Một chuyện hồi ký 30 năm (Giai phẩm Xuân Sài Gòn Mới Tết Quý Tỵ 1953)
Minh họa: Lê Phan.
Năm ấy vào năm 1920 – 21, ông Phan Khôi còn phụ bút ở báo Nam Phong. Tình cờ tôi gặp ông ở nhà ông Sở Cuồng (Lê Dư) vào chiều 30 Tết. Ăn uống xong, ông Tú Khôi đâm ra cao hứng rủ tôi cùng một bạn nữa đi hát cô đầu.
Trước khi đi, chúng tôi đều tỏ ý ngờ vực ông Khôi, vì sợ ông cao hứng giây lát. Rủ đi, rồi đến đó ông cụt hứng bất ngờ, thì xấu hổ cho cả bọn. Ông Khôi nhìn thấy vẻ mặt hai chúng tôi dụ dự, ông bèn nói một giọng quả quyết:
- “Mình “tây” lắm; mình đã mời anh em thì mình bao tất cả chi phí, ai để phiền đến anh em. Huống chi số tiền này, mình định để về ăn Tết nhà; nhưng có điều không tiện về, nên đành ăn Tết Hanoi.”.
Nghe lời quả quyết, hai chúng tôi mới dám đi. Vì chúng tôi đã rõ tánh tình ông Khôi không mấy khi hào hiệp.
Trời mưa phùn, ba chúng tôi đều lên 3 xe kéo. Xe ông Khôi đi trước. Qua ngõ Khâm Thiên, ông bảo xe ngừng lại. Ông móc bóp trả tiền xe, hai chúng tôi còn đứng sau. Thì ông bươn bả đi trước, đi ngay vào nhà cô Đốc Sao.
Hai chúng tôi đều giựt mình! Nói với nhau:
- Ông Tú Khôi bướng quá! Ở phố Khâm Thiên thiếu chi nhà cô đầu lại không vào, nhè nhà thượng đẳng này mà vào!
Trời mưa mặc dầu, hai chúng tôi vẫn ngần ngừ đứng ngoài hàng ba, không dám vào. Nhưng liền đó, thấy ông trở ra gọi chúng tôi:
- Kìa, sao không vào, còn đứng đó làm gì?
Thì theo câu nói đó, hai cô đầu nhỏ tuổi, mặc áo màu tiến ra ngoài cửa.
- Mời hai quan vào chứ. Giời gió rét lắm cơ.
Bất đắc dĩ, chúng tôi phải vào. Nhưng tôi nghĩ, sự thế đã bức bách thế này, mình không vào, chúng cũng ra lôi vào không thể từ chối được.
Hai cô đầu nhường hai chúng tôi đi trước. Vào nhà trong, ông Khôi giới thiệu hai chúng tôi với bà chủ (cô Đốc Sao).
Mới tối 30 Tết, bà chủ đã đóng bộ y phục rất huy hoàng. Áo gấm hoa thêu chữ Thọ vàng, bạc, chít khăn nhung, choàng khăn sạc len, đi giày cườm thêu, qua lại tiếp khách với mùi nước hoa thơm ngát. Trong nhà chưng diện ra vẻ Tết nhà quan. Một cành mai trắng cao hơn thước, cắm vào chiếc bình lớn, đặt ngay trên bàn. Nhiều bình nhỏ hơn thì cắm cành trúc đào, tử vi, để rải rác mấy chiếc ghế bên vách tường. Bàn chính giữa, đặt chậu thủy tiên hoa ướm nở, mùi hương thơm phức. Ngoài ra, những bức tranh thêu, những bức trấn gấm, trông sáng rực cả nhà.
Ông Tú Khôi, ngồi vếch mày chễm chệ trên ván giữa. Chống nạnh vào chiếc gối năm nếp thêu hoa. Hai chúng tôi ngồi hai chiếc ghế cẩm thạch bên ngoài, nhưng hôm ấy có trải nệm nhung màu hồng xem có vẻ Tết. Các cô đầu tiếp khách lăng xăng, cô bưng tách trà, cô đem thuốc.
Bỗng thấy đèn điện bật lên thêm nhiều ngọn, xanh đỏ sáng lòa. Rồi một tên bồi từ nhà sau cắp theo hai chai rượu champagne đi ra, một tay bưng cái khay trên có bốn cốc.
Hai chúng tôi, đều đánh trống ngực phập phồng… Mỗi người đều lo… Chủ nhà chơi kiểu này đây, chết cho ông Khôi rồi! Không biết trong hầu bao ông được bao nhiêu, mà thấy ông ngồi điềm tĩnh thế.
Chúng tôi nhìn vào ông Khôi, có ý nháy nhó ông. Hãy từ chối cuộc champagne, bảo mang ra thứ rượu khác. Nhưng nhìn ông, mà ông chẳng hề ngó lại. Thì vừa bà chủ (cô Đốc Sao) đi ra.
Cười một chuỗi cười ra rả và nói:
- Tối nay, ba quan đến mở chầu hát giao thừa, chắc là nhà này năm tới được nhiều may mắn lắm.
Bà chủ nói vừa dứt lời thì nghe một tiếng “bốp”, nút chai champagne văng ngược lên trần nhà. Bà chủ vỗ tay, các cô đào đều vỗ theo. Tên bồi rót bốn ly rượu, bốn cô chia nhau bưng. Bà chủ giành bưng ly rượu đi đến trao trước ông Tú Khôi và chúc:
- Xin cám ơn quan mở hàng chầu hát giao thừa hôm nay. Thật một chầu hát hiếm có lắm. Vì tối hôm nay, nào có quan nào được rỗi mà đi hát chơi.
Ông Khôi cười vẻ tự nhiên rồi nói:
- Người ta không đi hát, chúng tôi đi hát, thế mới là tình chứ. Tình mà cũng oai nữa.
- Cám ơn quan.
Rồi đó, hai cô đào bưng hai ly rượu đến mời hai chúng tôi. Bà chủ cũng nói một câu xã giao, chứ thực ra bà để ý vào ông “quan” ngồi chính ván giữa. Hai chúng tôi ngồi kề tai nhau nói nhỏ:
- Cuộc hát này ít ra cũng phải mất trăm bạc. Vì lâu nay tiếng nhà hát Đốc Sao đắt gấp đôi nhà khác, chẳng hay trong túi lão Phan Khôi có đủ số ấy không? Nếu thiếu thì chúng mình phải hỏi lão để bù thêm, đừng để lòi đuôi ra mà xấu.
Toan đi xích đến ngồi gần bên ông Khôi để hỏi nhỏ vấn đề “quan trọng” ấy thì ông đã tay cầm roi chầu, đánh ngay mấy tiếng “gọi cô đầu”. Kế đó thì đầu hát gõ phách, anh kép vặn đàn, cô Tâm nhịp một khổ phách “giáo đầu” rồi hát lên bài hát nói, đến “Tỳ bà”, qua “Sa mạc”.
Ông Khôi ngồi ngúc ngắc, vừa đánh tom, chát vừa cười. Hai chúng tôi vẫn phập phồng, không biết gì là hứng thú. Vì đứa nào trong túi cũng không đầy 30 bạc, nếu ông Khôi cũng bấy nhiêu đó thì nguy!
Theo lệ hát thì có mâm á phiện, khi ba chúng tôi quây quần trước mâm á phiện, nhờ “ả” tiên nâu mà gần được nhau. Bạn tôi hỏi ông Khôi. Ông trợn mắt lên… “Các anh đừng lo, mình còn dư sức mà.” Chừng nghe câu nói ấy, hai chúng tôi mới hả dạ, nghe hát hay, uống rượu và hút ngon lành, trọn đêm 30 Tết.
Sáng ngày ông Khôi lên mặt quan sang đặt trên khay 100 bạc và thưởng cho các cô mỗi cô 5 đồng.
Ra về chúng tôi khúc khích cười với nhau. Ông bạn kia nói:
- Năm tới đây, chắc chúng tôi “hên” lắm. Bao giờ mà được ông Tú Khôi cao hứng lại phát tâm hào hiệp như buổi hôm qua!
Mà thật. Ông Phan Khôi đêm ấy cao hứng thật. Ông ít có làm thơ; thế mà đêm ấy ông nảy ra được một bài thi Đường-luật, tôi còn nhớ hai câu:
“Hồn qui lâm hạ tâm nan ổn
“Thân tại hoa gian mộng bất kinh”.
Quê cũ về thêm lòng rạo rực,
Dưới hoa mình được giấc êm đềm.
Một tờ báo Xuân một kỷ niệmHồi ký của nhà báo Nguyễn Bảo Hóa tức Tô Nguyệt Đình
(Giai phẩm Xuân Việt Thanh năm Giáp Ngọ 1954)
Mỗi dạo gần Tết, một hai bạn làng văn hỏi: “Năm nay anh có ra báo Xuân?” Báo Xuân! Hai tiếng ấy đập mạnh vào tai, gợi lại cả một kỷ niệm mà tôi cảm thấy thấm thía nhứt.
Trong ngày Tết, những tờ báo Xuân chen nhau khoe sắc ở phố phường. Nhìn nó, tôi nhớ đến tờ báo Xuân của tôi. Nó cũng “đứng” ở góc đường này, đầu phố nọ và theo những chiếc xe hơi chu du khắp tỉnh thành.
Tôi đoán chừng, nó đã nằm trên bàn tay nõn nà của một cô gái, bàn tay nhăn nheo của một cụ già, hoặc dưới cặp mắt sáng quắc của anh công nhân yêu đời.
Một tờ báo Xuân tung ra khắp phố phường, thiên hạ đọc nói với sự vui buồn tùy theo giọng cảm xúc (!)
Đôi người coi nó như món quà ngang với cái bánh món mứt, cục kẹo đường. Mấy ai hiểu sự khó khăn khổ cực của bàn tay làm ra nó.
Từ là một cái “bóng” ấp ủ trong đầu con người văn nghệ, đến khi biến thành tờ báo Xuân thực sự, nó đã sống qua bao nhiêu trở lực?
***
Từ tháng Mười âm lịch, tôi gởi thơ kêu gọi một số văn nghệ sĩ quen biết hợp sức làm một tờ báo Xuân “cho ra hồn”.
Giữa thời kỳ khủng hoảng văn nghệ, muốn làm một tờ báo Xuân theo cái nghĩa lành mạnh của văn nghệ kể cũng khó.
Mình tự nghĩ: “Có khó mới có thú”. Thế là tôi chạy rong kiếm anh em văn nghệ sĩ để nhắc bài, phác họa hình thức và nội dung tập báo Xuân. Phần đông góp ý kiến và khuyến khích: “Tôi mong tập báo Xuân của anh sẽ được độc giả hoan nghinh cũng như những báo Xuân danh tiếng nhứt thời tiền chiến”.
Tôi thấy vui nhộn. Tự lạc quan: “Lần này, tờ báo Xuân của mình chào đời sẽ đánh dấu một cái gì?”. Tôi muốn nói một công trình văn chương nghệ thuật đấy.
Bài vở lần lượt góp về, tôi tìm các bạn họa sĩ Nguyễn Văn Mười, Thế Chưởng và Tú Duyên giúp sức tô điểm cho từ cái hình, cái tựa đúng với cặp mắt “thẩm mỹ” của mọi người.
Mỗi bài của văn nghệ sĩ trao đến, mỗi bức tranh của họa sĩ vừa ráo mực đưa ra, tôi tâng tiu như trứng mỏng.
Qua tháng Mười Một, tôi đi tìm nhà in để giao cái bìa và cái “ruột”. Tôi chọn những nhà in danh tiếng nhứt như I.D.E.O và “Sông Gianh” giao công việc.
Thú thật, khi bắt tay vào việc, tôi sống thuần bằng tình cảm, mà không nghĩ gì đến điều kiện vật chất. Con người cầm cái bút “mộng” nhiều hơn “thực”. Có khi hoàn toàn mộng chứ không thực chút nào.
Phải đặt cọc trước hai phần ba giá tiền, nhà in mới ra được.
Lời người quản lý khi tôi trao cái “đờ vi” [6] mười hai ngàn đồng, tiền in, tiền sắp chữ 8.000 tờ báo Xuân 24 trang, khuôn khổ 0,50 x 0,37.
Tiền giấy: mười bốn ngàn đồng, cộng là hai mươi sáu ngàn. Cái bìa in sáu màu trên giấy láng phải trả hai mươi lăm ngàn nữa, vị chi năm mươi mốt ngàn đồng.
Chưa kể tiền bài, tiền vẽ làm bản kẽm, đã tốn ngần ấy tiền.
Dành dụm, vay mượn của bạn bè thân thích vỏn vẹn có hai chục ngàn, đào đâu ba chục ngàn nữa để chi phí cho tờ báo Xuân? Trong lúc nôn nả để làm, tôi không nghĩ phải có nhiều tiền tờ báo Xuân mới thành hình.
Tiền bạc cũng có thể là trở lực để phát triển văn học nghệ thuật.
Sự lạc quan buổi đầu mất mát đi nhiều.
Tôi bắt đầu nghi ngờ do dự…
Thiếu tiền, tờ báo Xuân thiếu điều kiện chào đời.
Những lời phê bình ngây ngô văng vẳng qua tai “Năm nay cũng còn báo Xuân “nhảy dù” ra nhiều”.
Người ta mang danh những tờ báo Xuân ra bất thường là “Xuân nhảy dù”! Người ta coi nó là “đứa con hoang” của vườn văn nghệ? Người ta có óc ngoan cố, nông nổi. Người ta không hề biết trong những tờ báo Xuân ấy đã ép những mảnh lòng, chứa đựng rất nhiều mồ hôi, sức lực của văn nghệ sĩ.
Nhìn lại những tập bản thảo đã bày sẵn trên bàn. Mỗi tập bản thảo, một thứ giấy, một tuồng chữ, một ý nghĩ điển hình cho các trạng thái tâm lý, xã hội Việt Nam.
Ngần ấy “hình ảnh” làm cho tôi xúc động, ngùi ngùi. Làm sao cho các đứa con tinh thần của một số văn nghệ sĩ được chào đời vào ngày đầu xuân nắng ấm này?
Câu hỏi cứ vẩn vơ trong óc tôi mãi. Tôi nghiệm thấy cái triết lý sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền đối với cuộc đời tình cảm của con nhà văn nghệ không có nghĩa gì hết, nhưng đối với thực tế nó có giá trị mạnh.
Trong giờ phút bâng khuâng này, tôi phải để tình cảm xuống để đưa tay tiếp nó.
Một cặp rằng [7] phát báo đề nghị với tôi: “Tôi bằng lòng ký giao kèo cho anh mượn ba chục ngàn đồng với điều kiện: độc quyền phát hành hoa hồng bốn chục phần trăm tính vào tiền bán báo. Anh phải cam đoan khi bán báo lỗ sẽ làm giấy nợ kỳ hẹn trả góp hàng tháng, v.v…”
Với tờ giao kèo này, quyền lợi của tôi mất rất nhiều. Hoa hồng báo Xuân thường lệ hai mươi lăm phần trăm, thế mà tôi phải trả thêm mười lăm phần trăm nữa. Với lại “đứa con tinh thần” của tôi phải giao đứt cho người khác sai khiến. Nghĩ mà tủi lòng!
Nhưng tiền bạc là nhu cầu cấp bách cho tờ báo Xuân, thiếu thốn nó mọi công việc dở dang, tờ báo sẽ không bao giờ thấy ánh sáng nữa.
Cuối cùng tôi phải ký tên vào giao kèo, nhận tiền của người cặp rằng phát báo (nhà văn nghệ đã gián tiếp đầu hàng nhà tư bản trước hoàng kim!)
Có tiền rồi, mạch sống của tờ báo Xuân chuyển động. Nhưng trên thực tế, không phải tờ báo Xuân đã vượt qua mọi nỗi khó khăn.
Còn trình bài vở cho ty kiểm duyệt, còn mọi công việc ấn loát, sắp chữ đóng thành tập, cắt bìa. Mỗi công việc đòi hỏi rất nhiều lao lực.
Nhiều đêm, dưới ánh đèn dầu, một đám ấn công áo thun, quần đùi, đứng thẳng người bên những ô chữ có từng hộc vuông vức như những ô cờ, hoặc hộp thuốc chích to lớn.
Họ cặm cụi làm việc, thỉnh thoảng có tiếng vỗ bành bạch của bát chữ sắp rồi quăng ra sửa lỗi.
Lâu lâu có tiếng một người thợ lẩm bẩm đọc: “Xuân này là ba xuân, dân ta ăn Tết dưới cánh phi cơ, trong tiếng bom đạn gào thét…”
Hoặc “Trước thềm năm mới ai ai cũng hy vọng được sống trong hòa bình, no cơm, áo ấm, gia đình đoàn tụ, tổ quốc vinh quang,v.v…”
Đâu đấy, tiếng máy ì ầm nghe như sóng vỗ bờ xa. Những bàn tay đầy dầu mỡ của anh thợ máy nhẹ nâng những trang báo Xuân chạy rồi, lên tận đôi mắt gần như mờ đi vì thức đêm nhiều, để săn sóc những trang báo từ máy in nhả ra.
Tất cả bao nhiêu người và tôi phải thức hằng bao nhiêu đêm để lo cho một tờ báo?
Nhiều trang báo đã lên khuôn, vội phải phá “mi” để làm lại vì bài vở phải sửa đổi. Lúc đó chỉ nhờ bàn tay vén khéo của người thợ: Đục bỏ chỗ này đem bài kia dời qua, trám cái hình vô đây, để khi in ra không còn thấy dấu vết phá phách đổi dời.
Trong một góc nhà in đầy bụi bậm, đầy mùi mực in, mùi chì nấu, có những thân hình cúi rạp bên ô chữ, có những cái lưng còng xuống trên bàn giấy để xem từng chữ, từng con số chằng chịt, ngổn ngang như bãi cát, hết đêm này qua đêm nọ.
Bài vở vơi dần, bàn tay của người thợ cũng nhẹ dần nhưng cả thân thể nặng nhọc mệt đừ, tay chưn rã rời như người đau mới mạnh.
Tờ lịch trên tường nhà in lép dần. Hôm ấy mùng Mười tháng Chạp.
Mọi người thợ phải đem hết sức, sắp những trang báo cuối cùng.
Họ chạy đua với thời gian, mà tôi cũng chạy đua với kim đồng hồ. Nào chờ những trang báo xem xét rồi, nào đến nhà in thúc hối cái bìa. Ruột gần xong mà vỏ chưa xong là chí nguy.
Những trang báo bắt đầu xếp lại từng tập, chờ giờ ra sạp báo, ra mắt bạn bốn phương.
Tờ báo Xuân của tôi hoàn thành.
Chiều Mười sáu tháng Chạp, nó rời nhà in để “đi’ khắp phố phường.
Tôi thấy nhẹ nhõm cả người như người khách phiêu lưu giũ áo phong sương khi về đến quê nhà nhìn đám con thơ ấu sởn sơ, chạy nhảy tung tăng dưới ánh nắng hồng.
Nhưng cũng trong giờ phút đó, túi tôi nhẹ tợ cánh mai vàng.
Bao nhiêu tiền bạc đã trút vào tờ báo Xuân.
Tiền không còn để xài, Tết này tôi ăn Tết ở đâu?
Chiều Hăm bảy, tôi đến nhà anh cặp rằng phát báo hỏi mượn hai trăm. Anh ta vắng mặt. Hai ngày sau cũng vắng luôn.
Chiều Ba mươi, trời nhá nhem, tay dắt chiếc xe đạp cũ mèm có cột gói đồ, tôi lang thang trên đường Tân Thuận đi tìm nhà một người bạn.
Rằm tháng Giêng tôi mới đến nhà anh cặp rằng để tính sổ báo Xuân. Báo ế trả về từng đống cao như… núi.
Tính sổ: bán 4.500 tờ x 8 đ = 36.000 đ. Hoa hồng 40% = 14.400 đ – còn lại 21.600 đ. Tiền mượn trước: 30.000 đ. Tôi thiếu lại người cặp rằng 8.400 đ
Số tiền này tôi phải biên giấy nợ. Sau mỗi khi bán một tác phẩm thì bị trừ tiền thiếu một phần, phần ấy tôi đã hy sinh cho tờ báo Xuân.
Kỷ niệm này tôi nhớ mãi. Mỗi độ Tết về, tôi thấy những tờ báo Xuân chen chúc ở các nẻo đường, tôi trân trọng đón nó trên đôi bàn tay (dầu nó dở hay hay) vì tôi nghĩ khi nó thành hình là có bao nhiêu người đổ mồ hôi nước mắt và đổ nợ!
Và trớ trêu tôi hỏi:
“Làm tờ báo Xuân này, là tiền của anh hay vay mượn của ai?”
Câu chuyện thi sĩ Tản Đà và cô Lucie Băng-đôLão Tùng
(Giai phẩm Xuân Thần Chung Tết Giáp Ngọ 1954)
Nhớ độ ấy vào đêm trừ tịch (30 Tết) năm Đinh Mão (1925) thi sĩ Tản Đà vừa thôi tờ Annam Tạp Chí vào Nam, được ông Diệp Văn Kỳ mời vào trợ bút tờ Đông Pháp Thời Báo.
Chiều hôm ấy thi sĩ đã mang chai rượu cô-nhát vào Gia Định kiếm tôi. Người quen tính phong lưu lãng mạn bao giờ cũng vẫn tính lãng mạn. Vừa bước vào cửa, thi sĩ đã cười ròn rã và nói:
– Chúng mình đều bọn tha hương, lữ khách, đêm nay tôi và bác, chúng mình phải cùng nhau “trường dạ ẩm” (uống rượu suốt đêm) mới được.
Tôi đang sửa soạn mở cuộc đánh “chén” thì cô Lucie Băng-đô từ ngoài xăm xăm vào.
Lucie Băng-đô, có lẽ ở Sài Thành không mấy người không quen mặt biết danh. Hai mươi năm trước, Lucie một cành hoa biết nói mà hạng vương tôn công tử đều mến yêu và nàng cũng ham sống trong cảnh trận cười suốt đêm, cuộc say đầy tháng.
Nhưng, Lucie có một tánh rất đặc biệt là ưa gần gũi các văn nhân thi sĩ để nghe những câu chuyện lý thú về văn chương. Đọc thi, văn Tản Đà lâu nay, Lucie thường hâm mộ nhà thi sĩ lãng mạn, tài hoa. Tình cờ gặp được Tản Đà hôm nay sau mấy lời của tôi giới thiệu. Lucie hiện trên nét mặt một vẻ sung sướng, tươi cười nàng nói:
_ Chiều hôm nay, cháu định mang xe rước bác và anh Bùi Thế Mỹ đi Thủ Đức “nhậu nhẹt” chơi. Một sự ngẫu nhiên, lại được gặp Tản Đà tiên sanh, thật đời em lấy làm hân hạnh vô cùng. Sẵn đây, em xin mời tiên sanh đi chơi luôn.
Nhân nghe tôi giới thiệu tánh tình Lucie hào hiệp, ưa thích văn thi, nên Tản Đà vui lòng nhận lời.
Thế là ba chúng tôi cùng ra xe một lượt. Bước lên xe, không một ai không để mắt nhìn trân và có lẽ họ đều nín cười hai hạng người gặp nhau như hai thái cực! Một đàng thì một thiếu nữ trẻ trung phấn son diễm lệ. Tay xách bóp đầm, cổ choàng khăn sạc, đi giày cao gót. Còn một đàng thì khăn đen, áo dài lượt bượt, chân đi giày hàm ếch, người đều lão mạn gần 50 xuân thu!
Nhưng cả hai bên đều tự nhiên như quên hẳn cả hình thức. Tản Đà bấy giờ chưa có hơi men, nên vẫn còn giữ lễ độ. Ngồi trên xe, hình như nhà thi sĩ đã ngấm ngầm cao hứng và thỉnh thoảng đưa mắt liếc trộm giai nhân. Đầu gục gặc như đã trong lòng những câu tình tứ.
Xe chậm chậm quay ra Sài Gòn, rước thêm một nhà văn thanh niên lãng mạn Bùi Thế Mỹ. Có Bùi Thế Mỹ, chúng tôi có phần đỡ ngượng khi đi qua các nơi đông người.
Lucie lại đỗ xe trước chợ Sài Gòn. Nàng thân hành vào chợ, mua thêm nào gà quay, xúc xích, đồ hộp và bom, lê, táo, nho. Nàng không quên mua thêm hai chai cô-nhát, hai chai sâm-banh và một chai Rôm.
Dọc đường, Lucie nói một câu lý thú và chan chứa bao nhiêu cảm tình:
– Thưa các tiên sanh, em tổ chức du xuân trước thiên hạ, vì hôm nay, Thủ Đức không như các đêm thường. Trong lúc cả muôn ngàn người đang bận rộn lo gà vịt, nhang đèn cúng quảy, có ai rảnh đi Thủ Đức ăn nem? Ấy là Thủ Đức riêng để dành cho chúng mình hôm nay chiếm độc quyền du thưởng, thanh nhã vô cùng. Bởi nghĩ thế, nên em lựa ngày hôm nay để biệt đãi quý ngài văn nhơn thi sĩ.
Quả như lời nói của Lucie tiên đoán. Khi xe đậu trước nhà hàng Thủ Đức, đèn vẫn sáng mà khách vắng hoe! Nếu không có bốn chúng tôi đêm ấy, thì nhà hàng Thủ Đức cơ hồ như một cảnh chùa hoang vắng.
Nem là thực phẩm đầu tiên. Chúng tôi mỗi người đều an vị thì nem bóc ra, rượu khui ra, máy hát từ từ vặn lên, những bản cô đầu xen lẫn bản vọng cổ.
Lucie bảo vặn những đĩa hát ấy có ý nghĩa dung hòa Nam Bắc một nhà. Thi sĩ Tản Đà giờ phút này, con ma men hơi thấm, nên thi sĩ cất giọng lên ngâm những bài “hát xẩm” mà thi sĩ cho là giai tác:
“Nước trong xanh, lơ lửng cái con cá vàng
Cây ngô cành bích, cái con phượng hoàng nó đậu cao
Tiếc thân em, như cánh hoa đào
Ham cái đồng bạc trắng, em tựa vào cái ông Tây đen”
Cử tọa đều vỗ tay. Thi sĩ càng thêm cao hứng gật đầu không ngớt.
Giữa lúc mọi người đang ngà ngà, Lucie giới thiệu đi chơi thêm cảnh Gò Xoài nữa. Nàng nói: Gò Xoài cách Thủ Đức không xa mấy, nhưng thường ngày có vẻ thanh tịnh hơn, nhứt là suối Gò Xoài trong và đẹp lắm.
Mọi người đều hoan nghinh. Chúng tôi cũng hôm nay mới được biết Gò Xoài lần thứ nhứt.
Lên Gò Xoài, giờ ấy mới lối 12 giờ đêm. Ở đây, Lucie lại tổ chức tiệc cháo gà đổi món.
Chúng tôi dạo quanh trên nguồn suối Gò Xoài, trở về nhà hàng Gò Xoài, lại say một tiệc nữa, mãi đến ba giờ sáng mới ra về. Trước khi từ biệt Gò Xoài, Thủ Đức, Lucie xin thi sĩ Tản Đà một bài thi để kỷ niệm cuộc thi trừ tịch đêm nay. Thi sĩ hứa sẽ biếu bài thi ấy một hôm sau, nhưng đêm nay thi sĩ xin vịnh hai câu “tục Kiều” để kỷ niệm.
Tản Đà vừa bước lên xe vừa ngâm:
“Chén vui nhớ buổi hôm nay,
Càng yêu vì nết, càng say vì tình”
Thi sĩ vừa cười vừa yêu cầu Lucie tục một câu khác.
Khen cho Lucie lanh thật, nàng tục một câu khác liền:
“Chén vui nhớ buổi hôm nay,
Biết rằng mai có như rày cho chăng?”
Phải chăng câu “sấm ngữ” đó mà thành sự thật. Thì từ đó về sau, Tản Đà trở về Bắc, Lucie cũng trụy lạc lần.
Từ trụy lạc đến tàn tạ, tuyết sương ngày một hao mòn mình ve. Mãi đến mười năm sau, thi sĩ Tản Đà qua đời, Lucie ở trong Nam phiêu lưu, vất vả, đến nỗi vương tôn, quý khách phải tránh xa.
Tôi tình cờ được gặp nàng nằm queo trong một tiệm công-yên, mặt võ, mình gầy, không còn nhìn ra Lucie hai mươi năm trước được nữa.
Hồi tưởng cuộc đời của nàng trong một thời oanh liệt mà ngày nay... thảm thay! Nhưng, mỗi năm đến chiều hôm 30 Tết, tôi không khỏi động lòng nhớ đến người ấy năm xưa!
Hoa XuânLữ Thứ
(Báo Ánh Sáng Xuân Ất Mùi 1955)
Tôi gặp cô một buổi chiều xuân
Một buổi chiều nồng thắm ái ân.
Thế Lữ
Chiều hôm ấy, anh Hoàn Bích và tôi đi thăm mộ ông Phạm Hồng Thái ở Hoàng Hoa Cương về. Mưa phùn lấm tấm. Xuống ô tô buýt, chúng tôi còn phải đi chân một quãng đường mới đến khách sạn Lan Đình, nơi chúng tôi trọ. Loanh quanh thế nào, chúng tôi lạc lối. Mưa vẫn cứ rơi. Chúng tôi rủ nhau vào hiên của những hiệu buôn bên đường để chờ mưa tạnh.
Đang buồn vì ngày xuân mà hai chúng tôi còn lang bạt xứ người và ngậm ngùi vì cái cảm giác vừa qua: tiếc thương người anh hùng họ Phạm của nước Việt phải bỏ mình ở đất khách, thì có người thiếu nữ từ ngoài phố tất tả chạy vào đứng cạnh chúng tôi cũng để tránh mưa làm cho chúng tôi chú ý.
Thiếu nữ trẻ đẹp, vẻ ngây thơ. Nàng mặc chiếc áo tím màu hoa cà, ngoài khoác chiếc áo tơi nylon màu xanh lá cây.
Anh Hoàn Bích vốn tính vui vẻ, thích làm quen, ưa gợi chuyện trên bước đường phiêu lưu, vồ lấy cơ hội. Anh hỏi thăm thiếu nữ bằng tiếng Quảng Đông mà anh vừa học được từ lúc bước chân lên đất Tàu:
- Thưa cô, không biết từ đây về khách sạn Lan Đình cạnh Ái Quần lữ điếm phải đi lối nào cô nhỉ?
Người thiếu nữ đáp lại, cũng bằng tiếng Tàu:
– Thưa... đi lối này, lối này... Vừa nói, thiếu nữ mỉm cười đưa tay chỉ cho bạn tôi hướng của lối đi.
Bạn tôi mừng rỡ vì thấy thiếu nữ không lãnh đạm, nên hỏi dồn:
– Có xa không hở cô?
Giọng nói không Tàu chút nào và phải tìm nhớ từng tiếng một để chắp thành câu làm cho thiếu nữ tươi cười hỏi, và lần này hỏi bằng tiếng Việt, giọng Bắc:
– Hai ông là người Sài Gòn?
Bạn tôi ngớ ngẩn, trố đôi mắt tròn xoe, liếc nhìn tôi, rồi lại nhìn thiếu nữ, ấp úng đáp bằng tiếng Việt, giọng Sài Gòn:
– Dạ phải, chúng tôi là người Sài Gòn!
Rồi bạn tôi hỏi luôn:
– Cô không phải người Tàu sao? Trời ơi! Vậy mà chúng tôi cứ tưởng cô là người Tàu. Thế cô là người Bắc?
– Vâng, tôi là người Bắc…
...
Thế rồi câu hỏi qua, câu đáp lại, cái cảnh xứ lạ gặp người cùng nước khiến cho ba người chúng tôi trở nên thân mật ngay từ buổi chiều ấy đến ngày bạn tôi và tôi lìa đất Quảng Châu, mang theo trong cuộn phim của chiếc máy ảnh, hình ảnh của người thiếu nữ Việt Nam trôi dạt ở đất Tàu, và trong lòng, mẩu chuyện tâm tình của nàng kể:
“Nàng tên M..., họ H... quê ở Nam Định. Năm 1945 khi quân đội Tàu của tướng Lư Hán đến giải giới quân Nhật ở Bắc Việt, nàng bị một quan Tàu cưỡng bách bắt về làm vợ. Dưới cái áp lực của kẻ mạnh thời bấy giờ, nàng buộc lòng đánh liều theo số mệnh. Đến năm 1946, quan Tàu ấy về nước, mang nàng theo. Chừng đến quê hương chồng, nàng mới hay chồng nàng đã có vợ, có con. Thế là sau những ngày cơ cực sống trong cảnh đọa đày của người vợ lẽ, nàng quả quyết khăn gói ra đi. Từ Thượng Hải, xuống Hương Cảng, nàng lần dò về đến Quảng Châu. Hết tiền lộ phí và lúc bấy giờ ở Việt Nam đánh nhau ráo riết, nàng thấy chưa tiện hồi hương nên đành lưu lại đấy, tìm được việc làm “nữ chiêu đãi” ở hiệu giải khát Diamond to nhất của Quảng Đông để chờ cơ hội…”.
...
Nhưng nay đã tám chín năm qua rồi. Cuộc đời nàng ra sao? Đã về nước hay còn lận đận viễn phương?
Và nhân dịp xuân về, để kỷ niệm buổi chiều xuân gặp gỡ ấy, chúng tôi xin mạn phép phô bày ảnh nàng lên mặt báo để gửi một ít nhớ nhung của người giang hồ được về nước cho người giang hồ biết đâu còn lang bạt ở trời xa?”
Đêm 30 Tết thi-sĩ biến thành “du côn” vào bót ăn TếtBang Gia
(Giai phẩm Xuân Đời Mới Tết Ất Mùi 1955)
Hồi ấy cách đây 25 năm, ông Tản Đà viết “Đông Pháp Thời Báo” của ông Diệp Văn Kỳ ở Sài Gòn. Làm xong số Tết, báo phát hành rồi, ông Diệp phát cho Tòa soạn mỗi người một tháng lương tiêu Tết. Tản Đà cũng được hưởng ưu đãi ấy. Vậy mà có một hai hôm, ông đã cạn túi, không còn xu nhỏ. Tết đến sau lưng rồi. Nghĩa là đã đến cuối tháng Chạp. Tính sao bây giờ? Huống chi cái đức “nhậu nhẹt” của Tản Đà lại không thể bỏ được, nhứt là trong ba ngày Tết. Khổ một nỗi ba ngày nghỉ biết ai bán rượu thiếu cho ông men? Cái đó mới nguy!
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười.
Sợ Tết này, trời đỏ gay, đất lăn quay thì có, chớ nhà thơ chỉ còn nước nằm co mà mặt mày xanh lét.
Ông Diệp Văn Kỳ cảm thấy sự lúng túng của người cộng sự, bèn hỏi ra manh mối: Hết tiền rồi sao? Thì đấy thêm 5 đồng nữa để xài Tết. Cái tính rộng rãi của ông Diệp Văn Kỳ đã kéo được thi sĩ ra khỏi cái cảnh “cá cả nép vây, rồng thiêng cuốn khúc”.
Cất tờ giấy 5 đồng vào bóp rồi, Tản Đà ra tuốt bến xe “lô” mướn cái xe “Đờ-la-hay” [8] mui sập để thưởng thức mùi phú quý một phen.
Lần thứ nhứt, ông ngồi một mình trên xe hơi, vẻ bệ vệ như một ông chủ đồn điền. Ông cho xe chạy ra nhà bưu điện mua cái măng-đa giây thép 3 đồng, gởi cho ông Ngô Tất Tố ở Hà Nội, gọi là có chút quà Tết tặng bạn hàn vi. Còn 2 đồng, ông tính trả tiền xe hơi 1 đồng, còn lại 1 đồng ăn Tết cũng đủ.
Nhưng:
Rượu ngon phải có bạn hiền.
Tản Đà cho lịnh sốp-phơ [9] mở máy chạy vào Bà Chiểu là nơi ông Tùng Lâm đang ở hồi đó. Đón bạn Lưu Linh ra Sài Gòn vì ông Tùng Lâm là bạn hiền để hưởng thú rượu ngon và để cùng nhau nô đùa với Lý Thái Bạch trong ngày đầu năm mới.
Trên chiếc xe hơi từ Bà Chiểu ra Sài Gòn hai nhà thơ danh tiếng ngất ngưởng, hiên ngang coi trời đất là nhỏ.
Về đến nhà, Tản Đà trả tiền xe hết đúng 1 đồng. Đi mua chai rượu trắng hết hai cắc. Còn dư 8 cắc ông giao cho ông Tùng Lâm đi “rước” một con gà và một hũ Mai Quế Lộ cho có vẻ ăn Tết như ai và để cho hết trơn số tiền.
Ông Tùng Lâm lãnh “sứ mạng” đi mua đồ Tết. Tản Đà ở nhà rửa ly, khui chai rượu trắng ra chờ bạn. Tiếng pháo chiều 30 đã bắt đầu nổ, vang tai nhức óc. Những tiếng pháo loan báo cho biết rằng chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa thì muôn vàn sầu não lo buồn của một năm cũ sẽ lui vào cái hố đen của dĩ vãng, để cho chúa Xuân vui tưng bừng xuất hiện.
Tản Đà ngồi xếp chân trên bộ ván, lắc lư đầu, ngâm vội mấy câu thơ Đường để chờ bạn hiền đem “đồ nhắm rượu” về, mà lạ không? Càng mong càng vắng tăm hơi. Ông Tùng Lâm ra đi đã lâu mà chưa thấy về. Ông đâu có phải là con nít mà lạc đường. Nhìn lên đồng hồ treo trên tường thì đã quá 9 giờ tối. Tiếng pháo nổ càng làm cho đồ đệ Lưu Linh ruột gan như bào như đốt. Tản Đà muốn qua thì giờ, phải rót rượu ra nhấp giọng đỡ một vài ly.
Những ly rượu suông mà không có đồ nhắm càng suông tính suông tình hơn vì thiếu người đối ẩm. Tuy vậy từ ly nọ đến ly kia cũng đủ cho nhà thơ phải say lúy túy. Ông lăn ra ngủ một giấc sau khi đã cạn gần hết chai rượu.
Ông có dè đâu bạn hiền của ông lúc ấy cũng uống rượu nhưng uống trong bót cảnh sát.
Ông Tùng Lâm ra tiệm mua xong hũ Mai Quế Lộ và con gà đem về, nửa đường thì gặp đám “bầu cua cá cọp” đang đánh lộn. “Chủ sòng” và “con bạc” tố nhau sao đó mà phải dùng đến võ lực đối phó nhau. Nhà thơ Tùng Lâm vốn ưa tĩnh, bây giờ lại có máu động, nên thấy cảnh ẩu đả cũng vui mắt đứng lại coi. Tiết xuân kích thích lòng người, cũng có lẽ.
Trong lúc Tùng Lâm chăm chú xem trận giặc như khán giả say võ sĩ trên võ đài, thì biện và lính ập tới: “A lê! Về bót”. Họ thộp đầu, nắm cổ 4, 5 “trự”. Rủi thay trong số lại có cả nhà thơ Tùng Lâm.
– Tôi đâu có đánh lộn, thầy. Tôi đi mua rượu và gà về nhà ăn Tết.
Anh lính nhìn bộ quần áo lem luốc của ông Tùng Lâm (bộ quần áo ngủ, vì ông đã cởi áo dài đen bỏ ở nhà). Anh đề quyết ông là tay du thủ du thực, rồi hỏi:
– Chú mầy không đánh lộn à? Thế giấy thuế thân đâu? Đưa coi!
Cái mới nguy nữa. Hỏi giấy thuế thân của Tùng Lâm, cũng như hỏi thuế thân của Thứ Khanh, chẳng khác nào như hỏi ngôi sao trên trời. Cả hai thi sĩ đều không đóng thuế.
– Không có giấy thân! Đồ du côn! Đồ anh chị!
Còn lý luận nào hùng biện bằng nữa.
Thế là nhà nho chỉ biết ngâm thơ vịnh phú, bỗng thành du côn, anh chị, được về bót giam tạm, chờ “hạ hồi phân giải”.
Tiếng pháo chào xuân nổ vang lừng bốn góc thành phố.
Ông Tùng Lâm ngồi trong phòng giam ở bót cảnh sát thấy bụng đói như cào. Ông bèn xé thịt gà ra ăn. Thịt gà ngon quá, lại sẵn hũ rượu Mai Quế Lộ nữa, sao ta chẳng uống vài hớp để mừng xuân. Ông bèn đập miệng hũ, không có ly thì cứ nguyên hũ mà dốc cả vào miệng.
Chẳng mấy lúc mà con gà chỉ còn là đống xương và hũ rượu chỉ còn có vỏ. Xong rồi ông Tùng Lâm nằm lăn ra ngủ, quên cả tiếng pháo giao thừa nổ đì đạch bên ngoài.
Sáng hôm sau, người biện tới mở cửa “tha Tào”. Nhưng ông Tùng Lâm còn nằm chòng queo vì bữa tiệc Tất niên đêm trước. Biện phải đánh thức ông dậy. Ông ra về... xông đất năm mới cho ông bạn đồng tâm: thi sĩ Tản Đà còn nằm chòng queo ngủ. Ông phải lay bạn thức dậy.
Bốn mắt nhìn nhau, mừng mừng tủi tủi. Tản Đà xem lại chai rượu trắng của mình không còn đến một ly để chúc Tết cho bạn. Ông Tùng Lâm cũng không còn đến cái xương gà nữa, song ông có món quà lì xì năm mới.
Đây có 4 câu thơ làm trong bót, đọc bác nghe:
Cao hứng vì yêu bác Tản Đà
Một chai Quế Lộ, một con gà
Suốt đêm trừ tịch nằm trong bót
Nhớ lại buồn cười lúc tỉnh ra.
____________________________
Chú thích:
[6] Ðờ vi: (tiếng Pháp devis) bản dự toán.
[7] Cặp rằng: ông chủ, người quản lý.
[8] Xe Ðờ-la-hay: xe hiệu De La Haye.
[9] Sốp-phơ: (tiếng Pháp chauffeur) người lái xe.