Đường Xưa
Trương Tấn Bửu là một con đường ngắn của Sài Gòn – Gia Định xưa, từng có tên Capitaine Faucon, nay là đường Trần Huy Liệu. Nó chỉ dài khoảng bảy trăm mét, từ nhà thờ Nam đầu đường Võ Tánh (Hoàng Văn Thụ) cho đến đường Nguyễn Huỳnh Đức, nay là Huỳnh Văn Bánh, thuộc tỉnh Gia Định. Qua bên kia, nó trở thành đường Trần Quang Diệu thuộc đô thành Sài Gòn. Con đường lề rộng, thanh lịch vì nhà cửa hai bên ngay ngắn, tuy vậy không mấy ai nhớ đến vì nó không có hàng quán nào nổi bật ngoài một xe bán bò viên đông khách đoạn giữa đường, cũng không có rạp hát, tiệm may nào danh tiếng. Sau nhờ có một số nhà cho thuê bán sách cũ, nó trở thành đường sách cũ Trần Huy Liệu, lấy theo tên đường mới. Nhà tôi ở trong xóm phía sau nhà thờ Nam, có con ngõ dẫn ra khu bán sách cũ. Tôi sống trong xóm này từ rất lâu nhưng không mấy khi ra mua sách ở đó.
Con đường đơn sơ này là nơi chứa đầy những kỷ niệm, và cả những chuyện kỳ lạ tôi biết trong đời. Luôn luôn khi có dịp đi trên lề đường rộng của con đường nhỏ này, tôi có lúc như một nhân vật hoạt hình, thu nhỏ lại, bận quần soọc nhảy chân sáo trên đường. Như để trở về những ngày hè, những cái Tết đầu thập niên 1970.
Nhà thờ Nam, ngôi nhà thờ xây đơn giản, có ông cha xứ mập mạp và khá nghiêm khắc với đám con nít nay đã mất. Trong khuôn viên nhà thờ, sát hang đá và tượng Chúa, có một cái hồ bé xíu xây bằng xi măng hình dáng nước Việt Nam chữ S. Nước hồ xanh thẫm, tù đọng lâu năm không lối thoát, thành hồ phủ rêu. Bạn trong xóm tôi, tên là Công, ra đó chơi, leo xuống hồ bắt nòng nọc. Nó bị đạp trúng vật gì đó dưới hồ, đứt chân chảy máu. Một thời gian sau, đang ngồi ăn cháo huyết trong xóm, nó bị cứng hàm, người cong lên. Ba nó vội đưa vào bệnh viện và bác sĩ xác định Công bị nhiễm vi trùng uốn ván, hay còn gọi là phong đòn gánh, người cong như cái đòn gánh. Thủ phạm là mảnh chai hay mảnh sắt nào đó dưới cái hồ tù đọng. Chỉ chậm độ nửa tiếng đến bệnh viện, nó sẽ đi đứt, bác sĩ bảo vậy. Công may mắn thoát chết. Sau này khi có tuổi, thỉnh thoảng gặp nhau, hai đứa vẫn nhắc lại chuyện này. Trước đó không lâu, anh Hạnh, người anh mà nó rất thương yêu đi lính người nhái quân đội Sài Gòn, bị chết sau một trận đụng độ dưới lòng sông gần cảng Sài Gòn. Nó gào khóc trước mặt tôi. Tôi nhớ mình đã lúng túng an ủi bạn bằng những lời ngô nghê của đứa con nít mười hai tuổi. Công bây giờ gầy nhom, hói đầu và sống ở Bỉ.
Bao bọc khuôn viên nhà thờ là một bức tường dài chạy từ đường Võ Tánh vòng qua Trương Tấn Bửu. Phía mặt tường đường Trương Tấn Bửu là bến xe taxi, luôn thoang thoảng mùi nước tiểu. Tôi còn nhớ cảm giác những buổi chiều Chủ nhật, tắm rửa sạch sẽ, thay áo mới đi cùng anh chị lên taxi ra trung tâm Sài Gòn “bát phố Bô-na”. Taxi đầu thập niên 1970 không có máy lạnh, trời chiều mùa hè còn nóng nhưng khi ngồi trong lòng ông anh, có điều gì đó êm đềm dễ chịu khi mới tắm mát, mùi xà bông thơm Cadum tỏa ra từ trên tóc, trên người trong khoảng không chật hẹp của chiếc xe. Bên kia đường, thỉnh thoảng thấy ca sĩ Thanh Phong đứng tán gẫu với mấy người bạn gần sạp báo bên dãy chung cư Ngân hàng đối diện nhà thờ Nam.
Khoảng giữa chung cư có một con hẻm xuyên qua dưới một căn hộ, đi thẳng vào khu chợ Lò Đúc. Hẻm này được gọi là hẻm Hẹn Hò, cái tên nghe rất gợi cảm. Dân cư trong hẻm toàn khá giả, thỉnh thoảng họ mở khiêu vũ trong nhà vào những đêm Noel, tết Tây. Vẫn thường có những thanh niên bận áo chemise phanh ngực, tóc dài đi ra từ hẻm. Họ là đồ đệ của phong trào hippy thời đó.
Bên này đường, qua nhà thờ Nam là đến đầu hẻm nhà tôi, đi tiếp đến quán cà phê Trúc Giang. Hồi còn nhỏ, buổi sáng đi ngang qua tôi thường hít cho sâu mùi cà phê thoảng ra và thèm thuồng nhìn mấy cái bánh pâté chaud đặt trên dĩa bày ngoài bàn. Quán bày hai cái bàn phía ngoài ban công để khách ngồi ngó ra. Mấy anh thanh niên dáng lịch sự nhàn tản ngồi giở mấy tờ báo khổ to như Đại Dân Tộc, Điện Tín... Mấy chục năm sau, anh thanh niên có đôi mắt nheo như Richard Gere luôn ngồi phía sau ban công hồi xưa, đi ngang qua ngõ nhà tôi, rõ là già đi nhưng mái tóc bạc vẫn bồng bềnh và đôi mắt nheo như hồi xưa.
Cách quán cà phê vài căn là nhà của Huân, đứa bạn tôi hay đánh bóng bàn cùng. Nó trắng trẻo, môi dày và là con nhà giàu. Những lúc đi đánh bóng bàn, Huân hay kể đi kể lại chuyện hồi tháng 4 năm 1975, khoảng ngày 28 tháng 4, cả lớp nó kiểm tra một môn học. Hôm đó nó không làm bài được khi cả lớp đã nộp bài gần hết. Gần trường của Huân xảy ra một vụ nổ, thầy trò hốt hoảng chạy ra ngoài. Huân lập tức nhảy phóc lên bàn thầy, nhìn quanh quất không có ai liền vội xé nát toàn bộ mớ bài tập cả lớp vừa nộp xong rồi biến ngay. Anh bạn láu lỉnh này đã đi Mỹ sống từ lâu, không thấy trở về lần nào gần bốn chục năm qua.
Những năm 1969 – 1970, mỗi buổi sáng tôi thường đi bộ ra đầu ngõ, đứng trên cái nắp cống lớn kê cao, đợi dượng Út chở dì Út đến đón tôi đi học trên chiếc xe vespa có cái mui bè ra màu xanh biển hơi xám. Tôi được đứng phía trước, sung sướng hứng làn gió mát. Dượng Út hay cười rổn rảng, vui tính và chiều vợ, nên vui vẻ dễ chịu với cháu của dì. Trưa học xong, tôi phải đi bộ về. Có lần, má tôi băng qua đường sang chợ Ga thì bị xe tông, may là té văng ra ngoài, sợ quá xỉu luôn. Hàng xóm chạy về loan tin má tôi bị xe đụng chết khiến cả nhà hoảng loạn. May sao má không bị gì cả, nhưng từ đó khi băng qua đường, tôi thấy sợ. Lúc đó, xe vận tải Mỹ đã nhập vào miền Nam với nhiều chiếc rất lớn. Đã có người chết vì bị xe cán nằm dài trên đường Võ Tánh và xuất hiện câu thề: “Nói sai, tao bị xe nhà binh 18 bánh cán chết!”. Đi học về phải băng qua đường Trương Tấn Bửu, tôi nhớ chuyện má tôi đụng xe nên đứng cà rà mất nhiều phút. Ông chủ tiệm tạp hóa Thụy Linh, nói giọng Bắc và gương mặt rất trí thức thấy vậy bước ra dắt tôi qua đường. Chỉ có vậy mà tôi nhớ ông tới giờ.
Một cửa tiệm trên đường Trương Tấn Bửu năm 1970, nay là Trần Huy Liệu, Phú Nhuận.
Ảnh: Jerry Bosworth.
Đối diện tạp hóa Thụy Linh, có một tiệm bán phụ tùng xe đạp tên là Tam Hà, chủ nhân cũng là người Bắc di cư. Dọc theo con đường này khá nhiều nhà gốc miền Bắc vào Nam năm 1954, mở tiệm tạp hóa, dụng cụ học sinh, bán phụ tùng xe đạp, bánh và cà phê, trà.
Có một buổi tối năm 1978, tôi đi qua cửa hàng Tam Hà, thuộc diện tư sản thương nghiệp. Tôi thấy có mấy anh thanh niên trải chiếu ngủ trước nhà. Bên trong nhà, đèn điện tù mù. Cô con gái của chủ nhà đi qua lại như một cái bóng, im lặng và nhẫn nhục. Đó là những người quen thuộc, tôi thường gặp mỗi khi cùng ông anh ra mua phụ tùng xe đạp. Họ bán đúng giá nên không ai trả giá, không bán đồ dỏm từ Chợ Lớn đưa về và thường giới thiệu cho khách những loại phụ tùng tốt từ Pháp mới nhập qua. Sau đó, họ đi đâu không ai biết, lên khu kinh tế mới hay đã đi ra nước ngoài. Tôi không bao giờ gặp lại họ nữa.
Hồi nhà tôi mới về khu này, phía bên kia, góc đường Trương Tấn Bửu – Võ Tánh (nay là Trần Huy Liệu) là sân tập bóng đá. Nghe nói từ năm 1930, làng Phú Nhuận cũng thành lập một đội bóng lấy tên là Union Sportive để tranh tài với các đội nổi tiếng khác của Sài Gòn. Người sáng lập là ông Sáu Ngai và ông Chín Huệ, cầu thủ đa số là công tư chức. Đội này đá không giỏi, nhưng cũng là niềm kiêu hãnh của làng ven đô này. Thỉnh thoảng người ta thả dê ra gặm cỏ, thơ thẩn trên những vạt đất mà trước đây, có nhiều nghi phạm bị lính Pháp bắt đứng đó, chỉ cần những tên chỉ điểm gật đầu xác định họ theo Việt Minh là bắn chết tại chỗ. Dãy nhà bên này đường có mấy căn nhà phố mà dì Út tôi bảo khi còn nhỏ có thấy ông Cả Đành, tức ông Louis Vidal, hương cả làng Phú Nhuận đi thu tiền thuê nhà hằng tháng. Đến thời tôi lớn lên, sau 1975, thường ghé nhà cô bạn có đôi mắt đen thẳm để cùng tập văn nghệ theo tiếng đờn mandoline của cô. Bây giờ cô đã yên nghỉ trong một ngôi chùa giữa nhang khói và tiếng kinh kệ.
Đường Trương Tấn Bửu, chỉ là một khúc đường nhỏ thôi mà đầy ắp ký ức. Lạ sao, tôi lại nhớ toàn những điều không vui, những người bạn không còn thấy lại, những chuyện làm mình ray rứt thỉnh thoảng lại thoáng qua trong trí nhớ đã đầy ăm ắp.