Tiếng hót xanh trời Nam Đan
Có bao giờ bạn thử hình dung ra một thành phố lớn như thành phố Sài Gòn của chúng ta mà không còn những bóng cây xanh và vắng mất tiếng chim không? Bạn thử vận dụng trí tưởng tượng để biến nó thành một thành phố hiện đại đầy những cao ốc chọc trời, đầy những tấm kính sáng loáng phản chiếu ánh sáng, đầy xe cộ chen nhau trên các con đường đan xen chằng chịt, đầy mùi khói xe và tiếng động của đời sống công nghiệp, đầy những con người vội vàng tất tả ngược xuôi với nét mặt lạnh lùng không biểu cảm... đầy... vâng, đầy nhiều thứ khác, nhưng chỉ thiếu bóng cây và thiếu tiếng chim.
Hẳn nhiên thành phố mà không còn cây xanh thì sẽ rất xấu, sẽ rất cằn cỗi, khô khan. Nhưng còn tiếng chim thì có thật sự cần thiết không? Có lẽ bạn sắp cho rằng tôi dỏm, tôi lãng mạn cuối mùa, đời sống còn biết bao nhiêu điều thiết thực đáng để quan tâm lo nghĩ hơn là nỗi âu lo thành phố vắng tiếng chim. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, lúc cả thế giới hoang mang lo lắng về hiểm họa cúm gia cầm H5N1 đang đe dọa sự an nguy của nhân loại.
Một buổi sáng khi vừa ra khỏi nhà, tôi được chứng kiến một cuộc truy đuổi ngoạn mục. Kẻ bị truy bắt là một chú gà trống tơ, và người truy bắt là các anh dân phòng. Các anh tay cầm đủ loại dụng cụ nào dây nào gậy, có cả chó, súng bắn hơi và giàn ná thun. Chú gà chạy cuống quít rồi bay đậu trên một mái hiên, trong cơn sợ hãi không dưng nó lại trỗi lên một tràng tiếng gáy cao lảnh lót. Sau cùng chú bị bắn hạ, viên sỏi của tay thiện xạ làm vỡ toang đầu tóe máu, nó lảo đảo rơi xuống, giãy thêm vài cái để từ giã cuộc đời. Các anh dân phòng bỏ xác gà vào chiếc bị cói mang đi. Liền lúc đó có người phát hiện ra mấy chú bồ câu quanh đó cũng nguy hiểm không kém và cũng cần bắn hạ. Các xạ thủ tiếp tục nhắm vào mục tiêu mới.
Không phải chỉ từ bây giờ vì lý do bệnh dịch mà các loài chim bị giết, trước đây người ta cũng mang súng đi săn chim trong thành phố, có khi vì miếng thịt bé xíu, có khi vì để thỏa mãn một khoái cảm man rợ. Có người cho rằng loài chim sâm cầm, vốn có rất nhiều và là một loài chim quý, đã bị giết hết, hoặc đã bỏ đi khỏi Hà Nội. Sâm cầm chỉ còn hiện diện trong lời hát và ký ức của con người. Trong những ngày vừa qua trên tivi, tôi cũng xem người ta tổ chức những đội xạ thủ đi bắn các loài chim và bồ câu nuôi. Đành rằng đó là việc phải làm, nhưng dẫu sao cũng thật đáng buồn. Bạn tôi đùa tếu, cứ theo tình trạng này thì sẽ có một ngày các loài chim muông nói chung, và loài gà nói riêng, phải tuyệt chủng. Khi đó, nếu con cháu chúng ta được hỏi những thông tin về loài gà, có thể chúng sẽ nhầm lẫn gà mái dầu với các em gà móng đỏ trong các nhà hàng đặc sản!
Một trong những nơi tôi thích ngồi cà phê khi rỗi là quán Phố Hoài, quán nằm trong con hẻm trên đường Huỳnh Tịnh Của, thuộc quận 3. Trong sân là một cây xoài lớn vươn bóng che mát, bàn ghế chỉ để vài bộ, trên tường có treo nhiều tranh đẹp. Giữa nhịp sống rộn ràng của Sài Gòn, ông chủ quán, cũng là nhà thơ Huy Tưởng, lại có phong thái từ tốn, điệu nghệ rất duy mỹ. Tôi thích đến anh chơi vì ngoài việc quán có cà phê thơm đậm, có các món ăn của xứ Quảng được chế biến tinh tế, ngôi nhà mát bóng cây yên tĩnh vào buổi sáng, thì anh còn có rất nhiều câu chuyện thú vị để làm quà cho khách quen. Anh mê nuôi chim, nhưng không nuôi nhiều, lúc nào cũng chỉ có hai hay nhiều nhất là ba con để làm vui. Tôi nhớ trước đây anh có nuôi một con sáo, nó có tài nhái theo những âm thanh nghe được. Anh gõ muỗng hay gõ chiếc chìa khóa vào thành ly, vào cạnh bàn, hay đáy dĩa... nó liền bắt chước đúng y theo tiếng động đó, tinh tế đến độ tiếng thanh ra tiếng thanh, tiếng đục ra tiếng đục, cường độ và trường độ cũng không khác gì âm thanh gốc. Bẵng đi một dạo, tôi ghé lại không thấy sáo, hỏi thì anh cho biết nó đã qua đời. Anh không nói con chim chết đi, nhưng nói rằng sáo đã qua đời như đang nói về một con người mà anh yêu quý, với giọng thoáng ngậm ngùi. Bất giác tôi gõ muỗng vào thành ly, không có tiếng nhái theo như trước, duy có cậu hầu bàn bước ra hỏi tôi cần gì.
Tôi xin phép được ra khỏi câu chuyện về chim một chút. Kỳ lạ, thường thì sinh vật nào cũng khao khát tự do, nhưng có khi chúng có được tự do thì lại không biết phải làm gì với tự do. Phải chăng tự do không phải luôn luôn là điều quý giá và cần thiết cho tất cả mọi sinh vật và trong mọi hoàn cảnh. Tôi nhớ trong một bộ phim, người tù mang án chung thân được tha, ông không thể thích ứng và hội nhập lại với xã hội, bèn tìm cách phạm tội để được trở lại nhà tù, nhưng lại thất bại. Sau cùng, ông treo cổ tự tử vì tuyệt vọng cho tình trạng có tự do của mình.
Từ khi nạn dịch đe dọa, tiếp tục nuôi chim thì rắc rối quá, nào là e ngại mất khách vì họ sẽ lo sợ, nào là các nhân viên phòng chống dịch trong địa phương sẽ làm khó dễ, nhưng giết chim thì không đành. Anh bèn mở lồng thả cho chúng bay đi. Hai con chim, một sáo và một sơn ca, rụt rè bay ra, bỡ ngỡ với bầu trời cao rộng nhưng xa lạ. Suốt buổi sáng chúng không dám bay xa, chỉ quanh quẫn trên tàn lá cây xoài, rồi chăm chăm bay trở lại vào lồng. Con mèo hàng xóm nhác thấy liền phục kích vồ bắt, may mà người nhà kịp phát hiện cứu thoát. Anh hiểu ra rằng hai con chim đã như tình trạng của người tù bất hạnh trong chuyện phim kia, chúng không còn khả năng kiếm mồi và sinh tồn bên ngoài chiếc lồng. Không còn cách nào khác, anh mang cất hai chiếc lồng chim trong gian phòng trên lầu. Anh cẩn thận chăm sóc chúng rất kỹ, hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, chẳng những là cách ly chúng với các loài chim trời, mà còn với cả mọi người. Thông thường chim sơn ca chỉ hót khi nó vui, thường là vào buổi sáng khi được chơi ngoài nắng ấm. Từ khi bị nhốt trong phòng kín, không còn nắng gió sương mưa thì chim biếng hót hẳn. Tuy nhiên có hôm chim cao hứng, bất ngờ cất tiếng hót, anh phải mang nhốt nó vào toilet rồi tắt đèn, đóng cửa lại cho tiếng hót phải tắt đi. Ôi là buồn, chẳng những chỉ nhốt chim, mà còn đành lòng phải giam kín cả tiếng hót.
Anh kể, sơn ca thích tắm cát, thỉnh thoảng người ta trải một lớp cát mỏng dưới đáy lồng, chim xù lông dùng chân bươi cho cát bắn lên thân lấy làm thích thú. Anh có người bạn cũng nuôi sơn ca, vì mê mải xem chim tắm mà ghé mặt lại gần để quan sát, thì bị cát bắn vào mắt gần phải lòa. Sau, ông này cho người làm mang thuốc trừ sâu xịt vào lồng giết chim, con chim hồn nhiên ngỡ rằng được xịt nước tắm, vui mừng nhảy nhót lần cuối, vui mừng cho bi kịch của chính mình, rồi ngã ra giãy chết. Sơn ca còn được gọi bằng các tên khác tùy theo từng địa phương. Miền Bắc ngoài là sơn ca, nó còn được gọi là chim cà đơi. Miền Trung có nơi gọi là chim chiền chiện. Nhưng lạ và ít người biết, là nó còn được gọi là thăng ca. Được gọi là thăng ca vì khi hót nó thường bay lên, vừa bay vừa xoay thân theo chiều thẳng đứng, người nghe phải ngước mắt nhìn lên theo, và nếu chim được tự do bay bên ngoài trời, tầm mắt người sẽ chạm đến bầu trời xanh, tiếng hót xanh trời là thế.
Sáng nay quán vắng khách, chìu lòng tôi thích nghe tiếng hót, anh nhờ người nhà lên lầu mang lồng sơn ca xuống. Lồng chim làm bằng nan tre vót, chính giữa có dựng chiếc bệ nhỏ như một sân khấu. Anh giải thích rằng chim chỉ nhảy lên chiếc bệ đó khi hót thôi, như một danh ca thượng thặng lên sân khấu trình diễn trước công chúng, rồi sau khi hót xong thì nhảy xuống khỏi bệ, trở lại với những sinh hoạt đời thường. Vừa được treo lồng lên cành cây, chú chim e dè giây lát rồi mừng rỡ nhảy lên chiếc bệ nhỏ. Nó xù lông làm điệu đón ánh nắng, rồi ưỡn cổ cất lên từng tràng âm thanh trong vắt pha lê, từng tràng từng tràng âm thanh quấn quít nhau, từng chuỗi sóng tuyệt diệu đuổi bắt nhau, làm xao động cả không gian. Xong điệu hót, chiếc lồng lại được gỡ xuống mang trở lên lầu.
Tôi đã được nghe tiếng hát của một danh ca được truyền tụng là có làn hơi kiêu sa của loài họa mi. Tôi cũng được nghe tiếng hát của một danh ca khác có tên là sơn ca. Nhưng có những buổi sáng tôi bắt gặp mình chờ nghe một tiếng hót, tiếng hót qua mùa đại dịch, tiếng hót thăng ca. Con người vẫn cần có tiếng hót đấy chứ.