Từ khi có máy làm láng này, nhiều tiệm ảnh ở Sài Gòn trang bị thêm nhưng vẫn dùng cùng với loại kính truyền thống. Lý do là tấm kính làm láng đẹp hơn lại có khổ to trong khi máy làm láng chỉ có khổ nhỏ. Những tiệm ảnh rửa hàng loạt lên tới cả ngàn tấm (như tiệm Viễn Kính của ông Đinh Tiến Mậu có lúc rửa tới mấy ngàn tấm ảnh chân dung nghệ sĩ) thì dùng máy làm láng tiện hơn vì rất nhanh.
Theo cụ Phạm Đăng Hưng, có ba bước chỉnh sửa, chấm sửa ảnh.
Bước một: Làm sạch ảnh. Xem ảnh in có bụi, vết xước không, nhất là xước do phim. Bước này làm sạch các vết bẩn trên ảnh tức là làm sạch ảnh.
Bước hai: Làm đẹp ảnh. Chấm sửa thẳng vào mặt, chân tay như xóa các tàn nhang, trứng cá, gân guốc, vết nhám, sửa cho da mịn màng. Chỉnh sửa trang phục. Sửa nhưng làm sao vẫn giữ được nét tự nhiên, không được làm khác; chỉnh sửa nhưng vẫn phải làm cho giống như thật. Chụp cũng như sửa ảnh quan trọng là phải làm cho nổi hình khối, dùng ánh sáng làm nổi cơ mặt cho có chỗ cao, chỗ thấp.
Bước ba: Làm theo yêu cầu. Bước này thợ ảnh chỉ làm theo yêu cầu của khách. Đó là công việc chỉnh sửa nắn sống mũi cho cao hơn; mắt cho mở to, tròn; từ mắt một mí tạo hai mí; kẻ lông mi cong, dài; tạo cằm bạnh, làm mặt trái xoan; ngực lép thành ngực nổi cỡ nào cũng được, có thể cho ngực như hai quả bưởi; bụng không eo thì làm chiết eo...
Cụ Hưng cho biết đã sửa tạo nhiều bức ảnh phụ nữ in lịch nổi rõ ba vòng mà thực tế thì không như thế. Quan trọng là sửa ảnh thế nào mà khách hàng, người xem không biết là mình sửa ảnh.
Bên cạnh kỹ thuật chấm sửa trên ảnh, anh Đức Vượng cho biết chấm sửa phim cũng là kỹ thuật quan trọng. Phim được chỉnh sửa trên mặt trái (mặt có thuốc) của phim, bút chì Gilbert độ mịn 2B là đẹp nhất vì mềm mại, dễ ăn phim. Trước khi sửa dùng dầu thông pha với cồn 90 độ loãng thoa lên mặt phim để dễ ăn chì. Người thợ phải chỉnh sửa nhẹ tay, đi đường chì làm sao cho hài hòa. Kỹ thuật này làm gò má bớt cao, sạch mụn, vết nhăn và cả vết rỗ cũng được sửa cho da mặt mịn màng. Người mở hiệu ảnh phải rành rẽ cả hai kỹ thuật trên vì phóng ảnh lớn, nhất là ảnh chân dung luôn cần chỉnh sửa rất nhiều từ chấm bụi cho đến thay đổi cả đường nét trên mặt mũi, cơ thể. Anh Đức Vượng nói vui: Tìm vợ tìm chồng mà xem qua ảnh là lầm chết vì nhìn ảnh luôn đẹp lung linh. Sau này, kỹ thuật photoshop đã thay thế hoàn toàn.
Về phim chụp ảnh, ông Viên Đoàn hay kể cho các con nghe là khoảng từ thập niên 1930 đến 1950 dùng phim bằng kính của hãng Lumière và phim nhựa của hãng Guilleminot. Thập niên 1960 các hãng Agfa Gevaert, Sakura, Fuji dần thay thế. Tới thời điểm đó vẫn chỉ có ảnh đen trắng, ai thích màu thì nhờ thợ tô màu lên ảnh. Từ khoảng 1966, sau khi người Mỹ vào, phim màu của hãng Kodak mới thống trị.
Sau này, đến đầu thập niên 1990, cùng với sự phát triển ảnh màu và công nghệ kỹ thuật số, Mỹ Lai là một trong những tiệm ảnh còn lại của người Lai Xá nhanh chóng ứng dụng công đoạn làm ảnh bằng máy tự động lab đầu tiên ở Sài Gòn.
CÁC HIỆU ẢNH GỐC LAI XÁ Ở SÀI GÒN (ĐẾN 2016)
Các hiệu ảnh vẫn còn hoạt động:
1. Hiệu ảnh Ngọc Chương (ông Phạm Ngọc Chương) Trần Quang Khải, quận I.
2. Hiệu ảnh Phạm Quý (em ông Cả Sách).
3. Hiệu ảnh Tân Tiến: của ông Cả Sách, gần chợ Hòa Hưng đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10.
4. Hiệu ảnh Kim Anh: của ông Kim Cừ, quận 10 (gần hiệu ảnh Tân Tiến).
5. Hiệu ảnh Mỹ Lai: của ông Viên Đoàn, trước ở 48 Lê Lợi, quận I (sau về mở tiệm tại ngã tư Phú Nhuận).
6. Hiệu ảnh Trúc Lan: cháu cụ Lẫm, góc đường Cống Quỳnh – Nguyễn Cư Trinh, quận I.
7. Hiệu ảnh Xuân Hoa: ông Bẩy Củng, ở đường Cống Quỳnh, quận I (Gần trường Nghệ thuật Sân khấu II).
8. Hiệu ảnh Nguyễn Tiếp: con ông Nguyễn Văn Tiếp, ở đường Trần Hưng Đạo, quận I (đã dời vào trong hẻm, đối diện với tiệm cũ).
9. Hiệu ảnh Nguyễn Ngọc: con anh Ngọc, cháu ông Nguyễn Văn Chình.
Các hiệu ảnh đã đóng cửa:
1. Hiệu ảnh Viễn Kính: ông Đinh Tiến Mậu, Nguyễn Đình Chiểu, quận 3.
2. Hiệu ảnh Nguyễn Quyền: ông Nguyễn Hữu Quyền.
3. Hiệu ảnh Nam Hưng: ông Tám Xã, đường Võ Thị Sáu, quận 3.
4. Hiệu ảnh Nguyễn Luyện: ông Nguyễn Doãn Luyện, đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 3.
5. Hiệu ảnh Mỹ Lai: đường Hai Bà Trưng, quận 3, ngưng hoạt động từ 1954.
6. Hiệu ảnh Muôn Màu: ông Nên, em bà Hai Sự và là em họ ông Đinh Tiến Mậu, ở đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3.
7. Hiệu ảnh Vân Hồng: ông Thông Vít, đường Trần Quang Khải, quận I.
8. Hiệu ảnh Văn Vấn: ông Vấn Bốc, đường Bùi Thị Xuân, quận I.
9. Hiệu ảnh Thiên Nhiên: của ông bà Nguyễn Duy Nhiên, đường Điện Biên Phủ, quận 10.
10. Hiệu ảnh Tân Minh: ông Tú Rỡ, đường Phan Đình Phùng, quận Phú Nhuận.
11. Hiệu ảnh Đình Kiến: ông Đình Kiến, em ông Cả Chước, đường Nguyễn Trãi, quận 5.
12. Hiệu ảnh Văn Hoa: ông Văn Hoa, Hai Trúc, đường Hai Bà Trưng, Tân Định, quận I.
13. Hiệu ảnh Tân Hoa: Năm Trúc, đường Nguyễn Tất Thành, khu Khánh Hội, quận 4.
14. Hiệu ảnh của ông Đinh Văn Thực: đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 3.
15. Hiệu ảnh Xuân: cụ Nguyễn Tư Rỡ, đường Cống Quỳnh, quận I.
16. Hiệu ảnh Thành Mỹ: ông Kỳ, em ông Lư Hương, đường Lê Văn Sỹ, trước cửa chợ Trương Minh Giảng, quận 3.
17. Hiệu ảnh Huệ Quý: ông Quý Vấn, đường Cách Mạng Tháng Tám, quận Tân Bình (gần ngã tư Bảy Hiền).
18. Hiệu ảnh Tân Quý: ông Cả Phúc Biên, đường Điện Biên Phủ, quận 3 (gần bệnh viện Bình Dân).
19. Hiệu ảnh Nguyễn Hảo: ông Cả Hảo Dom, đường Hòa Hưng, quận 10.
20. Hiệu ảnh Chấn Hưng: ông Hảo Hoãn, đường Nguyễn Công Trứ, quận I.
21. Hiệu ảnh Lẫm: cụ Lẫm, ở khu Chợ Lớn, quận 5.
22. Hiệu ảnh Nguyễn Trọng: ông Trọng, con cụ Đồng Cai, đường Điện Biên Phủ, quận 10.
23. Hiệu ảnh Thịnh Ký: ông Bốn De, đường Hai Bà Trưng, quận 3.
Ở Bến Tre cũng có hai hiệu ảnh của người Lai Xá nhưng đã đóng cửa. Đó là hiệu ảnh Đinh Bá Trung và hiệu ảnh Nguyễn Phổ của ông Cả Phổ.
Ở Vũng Tàu: hiệu ảnh Tia Sáng của ông Nguyễn Văn Đạt, đóng cửa thập niên 1980.
Ở Đà Lạt, hiệu ảnh Văn Hoa do con ông Văn Hoa ở Sài Gòn làm chủ. Tiệm này có thể còn hoạt động.
(Theo Bảo tàng Lai Xá, có sự bổ sung của ông Đinh Tiến Mậu và ông Đức Vượng)