Nhà Có Cánh, Trong Rừng
Khu rừng đây thực ra là khu nhà tôle của trường trung học Nguyễn Thượng Hiền thuộc quận Tân Bình, góc ngã tư Bảy Hiền hiện nay. Cách nay hơn bốn mươi năm, từ năm 1973, ngôi trường danh tiếng này có hai khu lớp học. Khu lớp nhà lầu ở sát cổng chính đường Cách Mạng Tháng Tám ngày nay, có sẵn từ khi trường mang tên cũ là Tân Bình. Khu thứ hai là “khu nhà tôle”, vốn là trại lính Đại Hàn rút đi được giao cho nhà trường mở rộng thêm một số lớp. Khu nhà tôle nằm sâu phía sau trường, phía gần đường Lê Bình bây giờ, có nhiều cây cối, được những đôi mắt học trò mơ mộng coi như một khoảnh rừng nhỏ. “Khu rừng” này nay đã biến mất, nhưng dấu ấn của nó không phai mờ với lũ học sinh hồi đó, giờ đang ở lứa tuổi năm sáu mươi sống rải rác trong và ngoài nước.
Bạn bè tôi sống quanh khu Ông Tạ nghe người lớn kể rằng trước năm 1973, lực lượng quân nhân Đại Hàn (nay gọi là Hàn Quốc) thiết kế khu nhà tôle này làm nơi nghỉ dưỡng sau những cuộc hành quân. Khu này như một khóm rừng nhỏ xíu với cây cổ thụ gốc to, đa số là phượng vỹ và điệp vàng. Cuối khoảnh đất có một con mương thoát nước lớn dẫn ra kênh. Họ xây giữa những cây cổ thụ một số nhà tiền chế bằng kim loại, sơn màu xám nhạt có các cánh cửa sổ mở ra bằng những thanh chống và được sập lại khi trời mưa. Quanh mỗi nhà có đào hào thoát nước dẫn ra mương. Các ngôi nhà nối nhau bằng những đường đi lát tấm dalle đúc sẵn, đi giữa những vạt cỏ xanh. Mùa mưa, tiếng mưa ầm ầm trên mái tôle. Mưa tạnh thì quanh nhà có tiếng nước chảy róc rách giữa các mương nước, tiếng tí tách nhỏ giọt từ lá cây xuống mái tôle. Mùa khô, cây lá chan hòa xôn xao trong gió nắng. Trại lính giống như một khu cắm trại dành cho thanh niên, cây cối làm nhẹ đi tiếng xa ồn ào phía ngoài đường Nguyễn Văn Thoại (Hoàng Văn Thụ), gần ngã tư Bảy Hiền.
Chỗ cổng phụ nhìn sang bên kia đường Nguyễn Văn Thoại, khu nhà triển lãm hiện giờ, có người bạn xác định đó là một nghĩa trang. Năm 1988, anh cùng vài người trong cơ quan đến xem giải tỏa nghĩa trang đó và thấy người ta lấy lên nhiều hài cốt, còn một ít mảnh trang phục lính Pháp kiểu xưa, súng dài gần bằng người họ. Một người chỉ huy đội giải tỏa bảo rằng nghĩa trang này của lính lê dương, thời thuộc địa.
Có người kể rằng ngã tư Bảy Hiền xưa kia, từ thời nhà Nguyễn, là đồn điền của một người tên Hiền, thứ bảy. Trong Chiến tranh thế giới thứ II, khu vực này có một trại lính Nhật. Nếu những lời đồn này đúng, phải chăng trại lính Đại Hàn sau này là khu lớp học nhà tôle thuộc trường Nguyễn Thượng Hiền, cũng là trại lính của Nhật ngày xưa dựng nên trong vùng đồn điền của ông Bảy Hiền, với dấu tích còn lại là những cây cổ thụ cả trăm năm tuổi?
Bạn Nguyễn Văn Luận kể với tôi, thỉnh thoảng khi ngủ trong ngôi nhà ở Blue Bell, bang Pennsylvania, trong giấc mơ của anh vẫn hiện ra khu nhà tôle và cái trại chăn nuôi nằm ở phía sau khu đó, nơi có căn nhà cũ của anh, khi còn thơ bé (nay là khu đất chung quanh đường Hiệp Nhất). Những đêm như vậy, anh thức giấc giữa đêm, nhìn ra cửa sổ, ngắm cái sân cỏ dưới ánh đèn mờ trong màn sương. Anh nhớ nhiều về những ngày đầy khó khăn nhưng tươi đẹp của niên khóa 1977 – 1980 ở ngôi trường yêu dấu này. “Mỗi ngôi trường như một quê hương” , anh nhớ câu thơ của một cô giáo, như nói hộ cho anh.
Trại chăn nuôi phía sau khu nhà tôle là khoảng đất lớn có nhiều chuồng heo, bò. Đến trước năm 1965, người ta không chăn nuôi ở đó nữa, chính phủ lấy đất cấp cho gia đình thương binh, quả phụ. Ba của Luận mất ngoài Quảng Ngãi, nên nhà Luận có miếng đất ở đây. Từ một thiếu phụ xinh đẹp làm nội trợ chăm lo đàn con, mẹ của Luận bươn chải ra chợ Ông Tạ kiếm sống bằng nghề buôn bán, rời nhà từ sáng sớm và tối mịt mới về, chỉ nghỉ dịp lễ Tết và khi đau ốm. Lúc đó, đường Phạm Hồng Thái phía ngã ba Ông Tạ (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), thực sự là phố thị với nhà cửa xây san sát, nhiều cửa tiệm. Nhưng chỉ cần đi hơn trăm mét về hướng ngã tư Bảy Hiền, rẽ phải đi vào khu này trước khi đến trường Nguyễn Thượng Hiền, quang cảnh nhìn như ở miền quê. Trong đó, lác đác vài căn nhà nhỏ, phần lớn là khung gỗ, mái tôle.
Lúc đầu nhà Luận chỉ là gian nhà nhỏ ở cuối lô đất, sau phải thuê thợ xây thêm gian giữa với mái cao để ở cho rộng rãi thoải mái. Từ lưa thưa vài nóc gia, dần có thêm nhiều nhà tụ về, nghĩa là có thêm nhiều người lính mất tại chiến trường, để lại vợ góa con côi. Tuy đã có người ở, khu trại còn vắng vẻ, cỏ mọc um tùm ở các lô trống, có nhiều cây điệp to gần khu chuồng trại bỏ không. Bầy trẻ mới đến khám phá vùng đất có đủ các loại côn trùng giữa phố thị. Những chuồng bò, heo dỡ ra gần hết, chỉ còn một dãy, nhìn âm u trong đêm tối.
Một buổi chiều năm lớp 6, Luận đi học về dưới mưa tầm tã, lội bộ giữa làn nước lênh láng, chảy xiết đến những con rạch đổ về kênh Nhiêu Lộc gần đó, bất giác nhớ câu chuyện Anh phải sống của Khái Hưng được cô đọc trong lớp, tả cảnh một gia đình thời Pháp thuộc chìm trong nước lũ, cuối cùng người vợ buông tay ra chìm xuống sau khi nói với chồng đang ôm con: “Thằng Bò, cái Nhớn, cái Bé, không, anh phải sống!”. Băng qua khu nhà gia binh nghèo bên cạnh con rạch đang dâng, Luận cảm tưởng mình đang trong cảnh sống u ám đó. Phải chăng đó là tiếng gọi tiềm thức khi người cha trụ cột đã hy sinh, để lại gánh nặng gia đình cho mẹ?
Tuy vậy, sống ở đây cũng có những ngày dễ chịu. Nhà nào cũng có sân trước trồng hoa, đu đủ và chuối rất mau có trái. Sân sau trồng rau, mướp, đậu ván, nuôi gà vịt. Tối đến con nít trải chiếu sân trước, nằm nói chuyện, đùa giỡn, nhìn trăng sao. Ban ngày lũ con trai làm thòng lọng bắt tắc kè và con mối, một loại tắc kè, da trơn, đen bóng láng như da rắn. Mùa điệp chín, nhặt trái điệp tễ hột rang ăn. Rảnh đi hái cỏ “đầu gà” quất với bạn. Tối đến nghe tiếng ễnh ương ộp ạp, tiếng dế gáy, tiếng côn trùng. Sáng sớm nghe tiếng gà gáy lúc bình minh. Mùa mưa ép cá xiêm cá phướn đẻ ra cả mấy trăm con, nuôi lớn đem cho và bán. Cá kiểng có đủ loại: cá vàng, cá chim, cá tai tượng ta, tai tượng Phi châu, cá hổ, cá bảy màu,... Đúng là cảnh đồng quê ngay giữa chốn đô thành.
Năm 1973, tuy nhà sát bên trường nhưng Luận phải đi học một trường khác, cách nhà vài trăm mét. Mỗi ngày Luận đi học ngang qua cái bốt Phú Thọ Hòa ngay góc ngã tư, rẽ vài lần nữa, băng qua bên kia đường Nguyễn Văn Thoại (nay là Hoàng Văn Thụ) mới đến trường của mình. Nguyễn nhớ những ngày nghỉ, lũ trẻ khu trại chăn nuôi thường đến cái cổng gác phía sau trường đùa với các chú lính Đại Hàn gác cửa. Đôi khi họ cho lũ trẻ kẹo bánh. Trước cổng gác, có đổ một lớp cát dầy dọc theo con đường bên hông, ra đến tận đường Nguyễn Đình Khôi, để tránh bùn lầy dơ bẩn khi trời mưa, cho xe khỏi dính bùn hay là một biện pháp an ninh chống đột nhập? Việc đổ cát này gây nguy hiểm cho người đi đường chạy ngang lúc khô ráo. Một lần, Luận chở cô em út chạy qua, khi quẹo thì bánh xe lún xuống cát. Cô em té lăn vào lề đường, đập đầu vào hòn đá bên đường, máu chảy nhiều và người gần đó phải đưa vào nhà giúp cầm máu, băng bó. Luận bị một trận đòn nhưng thở phào vì cô em chẳng sao.
Trong năm đó, khu nhà tôle được trao cho trường thành khu lớp học mới, cứ mỗi nhà chia thành hai lớp đâu lưng nhau. Bầy học trò vui sướng khám phá khu lớp học đẹp như công viên với bầy điệp cổ thụ, mương nước trong veo có cá sặc, lối đi ven đường cỏ mọc. Bạn Đức Thành học cùng lớp với Luận nhớ lại: Năm 1973, Thành vào học trường này, lớp nằm trong dãy lầu phía trên. Buổi chiều, dưới khu nhà tôle có một người Đại Hàn mở lớp võ Thái Cực Đạo trên bãi cỏ dạy cho học sinh. Đầu năm 1975, cuối lớp 7, Thành phát hiện kế bên cổng trường, phía bốt gác Phú Thọ Hòa góc ngã tư Bảy Hiền có một nhà tù. Nhìn ra xa, lũ học trò thấy những cánh tay vẫy của tù nhân, đầy hình xăm xanh tím. Tiếng họ gọi “Ê, nhỏ!” văng vẳng từ xa. Sắp đến mùa hè thì xảy ra sự kiện tháng 4/1975, quay lại trường thấy cạnh thư viện gần sân bóng rổ toàn là xe quân đội nằm chết máy, các thùng phuy lỏng chỏng lăn lóc, dây kẽm gai kéo dài từ con mương đến thư viện.
Sơ đồ trường Trung học Nguyễn Thượng Hiền (Tân Bình) sau 1975 do Nguyễn Duy Năng, khóa 1977 – 1980 (Hoa Kỳ) vẽ theo trí nhớ. Phía phải, góc dưới tô màu đỏ nâu là khu nhà tôle dùng làm phòng học nổi tiếng trong giới học trò của trường thuở ấy.
Năm 1977, tôi vào trường Nguyễn Thượng Hiền và “dội” ngay khi được học dưới khu nhà trong “rừng” vì nó khác xa hình dung về lớp học lâu nay. Tuy nhiên, đầu tháng 9 tiết thu tuy không rõ rệt ở đất Sài Gòn đã khoác lên tấm áo xanh mát cho khu nhà tôle. Trong những ngày nắng đẹp, bướm bay tung tăng, chim hót ríu rít đầy trên cành cổ thụ khiến chúng tôi dần thích khu lớp học này. Đó là những ngày mộng mơ tuyệt đẹp, mọi âm thanh sắc màu cuộc sống được cảm nhận ở mức cao nhất. Con gái trong lớp mặc áo chemise hay áo dài trắng, tóc xõa dài như những cô tiên. Hoa phượng vỹ đỏ trên đầu rực rỡ như trong một bức tranh của Gauguin. Khoảnh đất có nhiều cây to biến thành khu rừng và những ngôi nhà tiền chế có cửa sổ chống cao trở thành những ngôi nhà có cánh.
Lớp 10B6 của tôi nằm ở rìa khu nhà, nhìn ra con đường mòn nhỏ đi vào khoảng đất cây cỏ um tùm bên trong, có cây trứng cá rủ lũ chim đến ăn trái chín. Chim ăn không hết, trái rụng đầy đất thành những đốm đỏ nhòe nhoẹt. Vài đứa con trai lượm trái bã đậu chín khô dưới gốc đã vỡ sẵn thành từng mảnh, khắc hình con cá thòng dây đeo vào cổ. Giờ ra chơi, mấy bạn Kha, Long, cùng Diệp, Ngọc Uyên, đi lần vào “rừng”, đi một chút là khuất mắt mấy dãy nhà tôle sau gốc cây, bụi cỏ. Loài hoa màu hồng tím, lá hình bươm bướm xòe ra có mùi thơm nhẹ, cứ gần Tết lại nở rộ. Lần theo đường mòn tới khu đất trồng sâm đại hành của những ngày tự túc mọi thứ sau 1975. Cạnh những luống sâm có nhà thầy H. sống cùng vợ con, một ông thầy khắc khổ. Bạn Kha kể, nhiều bữa đi học sớm lang thang theo lối mòn, ngang nhà thầy tròn mắt nhìn ông mặc quần xà lỏn, cởi trần, ăn cơm trưa. Đến khi đi vào lớp dạy thì đã chỉnh tề quần tây áo chemise.
Thỉnh thoảng khi ngồi trong lớp, tôi nhìn ra cửa sổ mở thông thống, nghe rõ tiếng kêu của một loại chim mà sau này có người gọi là chim giá cô. Tiếng hót có bốn âm Do, Ré, Mi... Âm Mi kéo dài hai ba nốt, ngưng hẳn một tí, rồi tiếp theo bằng một tràng nốt thấp hơn. Một thầy giáo trẻ đang giảng bài, chăm chú lắng nghe rồi bảo, nó hót như vầy: “Père, mère, frère... tout est perdu” nghĩa là: “Cha, mẹ, anh em... mất hết rồi!”. Tôi nhìn các bạn nguyên là học trò trường Quốc gia Nghĩa Tử gần đó chuyển về Nguyễn Thượng Hiền sau 1975. Trong lớp có bạn chỉ trong hai năm có hai người anh mất liên tiếp trên chiến trường. Vài bạn mất cha. Có bạn cha mẹ mất cả. Họ là những người bạn hiền lành, học giỏi và trầm lặng, có khuynh hướng gắn bó thân thiết với nhau.
Mỗi tuần một lần, chúng tôi chào cờ sáng thứ Hai ở sân chính khu nhà lầu. Ở đó, đứng trên ban công trường, tôi thấy thầy Hoạt đứng đó một mình, tay cầm ống điếu tỏa khói thơm lừng mùi thuốc lá nhồi “Half and half”. Ở nhà tôi có một cuốn sách nhiếp ảnh vinh danh thầy Hoạt, một tay chơi ảnh nghệ thuật nhiều thành tích. Đến giờ, tôi vẫn nhớ dáng ông cao gầy, lưng thẳng lịch lãm, ánh mắt bình thản. Những năm đó, nhiều thầy cô phải làm thêm đủ nghề kiếm sống. Cô B. dạy Văn giờ ra chơi thường gục xuống bàn khóc. Một vài thầy cô ngạo đời, chưng diện hơn trước kia và có nụ cười bất cần, như cô L. dạy Anh văn, một cô giáo người Huế có nhan sắc, luôn diện những bộ áo dài mỏng sang cả khác hẳn thế giới chung quanh. Họ đang ở đâu?
Chúng tôi đi qua ba năm ở trường Nguyễn Thượng Hiền trong lo lắng khi chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc nổ ra. Giữa luống sâm đại hành trồng xen kẽ các lớp học nhà tôle, có những câu chuyện nho nhỏ bàn tính chuyện ra chiến trường, đi học trung học chuyên nghiệp hay xa hơn, ra biển cả.
Khu nhà tôle vẫn còn mơ mộng dưới tán bầy cổ thụ, vẫn thấp thoáng những bóng áo dài trắng tuyệt đẹp của đám con gái nhưng đã có những chân trời xa mời gọi, lành dữ khác nhau. Chúng tôi chia tay mái trường thân yêu trong những năm khốn khó đó, đầu không ngoảnh lại, cho đến hơn ba mươi năm sau.
Tranh bút sắt. Kao Dũng (Pháp).
Một buổi tối cách nay vài năm, lớp chúng tôi gặp lại nhau trong một đêm mưa ở một quán rộng vùng Bà Quẹo. Hơn ba mươi người gặp lại nhau, chỉ mất mỗi một người. Nhìn lại, ai cũng an nhiên theo tuổi của mình, hầu hết có cuộc sống ổn định. Nhắc lại thời đó, chuyện vui nhớ nhiều hơn chuyện buồn, chuyện xưa của người này được người kia nhớ giúp và cùng ôn về khu nhà tôle ngày xưa.
Riêng tôi nhớ một chuyện cỏn con, những ngày sau Tết năm 1978, tôi và vài đứa bạn hiền lành đi nhặt những trái điệp đen rụng đầy vạt cỏ quanh sân bóng rổ gần mương nước cuối trường. Được một bao nylon đầy, chúng tôi xúm lại dùng gạch ghè từng trái cho hạt tách ra. Tôi nhận bịch hột điệp, về đưa cho má tôi bỏ vào chảo rang trên bếp dầu. Khi hột sắp chín, dùng rổ nhôm đậy lại cho hột không văng ra, nghe hột nổ lách tách trong rổ. Nhân điệp được rang chín bung trào khỏi lớp vỏ nâu, săn lại, nhai rất bùi, thơm và nhân nhẩn đăng đắng say say. Sáng hôm sau, tôi mang vào lớp và vui sướng cùng đám bạn nhai rau ráu.
Hôm gặp nhau, tôi cho Luận xem vài bức thiệp vẽ bằng bút sắt mà hồi còn đi học chúng tôi rất thích. Tôi đọc tiếp cho Luận nghe đoạn thơ còn nhớ: “Mỗi ngôi trường như một quê hương/ Khi nghĩ đến chợt nhớ thời áo trắng/ Nhớ nón nghiêng che, tóc dài trong nắng/ Nhớ tuổi phượng hồng mực tím ngày xưa/ Nhớ hạ vàng… chợt úa những cơn mưa/ Chiều lướt thướt bóng ai về lối cũ…”. Luận bảo có lẽ bây giờ, ngôi trường trung học là nơi kết dính bạn bè cũ mạnh mẽ nhất, hơn bất cứ ngôi trường nào anh học ở Mỹ những năm sau này. Quê hương có ngôi trường cũ, hay ngôi trường cũ là cả quê hương.
Trường Trung học Nguyễn Thượng Hiền. Tranh màu nước Phạm Công Tâm.